Phản xạ tim tim là gì

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Trần Quốc Vĩnh - Bác sĩ Cấp cứu - Khoa Hồi sức - Cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang.

Cơ tim là một bộ phận quan trọng có ý nghĩa sống còn của tim. Chúng thực hiện hoạt động co giãn không ngừng nghỉ nhằm bơm máu đến các cơ quan trong cơ thể. Do đó, các bệnh lý về cơ tim là bệnh nguy hiểm, cần được phát hiện và điều trị sớm.

Tương tự như cơ trơn, cơ tim được điều khiển bởi hệ thống thần kinh tự động [autonomic nervous system], các hormone và một phần có thể co giãn tự nhiên. Cơ tim tạo thành một lớp trung gian dày giữa lớp ngoài của thành tim [màng ngoài tim] và lớp bên trong [màng trong tim], với máu được cung cấp qua lưu thông mạch vành. Các tế bào cơ tim [cardiomyocytes] kết hợp với nhau bằng đĩa xen kẽ, được bọc bởi các sợi collagen và các chất khác tạo thành ma trận ngoại bào.

Các co duỗi cơ tim gần tương tự với cơ xương. Một kích thích điện dưới hình thức một điện áp hoạt động tim được phân phối theo một mô hình nhịp nhàng sẽ kích thích giải phóng canxi từ khu chứa canxi bên trong của tế bào - mạng lưới sarcoplasmic. Lượng canxi tăng lên làm cho myofilaments của tế bào trượt qua nhau trong một quá trình gọi là khớp nối co giãn kích thích.

Chức năng chính của cơ tim là tự co giãn theo một thể thống nhất do sự gắn kết chặt chẽ giữa các sợi cơ. Trong quá trình co giãn, cơ tim có nhiệm vụ đẩy máu lưu thông trong hệ tuần hoàn.

Các sợi cơ tim phản ứng theo cùng một cách thức trong trường hợp bệnh lý như cùng phì đại khi hoạt động quá tải hoặc hoại tử thành những mô xơ khi thiếu cung cấp máu.

Cơ tim có nhiệm vụ đẩy máu lưu thông trong hệ tuần hoàn

Tế bào cơ tim có tính chất trung gian giữa tế bào cơ vân và tế bào cơ trơn. Đó là các tế bào nhỏ, có vân, chia nhánh và chỉ một nhân. Khác với cơ vân, các tế bào cơ tim có các cầu nối giúp gắn kết với nhau thành một khối vững chắc, có các đoạn màng tế bào hòa với nhau. Các sợi cơ tim mang tính hợp bào, hoạt động như một thể thống nhất khi đáp ứng với kích thích, lan truyền điện thế giữa các sợi cơ tim nhanh chóng qua các cầu nối. Sự lan truyền điện thể từ tâm nhĩ xuống tâm thất được dẫn qua một đường dẫn truyền đặc biệt gọi là bộ nối nhĩ - thất.

Các sợi cơ tim chứa nhiều ty lạp thể và mạch máu rất phù hợp với đặc tính hoạt động ái khí của tim. Thành phần chủ yếu của tế bào cơ tim là các tơ cơ [myofibrille], các sợi dày [myosin] và sợi mỏng [actin, tropomyosin, troponin], các sợi cơ co rút gây ra co rút toàn bộ tế bào cơ tim. Bao quanh các sợi cơ có mạng nội sinh cơ chất [reticulum sarcoplasmique] là nơi dự trữ canxi.

Cơ tim cũng có vân, nhưng khác với cơ vân, các tế bào cơ tim có cầu nối kết hợp lại với nhau thành một khối vững chắc. Nhờ đó, cơ tim có tính chất tự co rút đẩy máu đi khắp cơ thể mà không chịu tác động của bộ não.

Cơ tim hoạt động không ngừng nghỉ đến khi nó chết. Trung bình, mỗi phút tim co bóp với tốc độ từ 60 - 100 lần, và nó hoạt động như vậy trong suốt một đời người.

