Phân tích vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần trong bài thơ to lòng của Phạm Ngũ Lão

Có thể nói, bài thơ Tỏ Lòng [Thuật hoài] đã trình bày vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại nhà Trần 1 cách rõ nét. Trong bài viết này Hoatieu xin san sớt dàn ý phân tách vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần qua bài thơ Tỏ Lòng cùng các bài văn mẫu hay tuyển lựa về vẻ đẹp con người và thời đại qua bài thơ Thuật Hoài hay và cụ thể, mời các bạn cùng tham khảo.

  • Top 8 mẫu phân tách bài thơ Tỏ lòng hay nhất

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão, bài thơ Tỏ lòng.

– Dẫn dắt tới nội dung cần phân tách: vẻ đẹp của con người và quân đội nhà Trần.

II. Thân bài

1. Vẻ đẹp của con người

– Tư thế “hoành sóc”: cầm ngang ngọn giáo

Ngọn giáo: Là vũ khí đấu tranh của quân đội thời trước

Tay cầm ngang ngọn giáo: trình bày sự chủ động, tự tin

So sánh mở mang với bản dịch thơ của Trần Trọng Kim: là “múa giáo”: mang tính hình ảnh, hoa mĩ, thích hợp với vần nhịp mà chỉ trình bày được hành động khoa trương, trình diễn bên ngoài, ko nói lên được được sức mạnh nội lực bên trong.

=> Tư thế chủ động, tự tin cũng như đầy bền chí, hiên ngang, chuẩn bị đấu tranh và thắng lợi.

– Tầm vóc của người người hùng trình bày qua ko gian, thời kì:

Không gian: “Giang sơn” – tổ quốc, bao la. Nam nhi thuở trước thường nói chí tỏ lòng qua ko gian vũ trụ bao la.

Thời gian: “kháp kỉ thu”: Con số ước lệ biểu trưng cho thời kì dài, bất tận.
=> Khẳng định tầm vóc to lao, kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, lấn lướt cả ko gian và thời kì của người người hùng nhà Trần. Họ như những dũng tướng oai phong, lẫm liệt.

2. Vẻ đẹp của quân đội nhà Trần

– Tiềm lực quân đội: “Tam quân” – 3 quân tiền quân, trung quân, hậu quân: Ý chỉ quân đội nhà Trần, tiềm lực quân sự của cả dân tộc.

=> Nhấn mạnh sự mạnh bạo, vững vàng của quân đội nhà Trần.

– Khí thế đội quân:

“Tam quân” so sánh với “tì hổ”: Hổ báo là chúa tể rừng xanh, so sánh nhằm nhấn mạnh tiềm lực sức mạnh hùng dũng của quân đội nhà Trần là nỗi khiếp đảm của kẻ thù.

Tác giả làm rõ sức mạnh đấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu” có 2 cách hiểu: Khí thế 3 quân hùng mạnh nuốt trôi trâu hoặc khí thế hào hùng ngút trời làm mờ sao Ngưu.

=> Cho thấy khí thế hùng dũng, hào dùng ngút trời, ý thức “sát thát” của quân đội nhà Trần được chi tiết hóa bằng những hình ảnh ước lệ.

III. Kết bài

– Khẳng định lại vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần trong bài thơ Tỏ lòng.

– Bình chọn chung về bài thơ Tỏ lòng.

Mỗi sáng tác văn chương luôn in đậm dấu ấn thông minh của người nghệ sĩ. Nhưng nói tương tự ko có nghĩa trong nó ko còn đó dấu ấn thời đại, ko đề đạt hình ảnh con người thời đại đấy. Bàn về bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đánh giá: Nói ngắn gọn, nói chung, bài “Thuật hoài” trình bày vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại.

Có thể nói, trong các triều đại phong kiến Việt Nam, nhà Trần là triều đại để lại nhiều dấu ấn lịch sử đáng ghi nhớ nhất. Ba lần quân Nguyên Mông – đế quốc phong kiến to nhất thời bấy giờ cất quân xâm lăng nước ta là 3 lần chúng thất bại thảm hại trước sức mạnh của quan quân nhà Trần. Chính thời đại đấy un đúc nên những con người lớn lao và quay về, con người lại làm vang dội cho thời đại sản sinh ra mình. Trong lịch sử Việt Nam trước đấy, có nhẽ chưa lúc nào người ta bắt gặp hình tượng con người kì vĩ trong văn học thế này:

Hoành sóc nước nhà kháp kỉ thu,

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

[Cầm ngang ngọn giáo giữ giàng tổ quốc đã mấy thu,

Ba quân như hổ báo, khí thế dũng mãnh nuốt trôi trâu.]

Ngay lúc khởi đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã gieo vào lòng người đọc ấn tượng về con người phi thường, con người đồ sộ. Sự phi thường của con người được trình bày ngay trong hành động hoành sóc. Con người thời Trần bác bỏ hành động phổ biến [cẩm giáo, múa giáo] nhưng phải là cầm ngang ngọn giáo. Phcửa ải hoành sóc thì mới uy phong, lẫm liệt, thì mới hùng dũng, hiên ngang. Phcửa ải hoành sóc thì mới đầy thử thách, ngạo nghễ. Phcửa ải hoành sóc thì mới trình bày rõ ý thức chủ động trấn giữ. Và có nhẽ trận mạc, trận địa chưa phải là ko gian trình bày được hết tầm vóc béo to của con người thời đại này nên Phạm Ngũ Lão chọn lọc cả nước nhà bao la. Tương hợp với ko gian cao rộng rộng lớn là thời kì trường cửu kháp kỉ thu. Chiếc giáo của con người thời đại như đo được cả bề rộng, chiều dài vũ trụ. Theo đấy, chủ thể của hành động, chủ sở hữu của cây trường giáo cũng vì vậy nhưng trở thành kì vĩ khôn xiết. Trong câu thơ đầu này, hình tượng con người được khắc họa ở khí phách hiên ngang. Khí phách đấy được nhân lên gấp bội lúc Phạm Ngũ Lão nói về đội quân hùng mạnh vô song của mình ở câu thơ thứ 2. Chỉ bằng phép so sánh [ì hổ] và nghệ thuật ẩn dụ [Khí thôn ngưu], thi sĩ đã lột tả 1 cách chân xác, hùng tráng về khí thế cường địch, vũ bão của quân đội nhà Trần. Tướng quân họ Phạm có phần cường điệu lúc đem sức mạnh các loài dã thú để nói về sức mạnh con người thời đại mình. Nhưng tất cả có thể lí giải từ niềm tin, niềm kiêu hãnh về đội quân của ông.

Con người thời đại Đông A ko chỉ đẹp trong tư thế, khí phách nhưng còn đẹp hơn nữa trong tư tưởng, trong tư cách:

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính dương gian thuyết Vũ hầu.

[Thân đại trượng phu nhưng chưa trả xong nợ công danh,

Thì luống thẹn thùng lúc nghe thiên hạ kể chuyện Vũ hầu.]

Có thể coi 2 câu trên là lời tự bạch của thi sĩ. Khi viết những dòng này, Phạm Ngũ Lão đã là 1 tướng quân, công danh có phần hiển hách, so với đời có nhẽ ông chẳng hề cúi đầu hổ hang. Thế mà ông vẫn tự nhận mình chưa trọn nợ công danh. Trong tâm niệm của ông, có nhẽ 2 chữ công danh kia, có nhẽ chí làm trai kia phải vẹn đầy hơn nữa. Không thoả nguyện với những gì mình đã đạt được là lí do khiến Phạm Ngũ Lão “thẹn” với Gia Cát Khổng Minh. Tự sánh mình với bậc kì tài trong lịch sử Trung Hoa để trông thấy những điều mình chưa làm được – điều đấy trình bày sự can đảm, trình bày tư cách cao đẹp của con người. Cái “thẹn” của Phạm Ngũ Lão là cái thẹn làm nên tư cách. Phạm Ngũ Lão cúi mình trước bậc kì tài thời trước cũng như Cao Bá Quát sau này chỉ cúi mình trước vẻ thanh cao của hoa mai [Nhất sinh đê thủ bái mai hoa]. Những cái cúi đầu đấy ko hạ thấp địa vị, tư cách con người nhưng càng tôn cao, tôn thêm tư cách, vẻ đẹp tỉnh thần ở họ. Ta còn có thể đọc trong lời thơ 1 niềm khao khát mãnh liệt – khao khát được lập những chiến công hiến hách cho tổ quốc, cho dân tộc. Hoài bão đấy, ý chí đấy, lí tưởng đấy góp phần khắc hoạ vẻ đẹp xuất sắc của hình tượng con người thời đại nhà Trần.

Mỗi con người, theo đúng nghĩa của nó, sinh ra, to lên trong thời đại của mình đều mong muốn góp phần điểm tô, làm tỏa sáng cho thời đại đấy. Theo đấy, chân dung mỗi thời đại sẽ được đề đạt qua hình tượng con người trung tâm. Đọc Thuật Hoài , chúng ta có thể tưởng tượng thời đại nhà Trần là thời đại khổng lô, thời đại hào hùng, âm vang hào khí dân tộc. Hào khí đấy ko chỉ dậy lên từ những tiếng đồng thanh “Đánh! Đánh!” của các cố lão trong hội nghị Diên Hồng, ko chỉ được phất lên từ lá cờ thêu 6 chữ vàng “Phá cường địch báo hoàng ân” của người người hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, ko chỉ được khắc bằng 2 chữ “sớ/ £hớt” trên cánh tay mỗi tráng sĩ… nhưng còn được trình bày đậm nét trong lời thơ Phạm Ngũ Lão. Hình ảnh con người trầm mặc nghĩ suy về ý chí, lí tưởng, hoài bão của mình là sự khúc xạ tuyệt đẹp của chân dung thời đại.

Thuật hoài có mặt trên thị trường đã hàng nghìn 5 nay mà dấu ấn về con người, và thời đại Đông A lại cực kỳ gần cận, xinh tươi trong mỗi chúng ta. Mỗi ngày mỗi người sẽ bận bịu hơn với những công tác của mình, thật khó để có thể lật lại những trang sử cũ. Nhưng chỉ cần đọc bài thơ 2 mươi 8 chữ của Phạm Ngũ Lão, chúng ta sẽ đã dàng cảm thu được quá lkhứ hào hùng của ông cha.

Thơ như đôi cánh nâng tôi bay

Thơ là vũ khí trong trận đấu”

[Raxun- Gamzatốp]

Quả thật vậy, trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã có ko ít những tác phẩm văn chương từng mang lại biết bao sức mạnh và niềm tin cho nhiều lứa tuổi. Và 1 trong số những tác phẩm đấy chính là bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Khúc tráng ca lẫm liệt đấy luôn khơi dậy trong mỗi tâm hồn Việt Nam niềm tin và ý thức quyết thắng trước mọi thần thế xâm chiếm. Sức mạnh biến chuyển đấy đã ngời toả ngay từ vẻ đẹp người người hùng thời Trần- kết tinh hùng tâm tráng chí của dân tộc Việt Nam.

Tác giả của “Tỏ lòng” – Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông có công to trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Nguyên, từng làm tới chức Điện Súy và được ngợi ca là văn võ toàn tài. Phạm Ngũ Lão chỉ để lại 2 bài thơ [“Thuật hoài” và “Vãn Thượng tể tướng công Hưng Đạo Đại Vương”], mà danh tiếng của ông vẫn đứng cùng ngang hàng với những tác gia tiếng tăm nhất của văn chương đời Trần. Và có mặt trên thị trường trong bối cảnh cả dân tộc Đại Việt đang sôi sục khí thế “Sát Thát”, bài thơ “ Thuật hoài” chính là bức chân dung tự họa về vẻ đẹp của con người trong thời đại hào khí Đông A.

Trước hết, bài thơ “Thuật hoài” đã gợi ra hình ảnh người người hùng thời Trần với vẻ đẹp đầy hùng tâm, tráng chí. Tác giả đã khắc hoạ hình ảnh kỳ vĩ của người người hùng cứu nước trên nền hào hùng của thời đại. Người người hùng đấy thật mạnh bạo, bền gan vững chí trong hành trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc:

“Hoành sóc nước nhà kháp kỉ thu

[Múa giáo tổ quốc trải mấy thu]”

Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang 1 tầm vóc, tư thế, hành động to lao mạnh bạo. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ tổ quốc. Cây trường giáo đấy chừng như được đo bằng chiều ngang của tổ quốc. Nghĩa là chủ sở hữu cầm cây giáo đấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. So với bản phiên âm, phần dịch thơ vẫn chưa diễn đạt được cực kỳ mạnh, vẻ đẹp của tráng sĩ. Trong bản phiên âm, vẻ đẹp hiên ngang, lẫm liệt được trình bày ở ngay tư thế“Hoành sóc”- cầm ngang ngọn giáo. Còn ở bản dịch thơ mới chỉ dịch là “Múa giáo”, là hành động gợi sự phô diễn, phô trương… chưa trình bày được hết sự kì vĩ, chắc chắn. Sự kì vĩ đấy càng hiện rõ trong mối quan hệ với ko gian và thời kì: ko gian mở ra theo chiều rộng núi sông, thời kì được đo đếm bằng mùa, 5 [kháp kỷ thu]chứ đâu phải chỉ trong giây khắc

Hơn nữa, sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng người người hùng càng được nâng lên qua khí thế hào hùng của thời đại:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

[Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu]”

Hình ảnh “3 quân” là để nói về quân đội nhà Trần mà cùng lúc còn là hình tượng biểu tượng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây nghệ thuật so sánh đã vừa chi tiết hoá sức mạnh vật chất 3 quân [mạnh như hổ báo] vừa hướng đến nói chung hoá sức mạnh ý thức của đội quân mang hào khí Đông A [khí thế át sao trời]. Ở câu thơ này, phần dịch thơ với cụm từ “nuốt trôi trâu” cũng chưa diễn đạt được cực kỳ mạnh của quân đội như “khí thôn ngưu” trong bản phiên âm.

Hình ảnh 3 quân với khí thế hùng dũng này chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ “hoành sóc”. Và tự bản thân hình ảnh “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” đã khẳng định sự tất thắng của dân tộc trước kẻ địch xâm chiếm.

Như vậy, 2 câu thơ đầu đã trình bày sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ hữu cơ giữa người người hùng và thời đại người hùng, giữa 1 công dân người hùng và 1 dân tộc người hùng.

Không chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng, hình tượng người người hùng còn đẹp bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đấy là con người ủ ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng sống nhưng ông hướng đến là đánh giặc lập công để đền ơn vua, báo nợ nước. Lý tưởng cao đẹp đấy được trình bày qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân:

“Công danh nam tử còn vướng nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Hai câu thơ đã trình bày hùng tâm, tráng chí của người người hùng thời Trần. Đấy là lí tưởng sống của bao trang đại trượng phu thời phong kiến.

“Đã mang tai mang tiếng ở trong trời đất

Phcửa ải có danh gì với sông núi”

[Nguyễn Công Trứ]

Hay ý chí hiên ngang của bậc lão người hùng trong “Cảm hoài”:

“Quốc thù chưa trả già sao vội

Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy”

[Đặng Dung]

Câu thơ của Phạm Ngũ Lão đã nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Và ý thơ cũng ẩn chứa 1 lời thề trọn đời góp sức, lao vào cho vương triều nhà Trần, cho tổ quốc tổ quốc Đại Việt. Hùng tâm tráng chí của người người hùng được trình bày ở ngay nỗi “thẹn”- thẹn chưa có tài mưu lược to như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Đây là cách nói trình bày khát vọng, hoài bão được đem hết tài trí để góp sức cho tổ quốc. Sau này trong văn học, chúng ta cũng bắt gặp những cái “thẹn” rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

[Thu vịnh]

Với Nguyễn Khuyến đấy là cái “thẹn” của 1 nhà nho – nghệ sĩ. Còn trong “Thuật hoài” là nỗi thẹn của bậc người hùng – nghệ sĩ.

Và vẻ đẹp của người người hùng “Sát Thát” đấy được Phạm Ngũ Lão khắc họa bằng văn pháp rất rực rỡ: tiếng nói hoa lệ, kĩ vĩ, gợi ra phết vóc của những người người hùng thần thoại, những người dũng sĩ trong sử thi…. Đặc thù, là bài thơ tỏ chí, tỏ lòng mà không phải khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu trưng, súc tích, giàu ý nghĩa.

Chính bởi văn pháp nghệ thuật rực rỡ tương tự, tác giả đã sáng hình thành hình tượng người người hùng thật giàu ý nghĩa. Bài thơ là bức chân dung tự hoạ của người dũng tướng thời Trần đầy hào hùng, trên cái nền tổ quốc chan chứa sức mạnh bất khuất. Hơn nữa, hình tượng thơ là kết tinh của ý thức yêu nước và phẩm giá người hùng của con người Việt Nam. Bởi thế cộng với “Hịch tướng sĩ” [Trần Quốc Tuấn], “Tụng giá hoàn kinh sư” [Trần Quang Khcửa ải], bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão sáng ngời hào khí Đông A.

Với vẻ đẹp rực sáng đấy, hình tượng người người hùng đời Trần chính là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại . Trước hết, vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt của người tráng sĩ luôn khơi dậy trong mỗi chúng ta tinh thần đoàn luyện, tu dưỡng về mặt thể chất. Hơn thế, ý chí được trình bày qua nỗi “thẹn” của người người hùng chính là kim chỉ nam định hướng lí tưởng sống cho mỗi người. Vậy nỗi ‘thẹn” của Phạm Ngũ Lão có thể hiểu như thế nào? Trước hết, đấy có thể là vì lòng yêu nước cực kỳ thâm thúy, tinh thần nghĩa vụ với nước nhà quá to lao làm cho tác giả ko ưng ý với công tích của mình. Cũng có thể đấy là vì lòng khiêm tốn rất thật tình nhưng thấy công tích của mình ko đáng kể. Hoặc vì lý tưởng sống của chàng thanh niên yêu nước này quá hào hùng với khát vọng vươn đến những đỉnh cao chiến công khiến ông ko chấp nhận với thành tựu của mình.

Thế mà, dù vì lý do gì đi nữa thì sự hổ hang của Phạm Ngũ Lão vẫn là sự hổ hang cao quý, hữu dụng. Bởi nó là nguồn động lực để con người ko dừng vươn đến những đỉnh cao chiến công chứ ko ngủ quên trong quang vinh ngày nay. Trong cuộc sống hiện tại, mỗi người cần sống có lý tưởng, hoài bão có mục tiêu cao đẹp, bởi : “Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dầu nó vẫn thường gây nên những cơn giông tố” [Safontaine] và “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường, ko có lý tưởng thì ko có phương hướng kiên cường nhưng ko có phương hướng thì ko có cuộc sống” [Leptônxtôi]. Chính vì thế, mỗi người hãy hướng đến lý tưởng sống cao đẹp hiện nay là góp sức cuộc đời cho sự nghiệp “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bình, tân tiến”. Hãy luôn đoàn luyện, nỗ lực làm việc tận tụy và góp sức hết mình.