Sở dĩ có được khả năng hoạt động bền bỉ như vậy là do cơ tim có cấu trúc đặc biệt. Cơ tim thực sự được cung cấp nhiều năng lượng hơn so với các loại cơ khác. Trong đó phải nhắc đến vai trò của ty thể. Tất cả các tế bào trong cơ thể trong đó có tế bào cơ, đều lấy năng lượng từ ty thể, bào quan chuyển hóa các chất hữu cơ thành năng lượng mà tế bào có thể sử dụng được [ATP]. Trong khi ty thể tại các cơ vân chỉ chiếm 1 – 2% ty thể, thì lượng ty thể trong cơ tim chiếm gấp nhiều lần, từ 30 – 35%. Điều đó có nghĩa. nếu ở trạng thái bình thường, tim không bao giờ phải nghỉ ngơi, vì luôn có nguồn cung năng lượng cho cơ tim.

Tim là một cơ quan đặc biệt trong cơ thể. Nó là cơ quan hoạt động bền bỉ nhất, có thể hoạt động suốt đời mà không biết mệt mỏi. Tất nhiên, nó không phải là một động cơ vĩnh cửu. Do đó, bạn nên tập luyện thường xuyên để tăng sức khỏe, nhưng cũng không nên tập luyện quá sức tránh ảnh hưởng đến tim.

Cơ tim hoạt động không ngừng nghỉ đến khi nó chết

Giống như các loại cơ khác, cơ tim cần được nuôi dưỡng bằng lượng máu cung cấp máu từ hệ tuần hoàn, thông qua động mạch vành. Khi lượng máu đến nuôi cơ tim giảm, cơ tim sẽ phản ứng lại bằng triệu chứng đau thắt ngực.

Động mạch cung cấp máu nuôi dưỡng cơ tim được gọi là động mạch vành. Nguyên nhân thường gặp gây ra cơn đau thắt ngực là hẹp một hoặc nhiều nhánh của động mạch vành. Lượng máu đến nuôi cơ tim có thể vẫn đủ khi bạn nghỉ ngơi, không hoạt động gắng sức. Tuy nhiên, cơ tim cần một lượng máu và oxy nhiều hơn khi nó làm việc nhiều hơn. Ví dụ, khi bạn đi nhanh hoặc leo cầu thang, nhịp tim sẽ tăng lên để cung cấp nhiều máu hơn cho cơ tim. Nếu có hẹp động mạch vành, lượng máu bổ sung này không đến được cơ tim, biểu hiện bằng cơn đau thắt ngực.

Để bảo vệ sức khỏe tim mạch nói chung và phát hiện sớm các bệnh liên quan đến tim, khách hàng có thể đăng ký Gói Sàng lọc Tim mạch - Khám Tim mạch cơ bản của Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec. Gói khám giúp phát hiện sớm nhất các vấn đề của tim mạch thông qua các xét nghiệm và các phương pháp chẩn đoán hình ảnh hiện đại. Gói khám dành cho mọi độ tuổi, giới tính và đặc biệt rất cần thiết cho những người có yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Bác sĩ Trần Quốc Vĩnh có hơn 6 năm làm việc [bắt đầu từ năm 2011] trong lĩnh vực Cấp cứu, bác sĩ từng công tác tại khoa Cấp Cứu Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Khánh Hòa, Tham gia khám, điều trị Nội khoa cho nhiều phòng khám trong khu vực Nha Trang trước khi là bác sĩ khoa hồi sức cấp cứu Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang như hiện nay.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 [phím 0 để gọi Vinmec] hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

10 thú vị cực kỳ bất ngờ về trái tim của bạn

XEM THÊM:

Tim là cơ quan rất quan trọng cho hệ tuần hoàn nói riêng và toàn bộ cơ thể người nói chung. Đây là cơ quan hoạt động liên tục từ trước khi sinh cho tới lúc tử vong với khoảng 2,6 tỷ lần cho bóp trong một vòng đời. Một chu kì tim được tính từ đầu của một tiếng tim này đến đầu tiếng tim khác và được chia ra thành các giai đoạn khác nhau.

Tim hoạt động như một máy bơm đều đặn để đẩy máu theo các động mạch và đem theo dưỡng khí, các chất dinh dưỡng tới toàn bộ cơ thể, đồng thời thải loại các chất không cần thiết trong quá trình này. Tim sẽ hút máu từ tĩnh mạch về tim sau đó đẩy máu đến phổi để trao đổi và nhận khí oxy. Tim người được chia thành 4 phần: tâm nhĩ trái, nhĩ phải, thất trái, thất phải.