Là lứa tuổi mùa xuân của tổ quốc, tuổi xanh chúng ta càng phải xác định được lý tưởng sống của mình: “Sống là cho chết cũng là cho” [Tố Hữu]. Tuổi trẻ cần cảnh giác với tâm lý, hoặc là tự thoả nguyện với chút công tích của mình hoặc yêu cầu tổ quốc phải “trả công” cho mình. Hãy xác định đóng góp công lao để xây dựng tổ quốc là bổn phận thiêng liêng và đừng hỏi đất nước đã làm gì cho ta nhưng hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ Quốc” . Đặc thù giờ đây lúc tổ quốc đang còn nhiều gian truân, đang phải “neo mình đầu sóng cả”, mỗi người hãy nhận thức được đúng mực vai trò của mình. Mũi khoan Hải Dương 981 xoáy vào thềm đất liền “Non sông” nhói đau từ biển lên rừng, buốt tim 90 triệu người dân Việt. Và bởi nước “Việt Nam là 1, dân tộc Việt Nam là 1. Sông có thể cạn, núi có thể mòn mà chân lý đấy sẽ ko bao giờ chỉnh sửa”. [Hồ Chí Minh]. Chính vì thế, toàn bộ dân tộc Việt Nam, nhất là tuổi xanh trên dưới 1 lòng, nguyện đem tất cả tính mệnh, tài sản để giữ vững nền tự do, độc lập đấy” [Hồ Chí Minh].

Kế bên đấy, cũng cần phải phê phán những con người có lối sống vị kỷ, ko có lý tưởng, mục tiêu sống. Bởi tương tự là họ đang tự huỷ hoại chính bản thân, cuộc sống của họ “đang rỉ đi, đang mòn ra, đang nổi váng”.

Như vậy mỗi người chúng ta hãy luôn sống có lý tưởng, khát vọng, tư cách cao đẹp. Và hình tượng người người hùng thời Trần với vẻ đẹp kỳ vĩ, lẫm liệt, với lý tưởng sống góp sức sẽ luôn cháy sáng trong mỗi tâm hồn Việt Nam. Đấy cũng là hành trang quý giá nâng bước cho mỗi chúng ta trên tuyến đường xây dựng và bảo vệ tổ Quốc. Tiếp bước truyền thống của ông cha, giờ đây lúc “Đất nước đang bão giông từ biển”, nêu cao tư tưởng nhơn nghĩa chúng ta nguyện giữ nguyên lành hình hài đất nước bằng ý thức hòa hiếu nhất. Song , vì sự vẹn toàn bờ cõi, chúng ta cũng chuẩn bị chấp thuận những mất mát, những hy sinh 1 lúc ko còn tuyến đường nào khác. Và khắc ghi lời dặn của ông cha, chúng ta nguyện đưa con tàu đất nước vượt qua mọi phong 3 bão tố:

“Hồn dân tộc nghìn 5 ko chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”.

[Nguyễn Việt Chiến]

Giữa những ngày “Đất nước đang bão giông từ biển” thi sĩ Nguyễn Việt Chiến đã suy cảm:

“Nếu Tổ Quốc bữa nay nhìn từ biển

Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng

Sóng lớp lớp đè lên thềm đất liền

Trong hồn người có ngọn sóng nào ko”

Vâng! Mỗi lúc Tổ Quốc “chợp chờn bóng giặc” trong mỗi tâm hồn Việt Nam ý thức dân tộc lại dậy sóng, “nó kết thành 1 làn sóng cực kỳ mạnh bạo..” [Hồ Chí Minh]. Những “ngọn sóng” yêu nước đấy đã kết tinh hình thành cả 1 dòng mạch văn học yêu nước tuôn chảy suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Trên dòng mạch đấy, để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là những áng văn của thời đại hào khí Đông Á nhưng điển hình là bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Qua những vần thơ hào hùng đấy, hình tượng người người hùng thời Trần hiện lên thật kì vĩ, to lao lúc tỏ chí, “Tỏ lòng”.

Bài thơ “Tỏ lòng” đã gợi ra hình ảnh người dũng tướng thời Trần đầy hùng tâm tráng chí. Trước hết, tác phẩm đã khắc họa hình ảnh kì vĩ của người người hùng cứu nước trên cái nền của thời đại. Người tuấn kiệt đấy thật mạnh bạo bền gan vững chí trong hành trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang tầm vóc, tư thế, hành động to lao, mạnh bạo: “Hoành sóc nước nhà, kháp kỉ thu”. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ tổ quốc, cây trường giáo đấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. Sự kì vĩ càng hiện rõ trong mối quan hệ giữa ko gian và thời kì, ko gian mở ra theo chiều rộng núi sông, thời kì đâu phải giây khắc nhưng là đã mấy 5 rồi [kháp kỉ thu]. Tuy nhiên, trong bản dịch thơ vẻ đẹp hoa lệ của người người hùng chưa lột tả hết được so với nguyên tác. Từ “múa giáo” chưa diễn đạt được hết sự hào hùng mạnh bạo của tư thế “hoành sóc” .

Sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng, người người hùng “hoành sóc” càng được nâng lên qua khí thế quật khởi của thời đại ở câu thơ thứ 2: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Hình ảnh 3 quân là để nói về quân đội nhà Trần mà cùng lúc còn là hình tượng biểu tượng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây, nghệ thuật so sánh đã vừa chi tiết hóa sức mạnh vật chất của 3 quân [mạnh như hổ báo] vừa hướng đến nói chung hóa sức mạnh ý thức của đội quân mang hào khí Đông Á [khí thế át sao trời]. Trong bản dịch, câu thơ: “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” mới chỉ đề cập sức mạnh vật chất của quân đội “nuốt trôi trâu” chứ chưa nói chung được khí thế át sao ngưu.

Hình ảnh 3 quân với khí thế hùng dũng, sức mạnh toàn diện như câu thơ trong bản phiên âm chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ “hoành sóc”. Hai câu thơ đầu đã trình bày sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ hữu cơ giữa người người hùng và thời đại người hùng, giữa 1 công dân người hùng và 1 dân tộc người hùng.

Hình tượng người người hùng ko chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng nhưng còn bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đấy là con người ủ ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm ngũ Lão, lí tưởng sống nhưng ông hướng đến là đánh giặc lập công danh để đền ơn vua, báo nợ nước. Hoài bão cao đẹp đấy được trình bày qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính dương gian thuyết Vũ Hầu”.

Hai câu thơ trình bày hùng tâm tráng chí của người người hùng thời Trần. Hai câu thơ nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Sâu xa hơn, ý thơ còn ẩn chứa 1 lời thề trọn đời góp sức lao vào cho vương triều nhà Trần – cho non sống tổ quốc Đại Việt. Vẻ đẹp trong tâm hồn tư cách của người dũng tướng được trình bày ngay ở nỗi “thẹn”. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược to như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Phạm Ngũ Lão cảm thấy “thẹn” có thể là do khát vọng, hoài bão được góp sức cho tổ quốc cực kỳ to, nên công danh của ông lập được còn bé bỏng. Hoặc bởi tổ quốc khi bấy giờ đang còn nhiều gian truân, Phạm Ngũ Lão tự thấy công tích của mình chưa đủ giúp nước,… Xong, dù lí do đi chăng nữa thì cái “thẹn” của tác giả vẫn rất cao đẹp. Nỗi “thẹn” đấy sẽ là động lực để chúng ta tiếp diễn nỗ lực, quyết tâm vươn lên trong cuộc sống. Nói về nỗi “thẹn” của bản thân cũng chính là cách nói trình bày khát vọng hoài bão được đem hết tài trí của mình để góp sức cho tổ quốc. Sau này trong văn học, chúng ta cũng bắt gặp những cái “thẹn” rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến:.

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút.

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

[Thu vịnh].

Vẻ đẹp hoa lệ của hình tượng người người hùng thời Trần trong “Tỏ lòng” được trình bày bằng văn pháp nghệ thuật rực rỡ. Hình tượng người người hùng “sát Thát” được trình bày bằng tiếng nói hoa lệ, kì vĩ gợi ra phết vóc của những người người hùng trong thần thoại và người dũng tướng trong sử thi. Không chỉ vậy, đây là bài thơ chí., “Tỏ lòng” mà không phải khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu trưng súc tích, giàu ý nghĩa.

Với nghệ thuật rực rỡ, bài thơ đã khắc họa của người dũng tướng thời Trần đầy háo hức trên cái nền tổ quốc đang chan chứa sức mạnh bất khuất. Hình tượng thơ là kết tinh của ý thức yêu nước và phẩm giá người hùng của người Việt Nam. Cộng với “Hịch tướng sĩ” [Trần Quốc Tuấn], “Tụng giá hoàn kinh sư” [Trần Quang Khcửa ải], bài thơ “Thuật hoài” của [Phạm Ngũ Lão] luôn sáng ngời hào khí Đông A.

Hình tượng người người hùng thời Trần với vẻ đẹp kì vĩ đấy là tấm gương sáng cho lứa tuổi sau trong hành trình bảo vệ Đất nước. Trong lịch sử Phạm ngũ Lão đã có cái “thẹn” rất cao đẹp để trình bày khát vọng to lao của mình. Hoài bão được góp sức cho Đất nước. Hay như Đặng Dung luôn sôi sục lí tưởng giúp vua đuổi kẻ thù ra khỏi lãnh thổ:

“Giúp chúa những lãm giằng cốt đất.

Rửa dòng chẳng thể vén sông mây”

Chúng ta hãy biết nối tiếp truyền thống người hùng của các bậc tiền nhân trong lịch sử. Mỗi con người sống phải có lý tưởng, hoài bão cao đẹp. Khát vọng xinh tươi nhất của mỗi công dân là góp sức cho tổ quốc. Hiến dâng cho Tổ Quốc ko nhất quyết là cầm gương, cầm súng…đứng dậy chiến đấu nhưng phải tùy từng cảnh ngộ để có những hành động thích hợp. Giúp cho non sông có thể là những việc làm to lao, mà cũng có thể là những hành động bé bỏng, bình dị như bảo vệ môi trường, nỗ lực học tập. Khi đã có những góp sức thì chúng ta phải biết khiêm tốn, ko được kiêu ngạo: “Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta nhưng hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc bữa nay”. Nhất là trong tình hình tổ quốc hiện tại, lúc mũi khoan của Trung Quốc đang ngang nhiên xoáy vào thềm đất liền chúng ta, những công dân của tổ quốc người hùng hãy cùng nhau giữ lấy chủ quyền non sông chủ quyền biển đảo đấy là phần gia tài nghèo khổ nhưng từ nghìn đời xưa cha ông ta đã ko tiếc máu xương để khai hoang, giữ giàng và truyền lại cho con cháu. Vì thế con dân nước Việt sẽ ko để 1 phần bờ cõi nào rơi vào tay kẻ xâm lăng.

Bác Hồ đã từng nói: “1 5 kể từ mùa xuân. Đời người bắt đầu từ tuổi xanh, tuổi xanh là mùa xuân của xã hội”. Chính do vậy, lứa tuổi thanh niên càng phải sống hợp lí tưởng, có khát vọng. Người thanh niên hãy đem sức trẻ của mình để góp sức, bảo vệ Tổ Quốc .

Kế bên những người dành hết “chiếc bánh thời kì” của mình vào công việc xã hội thì vẫn có những người chỉ biết sống vì mình, ko ân cần tới mọi người. Những con người đấy cần phải phê phán.

Giữa những ngày biển Đông đang dậy sóng này, ta lại càng thêm yêu những áng văn yêu nước như “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ đã khắc họa được chân dung người người hùng thời Trần với biết bao vẻ đẹp. Vẻ đẹp đấy sẽ là ánh sáng soi rọi cho các lứa tuổi sau. Tiếp bước truyền thống người hùng của dân tộc, chúng ta nguyện sẽ “giữ từng thước đất – Máu xương này con cháu vẫn khắc ghi” [Nguyễn Việt Chiến]. Và 1 lần nữa những áng thơ yêu nước như “Thuật Hoài” của Phạm Ngũ Lão sẽ là niềm tin chắc chắn cho chúng ta bữa nay.

Nếu người nào là con dân Việt Nam thì đều phải biết về lịch sử 4 ngàn 5 xây dựng và giữ giàng tổ quốc, phải biết được quân và dân nhà Trần đã quả cảm đấu tranh dẫn đến thành công 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông. Giặc Nguyên lúc đấy cũng ác, cũng đáng sợ ko khác gì giặc Pháp và giặc Mỹ sau này chính vì vậy để đánh đuổi được chúng là cả 1 kì tích, cả 1 ý chí ko chịu khuất phục của quân đội nhà Trần. Từ đấy ta có thể thấy được vẻ đẹp của những trang đại trượng phu thời trần mạnh bạo và quả cảm tới nhường nào. Đặc thù thi sĩ, vị tướng soái Phạm Ngũ Lão đã khắc họa vẻ đẹp của đại trượng phu thời Trần qua bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Thuật Hoài.

Trước hết vẻ đẹp của trang đại trượng phu thời Trần trình bày qua nghĩa vụ và lòng yêu nước của họ:

“Hoành sóc nước nhà kháp kỉ thu”

“Múa giáo tổ quốc trải mấy thu”

Người đại trượng phu thời Trần được trình bày qua hành động cầm ngang ngọn giáo để trấn quốc yên dân. Những người sinh ra phận làm trai thì phải biết bảo vệ cho quê hương tổ quốc mình. Bản dịch là “múa giáo” ko sát với ý nghĩa của bài thơ. “Múa giáo” chẳng thể hiện được hết sự mạnh bạo, sự bền chí của ngọn giáo người đại trượng phu thời Trần. Có thể nói ngọn giáo biểu tượng cho sức mạnh và lòng yêu nước của đại trượng phu thời Trần. Ngọn giáo đấy được đo bằng chiều rộng của lục địa và chiều cao của bầu trời đất Việt. Nhà thơ cũng có ý như muốn nói về chủ quyền dân tộc Việt Nam. Đất Nước ko chỉ làm nên ngọn giáo nhưng tổ quốc còn làm nên chính những con người Việt, nhưng chi tiết ở đây chính là những đấng đại trượng phu anh kiệt. Người lính Trần với cây giáo trên tay chuẩn bị đứng lên bảo vệ Tổ Quốc. Sự nghiệp giữ nước đấy đã trải khắp mấy thu, từ xưa cho tới hiện tại đấy là nghĩa vụ là bổn phận của đấng đại trượng phu lang quân trong người đời. Có thể nói chỉ bằng 1 câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã trình bày được vẻ đẹp về lòng yêu nước và tinh thần nghĩa vụ với tổ quốc của đại trượng phu thời Trần.

Người đại trượng phu thời Trần ko chỉ hiện lên xinh tươi với nghĩa vụ và lòng yêu nước nhưng họ còn đep bởi sức mạnh của ý chí đấu tranh và sức mạnh của thể chất:

“Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”

Thời nhà Trần, quân đội được chia ra làm 3 bộ phận không giống nhau, mỗi bộ phận đều có những nghĩa vụ và nhiệm vụ chi tiết. Đội quân nhà Trần hiện lên qua câu thơ với sự dũng mãnh và khí phách. Trong đội ngũ đấy những đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất với thân thể được đoàn luyện nhiều 5 trong kỷ luật nghiêm khắc của quân đội, giờ đây mạnh khỏe cường tráng có thể át cả sao Ngưu trên trời hay nuốt trôi 1 con trâu to. Ở đây thi sĩ đã sử dụng giải pháp nghệ thuật phóng đại hóa nhằm mục tiêu khắc họa vẻ đẹp sức mạnh của người đại trượng phu thời Trần. Tuy nhiên, nếu chỉ nói dễ ợt đây là sức mạnh của thân thể thì ko đúng. Người đại trượng phu thời Trần ko chỉ mạnh với thân thể rắn chắc nhưng còn mạnh về ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Có thể khẳng định rằng, đây chính là nhân tố để quân đội nhà Trần đánh tan giặc Nguyên Mông những 3 lần.

Phận làm trai xưa là phải có công danh sự nghiệp, nam thi thời Trần cũng ko nằm ngoài quy luật đấy:

“Nam nhi vị liễu công danh trái”

“Công danh nam tử còn vương nợ”

Nam nhi thời Trần với sức mạnh và trái tim của mình, 1 lòng cống hiến cho tổ quốc và đất nước. Ví như bậc nhi nữ chỉ ở nhà chăm con, chăm mẹ, ngày đêm lo chuyện bếp có sáng, cơm có ngon, canh có ngọt thì người nam tử phải cống hiến cuộc đời mình cho tổ quốc. Đã là phận làm trai thì phải có công danh sự nghiệp thì mới đáng phận làm trai. Dẫu đã cống hiến tất cả mà người đại trượng phu thời Trần ở đây vẫn cảm thấy còn vương nợ với vua, với dân chúng và với tổ quốc. Đây là 1 sự khiêm tốn. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng có câu thơ về chí làm trai thời xưa:

“Chí làm trai nam, bắc, đông, tây

Cho phỉ sức vùng vẫy trong 4 bể”

Đấy là chân lý, là nguyên lý sống của những bậc đại trượng phu thời xưa, quả thực đây chính là 1 điều cực kỳ ý nghĩa và đáng quý.

Dẫu là góp sức tất cả, dẫu là hy sinh rất nhiều mà người nam tử thời Trần vẫn cảm thấy bấy nhiêu chưa đủ để xứng đáng là 1 người bề tôi của vua:

“Tu thính dương gian thuyết Vũ Hầu”

“Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Người nam tử thời Trần vì đất nước và tổ quốc nhưng dành trọn cuộc đời của mình ở quân đội, ở trận mạc. Họ phải hy sinh đi hạnh phúc đôi lứa, hạnh phúc gia đình để đổi lấy phận trung với vua. Những người mẹ già ngày đêm vẫn lo âu cho họ, những người vợ đảm đang cùng đàn con thơ ngóng chờ người chồng, người cha trở về. Thế mà những người lính vẫn phải hy sinh hạnh phúc tư nhân để đánh đổi hạnh phúc của tổ quốc, trong đấy có những người nhà yêu của họ.

Như vậy qua đây ta có thể thấy được những vẻ đẹp của người nam tử thời Trần. Họ ko chỉ là những người có tấm lòng yêu nước, tinh thần được nghĩa vụ công dân của mình, có sức mạnh về thể chất và ý thức nhưng còn là những nam tử có công danh mà lại rất khiêm tốn.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu dụng khác trên phân mục Tài liệu của Học Điện Tử Cơ Bản VN.

.

Có thể nói, bài thơ Tỏ Lòng [Thuật hoài] đã trình bày vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại nhà Trần 1 cách rõ nét. Trong bài viết này Hoatieu xin san sớt dàn ý phân tách vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần qua bài thơ Tỏ Lòng cùng các bài văn mẫu hay tuyển lựa về vẻ đẹp con người và thời đại qua bài thơ Thuật Hoài hay và cụ thể, mời các bạn cùng tham khảo.