Ở phía ngoài tim còn được bao bọc trong một túi bảo vệ gọi là màng ngoài tim chứa một lượng nhỏ chất bôi trơn. Tim được cấu tạo từ một loại cơ đặc biệt là cơ tim phù hợp với hình thái và chức năng của tim.

Một chu kỳ của tim có được tính từ đầu tiếng tim này đến đầu của tiếng tim khác và lặp đi lặp lại riêng rẽ giống nhau. Máu sẽ đi từ vùng có áp lực cao đến vùng có áp lực thấp dựa vào sự thay đổi của tâm nhĩ và tâm thất co hay giãn. Ở một chu kỳ tim bình thường thì hai tâm nhĩ sẽ co trong khi hai tâm thất giãn và ngược lại.

Một chu kỳ tim sẽ bao gồm giai đoạn tâm thu [giai đoạn co] và giai đoạn tâm trương [giai đoạn giãn] của cả tâm nhĩ và tâm thất. Có 3 giai đoạn chính như sau:

  • Giai đoạn đổ đầy thất: tương ứng với giai đoạn tâm trương. Lúc này cơ thất giãn hoàn toàn khiến áp lực trong thất giảm xuống dẫn đến áp lực tâm nhĩ vượt qua được áp lực tâm thất. Máu từ tĩnh mạch liên tục đổ về nhĩ càng làm gia tăng sự chênh lệch và làm van nhĩ- thất mở ra, máu đi từ nhĩ xuống thất. Cuối thời kỳ này tâm nhĩ co, tống nốt lượng máu còn lại sau khi phần lớn máu đã xuống thất tự nhiên do chênh lệch áp lực, để khởi đầu cho sự co của thất.
  • Giai đoạn tâm thất co: Ngay sau khi tâm nhĩ co, xung động từ nút xoang đến khử cực tâm thất làm tâm thất bắt đầu co lại, kết quả làm tăng áp lực trong thất. Van nhĩ thất sẽ đóng lại khi áp lực tâm thất vượt qua áp lực tâm nhĩ. Tâm thất co khiến áp suất buồng tim tăng vọt kéo theo van động mạch mở và máu được tống vào động mạch. Đây là chính là giai đoạn tống máu tâm thất với thể tích tống máu tâm thu khoảng 70 ml cho mỗi lần tim bóp.
  • Giai đoạn tâm thất giãn: khi tâm thất bắt đầu giãn, 4 buồng tim đều ở thời kỳ tâm trương. Tâm thất giãn làm áp suất giảm nhanh, van nhĩ thất mở và giai đoạn đổ đầy thất lại bắt đầu.

Thể tích tống máu tâm thu khoảng 70 ml cho mỗi lần tim bóp trong giai đoạn tâm thất co

Mạch đập: Tâm thất khi co bóp tạo một sóng áp lực dịch chuyển dọc theo thành động mạch. Do đó cường độ của động mạch phụ thuộc chủ yếu vào thể tích tống máu tâm thu. Khi bệnh nhân mất máu hoặc suy tim thì mạch yếu và sau một gắng sức thì mạch mạnh hơn

Tiếng tim: T1 là tiếng tim do van nhĩ thất đóng kết hợp với sự xoáy của máu đập vào thành cơ tim tạo nên một tiếng trầm dài, nghe rõ ở mỏm tim, ngay sau tâm thất thu. Còn T2 do van bán nguyệt đóng, cao ngắn nghe rõ ở đáy tim, đầu thời kỳ tâm trương. Ngoài ra T3 phù hợp với kỳ đổ đầy thất nhanh, T4 do sự co của tâm nhĩ, nhưng hai tiếng này không thể nghe bằng ống nghe thông thường.

Theo dõi website Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec để nắm thêm nhiều thông tin sức khỏe, dinh dưỡng, làm đẹp để bảo vệ sức khỏe cho bản thân và những người thân yêu trong gia đình.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 [phím 0 để gọi Vinmec] hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

XEM THÊM:

Video liên quan

Chủ Đề