Top 8 mẫu phân tách bài thơ Tỏ lòng hay nhất

1. Dàn ý vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại nhà Trần trong Tỏ Lòng I. Mở bài – Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão, bài thơ Tỏ lòng. – Dẫn dắt tới nội dung cần phân tách: vẻ đẹp của con người và quân đội nhà Trần. II. Thân bài 1. Vẻ đẹp của con người – Tư thế “hoành sóc”: cầm ngang ngọn giáo Ngọn giáo: Là vũ khí đấu tranh của quân đội thời trước Tay cầm ngang ngọn giáo: trình bày sự chủ động, tự tin So sánh mở mang với bản dịch thơ của Trần Trọng Kim: là “múa giáo”: mang tính hình ảnh, hoa mĩ, thích hợp với vần nhịp mà chỉ trình bày được hành động khoa trương, trình diễn bên ngoài, ko nói lên được được sức mạnh nội lực bên trong. => Tư thế chủ động, tự tin cũng như đầy bền chí, hiên ngang, chuẩn bị đấu tranh và thắng lợi. – Tầm vóc của người người hùng trình bày qua ko gian, thời kì: Không gian: “Giang sơn” – tổ quốc, bao la. Nam nhi thuở trước thường nói chí tỏ lòng qua ko gian vũ trụ bao la. Thời gian: “kháp kỉ thu”: Con số ước lệ biểu trưng cho thời kì dài, bất tận.=> Khẳng định tầm vóc to lao, kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, lấn lướt cả ko gian và thời kì của người người hùng nhà Trần. Họ như những dũng tướng oai phong, lẫm liệt. 2. Vẻ đẹp của quân đội nhà Trần – Tiềm lực quân đội: “Tam quân” – 3 quân tiền quân, trung quân, hậu quân: Ý chỉ quân đội nhà Trần, tiềm lực quân sự của cả dân tộc. => Nhấn mạnh sự mạnh bạo, vững vàng của quân đội nhà Trần. – Khí thế đội quân: “Tam quân” so sánh với “tì hổ”: Hổ báo là chúa tể rừng xanh, so sánh nhằm nhấn mạnh tiềm lực sức mạnh hùng dũng của quân đội nhà Trần là nỗi khiếp đảm của kẻ thù. Tác giả làm rõ sức mạnh đấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu” có 2 cách hiểu: Khí thế 3 quân hùng mạnh nuốt trôi trâu hoặc khí thế hào hùng ngút trời làm mờ sao Ngưu. => Cho thấy khí thế hùng dũng, hào dùng ngút trời, ý thức “sát thát” của quân đội nhà Trần được chi tiết hóa bằng những hình ảnh ước lệ. III. Kết bài – Khẳng định lại vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần trong bài thơ Tỏ lòng. – Bình chọn chung về bài thơ Tỏ lòng. 2. Vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại nhà Trần qua bài Tỏ Lòng Mỗi sáng tác văn chương luôn in đậm dấu ấn thông minh của người nghệ sĩ. Nhưng nói tương tự ko có nghĩa trong nó ko còn đó dấu ấn thời đại, ko đề đạt hình ảnh con người thời đại đấy. Bàn về bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đánh giá: Nói ngắn gọn, nói chung, bài “Thuật hoài” trình bày vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại. Có thể nói, trong các triều đại phong kiến Việt Nam, nhà Trần là triều đại để lại nhiều dấu ấn lịch sử đáng ghi nhớ nhất. Ba lần quân Nguyên Mông – đế quốc phong kiến to nhất thời bấy giờ cất quân xâm lăng nước ta là 3 lần chúng thất bại thảm hại trước sức mạnh của quan quân nhà Trần. Chính thời đại đấy un đúc nên những con người lớn lao và quay về, con người lại làm vang dội cho thời đại sản sinh ra mình. Trong lịch sử Việt Nam trước đấy, có nhẽ chưa lúc nào người ta bắt gặp hình tượng con người kì vĩ trong văn học thế này: Hoành sóc nước nhà kháp kỉ thu, Tam quân tì hổ khí thôn ngưu. [Cầm ngang ngọn giáo giữ giàng tổ quốc đã mấy thu, Ba quân như hổ báo, khí thế dũng mãnh nuốt trôi trâu.] Ngay lúc khởi đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã gieo vào lòng người đọc ấn tượng về con người phi thường, con người đồ sộ. Sự phi thường của con người được trình bày ngay trong hành động hoành sóc. Con người thời Trần bác bỏ hành động phổ biến [cẩm giáo, múa giáo] nhưng phải là cầm ngang ngọn giáo. Phcửa ải hoành sóc thì mới uy phong, lẫm liệt, thì mới hùng dũng, hiên ngang. Phcửa ải hoành sóc thì mới đầy thử thách, ngạo nghễ. Phcửa ải hoành sóc thì mới trình bày rõ ý thức chủ động trấn giữ. Và có nhẽ trận mạc, trận địa chưa phải là ko gian trình bày được hết tầm vóc béo to của con người thời đại này nên Phạm Ngũ Lão chọn lọc cả nước nhà bao la. Tương hợp với ko gian cao rộng rộng lớn là thời kì trường cửu kháp kỉ thu. Chiếc giáo của con người thời đại như đo được cả bề rộng, chiều dài vũ trụ. Theo đấy, chủ thể của hành động, chủ sở hữu của cây trường giáo cũng vì vậy nhưng trở thành kì vĩ khôn xiết. Trong câu thơ đầu này, hình tượng con người được khắc họa ở khí phách hiên ngang. Khí phách đấy được nhân lên gấp bội lúc Phạm Ngũ Lão nói về đội quân hùng mạnh vô song của mình ở câu thơ thứ 2. Chỉ bằng phép so sánh [ì hổ] và nghệ thuật ẩn dụ [Khí thôn ngưu], thi sĩ đã lột tả 1 cách chân xác, hùng tráng về khí thế cường địch, vũ bão của quân đội nhà Trần. Tướng quân họ Phạm có phần cường điệu lúc đem sức mạnh các loài dã thú để nói về sức mạnh con người thời đại mình. Nhưng tất cả có thể lí giải từ niềm tin, niềm kiêu hãnh về đội quân của ông. Con người thời đại Đông A ko chỉ đẹp trong tư thế, khí phách nhưng còn đẹp hơn nữa trong tư tưởng, trong tư cách: Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính dương gian thuyết Vũ hầu. [Thân đại trượng phu nhưng chưa trả xong nợ công danh, Thì luống thẹn thùng lúc nghe thiên hạ kể chuyện Vũ hầu.] Có thể coi 2 câu trên là lời tự bạch của thi sĩ. Khi viết những dòng này, Phạm Ngũ Lão đã là 1 tướng quân, công danh có phần hiển hách, so với đời có nhẽ ông chẳng hề cúi đầu hổ hang. Thế mà ông vẫn tự nhận mình chưa trọn nợ công danh. Trong tâm niệm của ông, có nhẽ 2 chữ công danh kia, có nhẽ chí làm trai kia phải vẹn đầy hơn nữa. Không thoả nguyện với những gì mình đã đạt được là lí do khiến Phạm Ngũ Lão “thẹn” với Gia Cát Khổng Minh. Tự sánh mình với bậc kì tài trong lịch sử Trung Hoa để trông thấy những điều mình chưa làm được – điều đấy trình bày sự can đảm, trình bày tư cách cao đẹp của con người. Cái “thẹn” của Phạm Ngũ Lão là cái thẹn làm nên tư cách. Phạm Ngũ Lão cúi mình trước bậc kì tài thời trước cũng như Cao Bá Quát sau này chỉ cúi mình trước vẻ thanh cao của hoa mai [Nhất sinh đê thủ bái mai hoa]. Những cái cúi đầu đấy ko hạ thấp địa vị, tư cách con người nhưng càng tôn cao, tôn thêm tư cách, vẻ đẹp tỉnh thần ở họ. Ta còn có thể đọc trong lời thơ 1 niềm khao khát mãnh liệt – khao khát được lập những chiến công hiến hách cho tổ quốc, cho dân tộc. Hoài bão đấy, ý chí đấy, lí tưởng đấy góp phần khắc hoạ vẻ đẹp xuất sắc của hình tượng con người thời đại nhà Trần. Mỗi con người, theo đúng nghĩa của nó, sinh ra, to lên trong thời đại của mình đều mong muốn góp phần điểm tô, làm tỏa sáng cho thời đại đấy. Theo đấy, chân dung mỗi thời đại sẽ được đề đạt qua hình tượng con người trung tâm. Đọc Thuật Hoài , chúng ta có thể tưởng tượng thời đại nhà Trần là thời đại khổng lô, thời đại hào hùng, âm vang hào khí dân tộc. Hào khí đấy ko chỉ dậy lên từ những tiếng đồng thanh “Đánh! Đánh!” của các cố lão trong hội nghị Diên Hồng, ko chỉ được phất lên từ lá cờ thêu 6 chữ vàng “Phá cường địch báo hoàng ân” của người người hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, ko chỉ được khắc bằng 2 chữ “sớ/ £hớt” trên cánh tay mỗi tráng sĩ… nhưng còn được trình bày đậm nét trong lời thơ Phạm Ngũ Lão. Hình ảnh con người trầm mặc nghĩ suy về ý chí, lí tưởng, hoài bão của mình là sự khúc xạ tuyệt đẹp của chân dung thời đại. Thuật hoài có mặt trên thị trường đã hàng nghìn 5 nay mà dấu ấn về con người, và thời đại Đông A lại cực kỳ gần cận, xinh tươi trong mỗi chúng ta. Mỗi ngày mỗi người sẽ bận bịu hơn với những công tác của mình, thật khó để có thể lật lại những trang sử cũ. Nhưng chỉ cần đọc bài thơ 2 mươi 8 chữ của Phạm Ngũ Lão, chúng ta sẽ đã dàng cảm thu được quá lkhứ hào hùng của ông cha. 3. Vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần qua bài thơ Tỏ lòng – Học trò giỏi Thơ như đôi cánh nâng tôi bay Thơ là vũ khí trong trận đấu” [Raxun- Gamzatốp] Quả thật vậy, trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã có ko ít những tác phẩm văn chương từng mang lại biết bao sức mạnh và niềm tin cho nhiều lứa tuổi. Và 1 trong số những tác phẩm đấy chính là bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Khúc tráng ca lẫm liệt đấy luôn khơi dậy trong mỗi tâm hồn Việt Nam niềm tin và ý thức quyết thắng trước mọi thần thế xâm chiếm. Sức mạnh biến chuyển đấy đã ngời toả ngay từ vẻ đẹp người người hùng thời Trần- kết tinh hùng tâm tráng chí của dân tộc Việt Nam. Tác giả của “Tỏ lòng” – Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông có công to trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Nguyên, từng làm tới chức Điện Súy và được ngợi ca là văn võ toàn tài. Phạm Ngũ Lão chỉ để lại 2 bài thơ [“Thuật hoài” và “Vãn Thượng tể tướng công Hưng Đạo Đại Vương”], mà danh tiếng của ông vẫn đứng cùng ngang hàng với những tác gia tiếng tăm nhất của văn chương đời Trần. Và có mặt trên thị trường trong bối cảnh cả dân tộc Đại Việt đang sôi sục khí thế “Sát Thát”, bài thơ “ Thuật hoài” chính là bức chân dung tự họa về vẻ đẹp của con người trong thời đại hào khí Đông A. Trước hết, bài thơ “Thuật hoài” đã gợi ra hình ảnh người người hùng thời Trần với vẻ đẹp đầy hùng tâm, tráng chí. Tác giả đã khắc hoạ hình ảnh kỳ vĩ của người người hùng cứu nước trên nền hào hùng của thời đại. Người người hùng đấy thật mạnh bạo, bền gan vững chí trong hành trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc: “Hoành sóc nước nhà kháp kỉ thu [Múa giáo tổ quốc trải mấy thu]” Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang 1 tầm vóc, tư thế, hành động to lao mạnh bạo. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ tổ quốc. Cây trường giáo đấy chừng như được đo bằng chiều ngang của tổ quốc. Nghĩa là chủ sở hữu cầm cây giáo đấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. So với bản phiên âm, phần dịch thơ vẫn chưa diễn đạt được cực kỳ mạnh, vẻ đẹp của tráng sĩ. Trong bản phiên âm, vẻ đẹp hiên ngang, lẫm liệt được trình bày ở ngay tư thế“Hoành sóc”- cầm ngang ngọn giáo. Còn ở bản dịch thơ mới chỉ dịch là “Múa giáo”, là hành động gợi sự phô diễn, phô trương… chưa trình bày được hết sự kì vĩ, chắc chắn. Sự kì vĩ đấy càng hiện rõ trong mối quan hệ với ko gian và thời kì: ko gian mở ra theo chiều rộng núi sông, thời kì được đo đếm bằng mùa, 5 [kháp kỷ thu]chứ đâu phải chỉ trong giây khắc Hơn nữa, sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng người người hùng càng được nâng lên qua khí thế hào hùng của thời đại: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu [Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu]” Hình ảnh “3 quân” là để nói về quân đội nhà Trần mà cùng lúc còn là hình tượng biểu tượng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây nghệ thuật so sánh đã vừa chi tiết hoá sức mạnh vật chất 3 quân [mạnh như hổ báo] vừa hướng đến nói chung hoá sức mạnh ý thức của đội quân mang hào khí Đông A [khí thế át sao trời]. Ở câu thơ này, phần dịch thơ với cụm từ “nuốt trôi trâu” cũng chưa diễn đạt được cực kỳ mạnh của quân đội như “khí thôn ngưu” trong bản phiên âm. Hình ảnh 3 quân với khí thế hùng dũng này chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ “hoành sóc”. Và tự bản thân hình ảnh “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” đã khẳng định sự tất thắng của dân tộc trước kẻ địch xâm chiếm. Như vậy, 2 câu thơ đầu đã trình bày sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ hữu cơ giữa người người hùng và thời đại người hùng, giữa 1 công dân người hùng và 1 dân tộc người hùng. Không chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng, hình tượng người người hùng còn đẹp bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đấy là con người ủ ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng sống nhưng ông hướng đến là đánh giặc lập công để đền ơn vua, báo nợ nước. Lý tưởng cao đẹp đấy được trình bày qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân: “Công danh nam tử còn vướng nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” Hai câu thơ đã trình bày hùng tâm, tráng chí của người người hùng thời Trần. Đấy là lí tưởng sống của bao trang đại trượng phu thời phong kiến. “Đã mang tai mang tiếng ở trong trời đất Phcửa ải có danh gì với sông núi” [Nguyễn Công Trứ] Hay ý chí hiên ngang của bậc lão người hùng trong “Cảm hoài”: “Quốc thù chưa trả già sao vội Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy” [Đặng Dung] Câu thơ của Phạm Ngũ Lão đã nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Và ý thơ cũng ẩn chứa 1 lời thề trọn đời góp sức, lao vào cho vương triều nhà Trần, cho tổ quốc tổ quốc Đại Việt. Hùng tâm tráng chí của người người hùng được trình bày ở ngay nỗi “thẹn”- thẹn chưa có tài mưu lược to như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Đây là cách nói trình bày khát vọng, hoài bão được đem hết tài trí để góp sức cho tổ quốc. Sau này trong văn học, chúng ta cũng bắt gặp những cái “thẹn” rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến: “Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” [Thu vịnh] Với Nguyễn Khuyến đấy là cái “thẹn” của 1 nhà nho – nghệ sĩ. Còn trong “Thuật hoài” là nỗi thẹn của bậc người hùng – nghệ sĩ. Và vẻ đẹp của người người hùng “Sát Thát” đấy được Phạm Ngũ Lão khắc họa bằng văn pháp rất rực rỡ: tiếng nói hoa lệ, kĩ vĩ, gợi ra phết vóc của những người người hùng thần thoại, những người dũng sĩ trong sử thi…. Đặc thù, là bài thơ tỏ chí, tỏ lòng mà không phải khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu trưng, súc tích, giàu ý nghĩa. Chính bởi văn pháp nghệ thuật rực rỡ tương tự, tác giả đã sáng hình thành hình tượng người người hùng thật giàu ý nghĩa. Bài thơ là bức chân dung tự hoạ của người dũng tướng thời Trần đầy hào hùng, trên cái nền tổ quốc chan chứa sức mạnh bất khuất. Hơn nữa, hình tượng thơ là kết tinh của ý thức yêu nước và phẩm giá người hùng của con người Việt Nam. Bởi thế cộng với “Hịch tướng sĩ” [Trần Quốc Tuấn], “Tụng giá hoàn kinh sư” [Trần Quang Khcửa ải], bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão sáng ngời hào khí Đông A. Với vẻ đẹp rực sáng đấy, hình tượng người người hùng đời Trần chính là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại . Trước hết, vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt của người tráng sĩ luôn khơi dậy trong mỗi chúng ta tinh thần đoàn luyện, tu dưỡng về mặt thể chất. Hơn thế, ý chí được trình bày qua nỗi “thẹn” của người người hùng chính là kim chỉ nam định hướng lí tưởng sống cho mỗi người. Vậy nỗi ‘thẹn” của Phạm Ngũ Lão có thể hiểu như thế nào? Trước hết, đấy có thể là vì lòng yêu nước cực kỳ thâm thúy, tinh thần nghĩa vụ với nước nhà quá to lao làm cho tác giả ko ưng ý với công tích của mình. Cũng có thể đấy là vì lòng khiêm tốn rất thật tình nhưng thấy công tích của mình ko đáng kể. Hoặc vì lý tưởng sống của chàng thanh niên yêu nước này quá hào hùng với khát vọng vươn đến những đỉnh cao chiến công khiến ông ko chấp nhận với thành tựu của mình. Thế mà, dù vì lý do gì đi nữa thì sự hổ hang của Phạm Ngũ Lão vẫn là sự hổ hang cao quý, hữu dụng. Bởi nó là nguồn động lực để con người ko dừng vươn đến những đỉnh cao chiến công chứ ko ngủ quên trong quang vinh ngày nay. Trong cuộc sống hiện tại, mỗi người cần sống có lý tưởng, hoài bão có mục tiêu cao đẹp, bởi : “Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dầu nó vẫn thường gây nên những cơn giông tố” [Safontaine] và “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường, ko có lý tưởng thì ko có phương hướng kiên cường nhưng ko có phương hướng thì ko có cuộc sống” [Leptônxtôi]. Chính vì thế, mỗi người hãy hướng đến lý tưởng sống cao đẹp hiện nay là góp sức cuộc đời cho sự nghiệp “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bình, tân tiến”. Hãy luôn đoàn luyện, nỗ lực làm việc tận tụy và góp sức hết mình. Là lứa tuổi mùa xuân của tổ quốc, tuổi xanh chúng ta càng phải xác định được lý tưởng sống của mình: “Sống là cho chết cũng là cho” [Tố Hữu]. Tuổi trẻ cần cảnh giác với tâm lý, hoặc là tự thoả nguyện với chút công tích của mình hoặc yêu cầu tổ quốc phải “trả công” cho mình. Hãy xác định đóng góp công lao để xây dựng tổ quốc là bổn phận thiêng liêng và đừng hỏi đất nước đã làm gì cho ta nhưng hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ Quốc” . Đặc thù giờ đây lúc tổ quốc đang còn nhiều gian truân, đang phải “neo mình đầu sóng cả”, mỗi người hãy nhận thức được đúng mực vai trò của mình. Mũi khoan Hải Dương 981 xoáy vào thềm đất liền “Non sông” nhói đau từ biển lên rừng, buốt tim 90 triệu người dân Việt. Và bởi nước “Việt Nam là 1, dân tộc Việt Nam là 1. Sông có thể cạn, núi có thể mòn mà chân lý đấy sẽ ko bao giờ chỉnh sửa”. [Hồ Chí Minh]. Chính vì thế, toàn bộ dân tộc Việt Nam, nhất là tuổi xanh trên dưới 1 lòng, nguyện đem tất cả tính mệnh, tài sản để giữ vững nền tự do, độc lập đấy” [Hồ Chí Minh]. Kế bên đấy, cũng cần phải phê phán những con người có lối sống vị kỷ, ko có lý tưởng, mục tiêu sống. Bởi tương tự là họ đang tự huỷ hoại chính bản thân, cuộc sống của họ “đang rỉ đi, đang mòn ra, đang nổi váng”. Như vậy mỗi người chúng ta hãy luôn sống có lý tưởng, khát vọng, tư cách cao đẹp. Và hình tượng người người hùng thời Trần với vẻ đẹp kỳ vĩ, lẫm liệt, với lý tưởng sống góp sức sẽ luôn cháy sáng trong mỗi tâm hồn Việt Nam. Đấy cũng là hành trang quý giá nâng bước cho mỗi chúng ta trên tuyến đường xây dựng và bảo vệ tổ Quốc. Tiếp bước truyền thống của ông cha, giờ đây lúc “Đất nước đang bão giông từ biển”, nêu cao tư tưởng nhơn nghĩa chúng ta nguyện giữ nguyên lành hình hài đất nước bằng ý thức hòa hiếu nhất. Song , vì sự vẹn toàn bờ cõi, chúng ta cũng chuẩn bị chấp thuận những mất mát, những hy sinh 1 lúc ko còn tuyến đường nào khác. Và khắc ghi lời dặn của ông cha, chúng ta nguyện đưa con tàu đất nước vượt qua mọi phong 3 bão tố: “Hồn dân tộc nghìn 5 ko chịu khuất Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”. [Nguyễn Việt Chiến] 4. Phân tích vẻ đẹp con người và quân đội nhà Trần qua bài thơ Tỏ Lòng Giữa những ngày “Đất nước đang bão giông từ biển” thi sĩ Nguyễn Việt Chiến đã suy cảm: “Nếu Tổ Quốc bữa nay nhìn từ biển Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng Sóng lớp lớp đè lên thềm đất liền Trong hồn người có ngọn sóng nào ko” Vâng! Mỗi lúc Tổ Quốc “chợp chờn bóng giặc” trong mỗi tâm hồn Việt Nam ý thức dân tộc lại dậy sóng, “nó kết thành 1 làn sóng cực kỳ mạnh bạo..” [Hồ Chí Minh]. Những “ngọn sóng” yêu nước đấy đã kết tinh hình thành cả 1 dòng mạch văn học yêu nước tuôn chảy suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Trên dòng mạch đấy, để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là những áng văn của thời đại hào khí Đông Á nhưng điển hình là bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Qua những vần thơ hào hùng đấy, hình tượng người người hùng thời Trần hiện lên thật kì vĩ, to lao lúc tỏ chí, “Tỏ lòng”. Bài thơ “Tỏ lòng” đã gợi ra hình ảnh người dũng tướng thời Trần đầy hùng tâm tráng chí. Trước hết, tác phẩm đã khắc họa hình ảnh kì vĩ của người người hùng cứu nước trên cái nền của thời đại. Người tuấn kiệt đấy thật mạnh bạo bền gan vững chí trong hành trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang tầm vóc, tư thế, hành động to lao, mạnh bạo: “Hoành sóc nước nhà, kháp kỉ thu”. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ tổ quốc, cây trường giáo đấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. Sự kì vĩ càng hiện rõ trong mối quan hệ giữa ko gian và thời kì, ko gian mở ra theo chiều rộng núi sông, thời kì đâu phải giây khắc nhưng là đã mấy 5 rồi [kháp kỉ thu]. Tuy nhiên, trong bản dịch thơ vẻ đẹp hoa lệ của người người hùng chưa lột tả hết được so với nguyên tác. Từ “múa giáo” chưa diễn đạt được hết sự hào hùng mạnh bạo của tư thế “hoành sóc” . Sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng, người người hùng “hoành sóc” càng được nâng lên qua khí thế quật khởi của thời đại ở câu thơ thứ 2: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Hình ảnh 3 quân là để nói về quân đội nhà Trần mà cùng lúc còn là hình tượng biểu tượng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây, nghệ thuật so sánh đã vừa chi tiết hóa sức mạnh vật chất của 3 quân [mạnh như hổ báo] vừa hướng đến nói chung hóa sức mạnh ý thức của đội quân mang hào khí Đông Á [khí thế át sao trời]. Trong bản dịch, câu thơ: “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” mới chỉ đề cập sức mạnh vật chất của quân đội “nuốt trôi trâu” chứ chưa nói chung được khí thế át sao ngưu. Hình ảnh 3 quân với khí thế hùng dũng, sức mạnh toàn diện như câu thơ trong bản phiên âm chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ “hoành sóc”. Hai câu thơ đầu đã trình bày sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ hữu cơ giữa người người hùng và thời đại người hùng, giữa 1 công dân người hùng và 1 dân tộc người hùng. Hình tượng người người hùng ko chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng nhưng còn bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đấy là con người ủ ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm ngũ Lão, lí tưởng sống nhưng ông hướng đến là đánh giặc lập công danh để đền ơn vua, báo nợ nước. Hoài bão cao đẹp đấy được trình bày qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân: “Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính dương gian thuyết Vũ Hầu”. Hai câu thơ trình bày hùng tâm tráng chí của người người hùng thời Trần. Hai câu thơ nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Sâu xa hơn, ý thơ còn ẩn chứa 1 lời thề trọn đời góp sức lao vào cho vương triều nhà Trần – cho non sống tổ quốc Đại Việt. Vẻ đẹp trong tâm hồn tư cách của người dũng tướng được trình bày ngay ở nỗi “thẹn”. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược to như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Phạm Ngũ Lão cảm thấy “thẹn” có thể là do khát vọng, hoài bão được góp sức cho tổ quốc cực kỳ to, nên công danh của ông lập được còn bé bỏng. Hoặc bởi tổ quốc khi bấy giờ đang còn nhiều gian truân, Phạm Ngũ Lão tự thấy công tích của mình chưa đủ giúp nước,… Xong, dù lí do đi chăng nữa thì cái “thẹn” của tác giả vẫn rất cao đẹp. Nỗi “thẹn” đấy sẽ là động lực để chúng ta tiếp diễn nỗ lực, quyết tâm vươn lên trong cuộc sống. Nói về nỗi “thẹn” của bản thân cũng chính là cách nói trình bày khát vọng hoài bão được đem hết tài trí của mình để góp sức cho tổ quốc. Sau này trong văn học, chúng ta cũng bắt gặp những cái “thẹn” rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến:. “Nhân hứng cũng vừa toan cất bút. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” [Thu vịnh]. Vẻ đẹp hoa lệ của hình tượng người người hùng thời Trần trong “Tỏ lòng” được trình bày bằng văn pháp nghệ thuật rực rỡ. Hình tượng người người hùng “sát Thát” được trình bày bằng tiếng nói hoa lệ, kì vĩ gợi ra phết vóc của những người người hùng trong thần thoại và người dũng tướng trong sử thi. Không chỉ vậy, đây là bài thơ chí., “Tỏ lòng” mà không phải khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu trưng súc tích, giàu ý nghĩa. Với nghệ thuật rực rỡ, bài thơ đã khắc họa của người dũng tướng thời Trần đầy háo hức trên cái nền tổ quốc đang chan chứa sức mạnh bất khuất. Hình tượng thơ là kết tinh của ý thức yêu nước và phẩm giá người hùng của người Việt Nam. Cộng với “Hịch tướng sĩ” [Trần Quốc Tuấn], “Tụng giá hoàn kinh sư” [Trần Quang Khcửa ải], bài thơ “Thuật hoài” của [Phạm Ngũ Lão] luôn sáng ngời hào khí Đông A. Hình tượng người người hùng thời Trần với vẻ đẹp kì vĩ đấy là tấm gương sáng cho lứa tuổi sau trong hành trình bảo vệ Đất nước. Trong lịch sử Phạm ngũ Lão đã có cái “thẹn” rất cao đẹp để trình bày khát vọng to lao của mình. Hoài bão được góp sức cho Đất nước. Hay như Đặng Dung luôn sôi sục lí tưởng giúp vua đuổi kẻ thù ra khỏi lãnh thổ: “Giúp chúa những lãm giằng cốt đất. Rửa dòng chẳng thể vén sông mây” Chúng ta hãy biết nối tiếp truyền thống người hùng của các bậc tiền nhân trong lịch sử. Mỗi con người sống phải có lý tưởng, hoài bão cao đẹp. Khát vọng xinh tươi nhất của mỗi công dân là góp sức cho tổ quốc. Hiến dâng cho Tổ Quốc ko nhất quyết là cầm gương, cầm súng…đứng dậy chiến đấu nhưng phải tùy từng cảnh ngộ để có những hành động thích hợp. Giúp cho non sông có thể là những việc làm to lao, mà cũng có thể là những hành động bé bỏng, bình dị như bảo vệ môi trường, nỗ lực học tập. Khi đã có những góp sức thì chúng ta phải biết khiêm tốn, ko được kiêu ngạo: “Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta nhưng hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc bữa nay”. Nhất là trong tình hình tổ quốc hiện tại, lúc mũi khoan của Trung Quốc đang ngang nhiên xoáy vào thềm đất liền chúng ta, những công dân của tổ quốc người hùng hãy cùng nhau giữ lấy chủ quyền non sông chủ quyền biển đảo đấy là phần gia tài nghèo khổ nhưng từ nghìn đời xưa cha ông ta đã ko tiếc máu xương để khai hoang, giữ giàng và truyền lại cho con cháu. Vì thế con dân nước Việt sẽ ko để 1 phần bờ cõi nào rơi vào tay kẻ xâm lăng. Bác Hồ đã từng nói: “1 5 kể từ mùa xuân. Đời người bắt đầu từ tuổi xanh, tuổi xanh là mùa xuân của xã hội”. Chính do vậy, lứa tuổi thanh niên càng phải sống hợp lí tưởng, có khát vọng. Người thanh niên hãy đem sức trẻ của mình để góp sức, bảo vệ Tổ Quốc . Kế bên những người dành hết “chiếc bánh thời kì” của mình vào công việc xã hội thì vẫn có những người chỉ biết sống vì mình, ko ân cần tới mọi người. Những con người đấy cần phải phê phán. Giữa những ngày biển Đông đang dậy sóng này, ta lại càng thêm yêu những áng văn yêu nước như “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ đã khắc họa được chân dung người người hùng thời Trần với biết bao vẻ đẹp. Vẻ đẹp đấy sẽ là ánh sáng soi rọi cho các lứa tuổi sau. Tiếp bước truyền thống người hùng của dân tộc, chúng ta nguyện sẽ “giữ từng thước đất – Máu xương này con cháu vẫn khắc ghi” [Nguyễn Việt Chiến]. Và 1 lần nữa những áng thơ yêu nước như “Thuật Hoài” của Phạm Ngũ Lão sẽ là niềm tin chắc chắn cho chúng ta bữa nay. 5. Vẻ đẹp của trang đại trượng phu thời trần qua bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão Nếu người nào là con dân Việt Nam thì đều phải biết về lịch sử 4 ngàn 5 xây dựng và giữ giàng tổ quốc, phải biết được quân và dân nhà Trần đã quả cảm đấu tranh dẫn đến thành công 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông. Giặc Nguyên lúc đấy cũng ác, cũng đáng sợ ko khác gì giặc Pháp và giặc Mỹ sau này chính vì vậy để đánh đuổi được chúng là cả 1 kì tích, cả 1 ý chí ko chịu khuất phục của quân đội nhà Trần. Từ đấy ta có thể thấy được vẻ đẹp của những trang đại trượng phu thời trần mạnh bạo và quả cảm tới nhường nào. Đặc thù thi sĩ, vị tướng soái Phạm Ngũ Lão đã khắc họa vẻ đẹp của đại trượng phu thời Trần qua bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Thuật Hoài. Trước hết vẻ đẹp của trang đại trượng phu thời Trần trình bày qua nghĩa vụ và lòng yêu nước của họ: “Hoành sóc nước nhà kháp kỉ thu” “Múa giáo tổ quốc trải mấy thu” Người đại trượng phu thời Trần được trình bày qua hành động cầm ngang ngọn giáo để trấn quốc yên dân. Những người sinh ra phận làm trai thì phải biết bảo vệ cho quê hương tổ quốc mình. Bản dịch là “múa giáo” ko sát với ý nghĩa của bài thơ. “Múa giáo” chẳng thể hiện được hết sự mạnh bạo, sự bền chí của ngọn giáo người đại trượng phu thời Trần. Có thể nói ngọn giáo biểu tượng cho sức mạnh và lòng yêu nước của đại trượng phu thời Trần. Ngọn giáo đấy được đo bằng chiều rộng của lục địa và chiều cao của bầu trời đất Việt. Nhà thơ cũng có ý như muốn nói về chủ quyền dân tộc Việt Nam. Đất Nước ko chỉ làm nên ngọn giáo nhưng tổ quốc còn làm nên chính những con người Việt, nhưng chi tiết ở đây chính là những đấng đại trượng phu anh kiệt. Người lính Trần với cây giáo trên tay chuẩn bị đứng lên bảo vệ Tổ Quốc. Sự nghiệp giữ nước đấy đã trải khắp mấy thu, từ xưa cho tới hiện tại đấy là nghĩa vụ là bổn phận của đấng đại trượng phu lang quân trong người đời. Có thể nói chỉ bằng 1 câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã trình bày được vẻ đẹp về lòng yêu nước và tinh thần nghĩa vụ với tổ quốc của đại trượng phu thời Trần. Người đại trượng phu thời Trần ko chỉ hiện lên xinh tươi với nghĩa vụ và lòng yêu nước nhưng họ còn đep bởi sức mạnh của ý chí đấu tranh và sức mạnh của thể chất: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” Thời nhà Trần, quân đội được chia ra làm 3 bộ phận không giống nhau, mỗi bộ phận đều có những nghĩa vụ và nhiệm vụ chi tiết. Đội quân nhà Trần hiện lên qua câu thơ với sự dũng mãnh và khí phách. Trong đội ngũ đấy những đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất với thân thể được đoàn luyện nhiều 5 trong kỷ luật nghiêm khắc của quân đội, giờ đây mạnh khỏe cường tráng có thể át cả sao Ngưu trên trời hay nuốt trôi 1 con trâu to. Ở đây thi sĩ đã sử dụng giải pháp nghệ thuật phóng đại hóa nhằm mục tiêu khắc họa vẻ đẹp sức mạnh của người đại trượng phu thời Trần. Tuy nhiên, nếu chỉ nói dễ ợt đây là sức mạnh của thân thể thì ko đúng. Người đại trượng phu thời Trần ko chỉ mạnh với thân thể rắn chắc nhưng còn mạnh về ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Có thể khẳng định rằng, đây chính là nhân tố để quân đội nhà Trần đánh tan giặc Nguyên Mông những 3 lần. Phận làm trai xưa là phải có công danh sự nghiệp, nam thi thời Trần cũng ko nằm ngoài quy luật đấy: “Nam nhi vị liễu công danh trái” “Công danh nam tử còn vương nợ” Nam nhi thời Trần với sức mạnh và trái tim của mình, 1 lòng cống hiến cho tổ quốc và đất nước. Ví như bậc nhi nữ chỉ ở nhà chăm con, chăm mẹ, ngày đêm lo chuyện bếp có sáng, cơm có ngon, canh có ngọt thì người nam tử phải cống hiến cuộc đời mình cho tổ quốc. Đã là phận làm trai thì phải có công danh sự nghiệp thì mới đáng phận làm trai. Dẫu đã cống hiến tất cả mà người đại trượng phu thời Trần ở đây vẫn cảm thấy còn vương nợ với vua, với dân chúng và với tổ quốc. Đây là 1 sự khiêm tốn. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng có câu thơ về chí làm trai thời xưa: “Chí làm trai nam, bắc, đông, tây Cho phỉ sức vùng vẫy trong 4 bể” Đấy là chân lý, là nguyên lý sống của những bậc đại trượng phu thời xưa, quả thực đây chính là 1 điều cực kỳ ý nghĩa và đáng quý. Dẫu là góp sức tất cả, dẫu là hy sinh rất nhiều mà người nam tử thời Trần vẫn cảm thấy bấy nhiêu chưa đủ để xứng đáng là 1 người bề tôi của vua: “Tu thính dương gian thuyết Vũ Hầu” “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu” Người nam tử thời Trần vì đất nước và tổ quốc nhưng dành trọn cuộc đời của mình ở quân đội, ở trận mạc. Họ phải hy sinh đi hạnh phúc đôi lứa, hạnh phúc gia đình để đổi lấy phận trung với vua. Những người mẹ già ngày đêm vẫn lo âu cho họ, những người vợ đảm đang cùng đàn con thơ ngóng chờ người chồng, người cha trở về. Thế mà những người lính vẫn phải hy sinh hạnh phúc tư nhân để đánh đổi hạnh phúc của tổ quốc, trong đấy có những người nhà yêu của họ. Như vậy qua đây ta có thể thấy được những vẻ đẹp của người nam tử thời Trần. Họ ko chỉ là những người có tấm lòng yêu nước, tinh thần được nghĩa vụ công dân của mình, có sức mạnh về thể chất và ý thức nhưng còn là những nam tử có công danh mà lại rất khiêm tốn.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu dụng khác trên phân mục Tài liệu của Học Điện Tử Cơ Bản VN.

Tagshọc tập

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Top #bài #Vẻ #đẹp #con #người #và #thời #đại #nhà #Trần #qua #bài #thơ #Tỏ #lòng #hay #chọn #lọc

  • Tổng hợp: Học Điện Tử Cơ Bản
  • #Top #bài #Vẻ #đẹp #con #người #và #thời #đại #nhà #Trần #qua #bài #thơ #Tỏ #lòng #hay #chọn #lọc

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề