Pháp gia là gì

DANH SÁCH NHÓM
1. Võ Trần Mỹ Hương
2. Trần Thị Trúc Phương
3. Huỳnh Thị Trang
4. Nguyễn Thị Thúy Mỹ
5. Phan Thị Thủy Tuyên
6. Nguyễn Ngọc Sơn
MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, nếu phương Đông được coi là chiếc nôi lớn của văn
minh nhân loại, thì Ấn Độ và Trung Quốc là hai trung tâm văn hóa triết học cổ xưa
rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh đó. Một trong những tư tưởng triết học
thời đó vẫn còn giá trị cho đến ngày nay và là nền tảng lí luận đầu tiên để xây dựng
một nhà nước pháp quyền sau này, đó là “ Tư tưởng triết học của Pháp gia”. Bởi lẽ,
trong mỗi quốc gia, để đảm bảo cho một nền chính trị ổn định, một nền kinh tế
phát triển và một xã hội công bằng thì pháp luật chính là công cụ tối ưu có hiệu
quả nhất. Song, chỉ có pháp luật không thì chưa đủ, mà cần phải có người áp dụng
và thực hiện mới thực sự tạo nên tính hiệu quả của pháp luật.
Pháp gia là trường phái triết học ra đời tại Trung Hoa. Với lịch sử thế giới
nói chung và lịch sử Trung Hoa nói riêng, Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là
trường phái triết học đầu tiên chủ trương dùng pháp trị để trị nước, là những bản
chép đầu tiên về pháp luật và vị vua đầu tiên của lịch sử Trung Hoa đã áp dụng
một cách triệt để, và có hiệu quả tư tưởng này… với việc trị nước của mình. Vị vua
đó chính là Tần Thủy Hoàng, đã chấp dứt cục diện bách gia phân tranh, thống nhất
Trung Hoa, xây dựng nhà nước tập quyền Trung ương đầu tiên trong lịch sử Trung
Quốc.
Trong bài thuyết trình này, chúng ta sẽ cùng làm rõ tư tưởng Pháp gia vào
thời Xuân Thu – Chiến Quốc, mà nổi bật là Hàn Phi Tử và tư tưởng trị nước của
ông. Nội dung cơ bản của Pháp gia là đề cao vai trò của pháp luật và chủ trương
dùng pháp luật hà khắc để trị nước.
NỘI DUNG
1. Bối cảnh lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc

1.1. Thời Xuân Thu
Xuân Thu là một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung
Quốc. Tên của nó bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu [Biên niên sử Xuân Thu], một
cuốn sử mà theo truyền thống thường được coi là của Khổng Tử. Ở giai đoạn Xuân
Thu, quyền lực được tập trung hoá và ở giai đoạn này xảy ra rất nhiều các trận
chiến và đặc biệt là sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ. Sự sụp đổ dần dần của giới
thượng lưu dẫn tới sự mở rộng học hành, trí thức gia tăng lại thúc đẩy tự do tư
tưởng và tiến bộ kỹ thuật.
Ở thời điểm đó Trung Quốc vẫn chưa được coi là một đế quốc. Và tới tận
khi vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần, và cũng là vị hoàng đế đầu tiên của Trung
Quốc lên ngôi thì nước này mới bắt đầu giai đoạn phong kiến.
1.2. Thời Chiến Quốc
Tiếp thời Xuân Thu là thời Chiến Quốc kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới
khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. Tên gọi Chiến Quốc xuất
phát từ cuốn Chiến Quốc sách được biên soạn đầu thời nhà Hán. Thông thường nó
được coi là giai đoạn thứ hai của nhà Đông Chu, tiếp sau của giai đoạn Xuân Thu,
dù chính nhà Chu đã kết thúc vào năm 256 TCN, 35 năm trước khi kết thúc giai
đoạn Chiến Quốc. Tương tự như giai đoạn Xuân Thu, vị vua nhà Chu chỉ đơn giản
là một vua bù nhìn. Điểm khởi đầu thời Chiến Quốc hiện vẫn còn tranh cãi. Trong
khi thông thường mọi người sử dụng năm 475 TCN [tiếp sau thời Xuân Thu] thì
năm 403 TCN – năm mà nước Tấn bị chia thành ba – cũng thỉnh thoảng được coi
là năm bắt đầu của thời kỳ này.
Thời Chiến Quốc, trái với thời Xuân Thu, là một giai đoạn mà các lãnh chúa
địa phương sáp nhập các tiểu quốc nhỏ hơn xung quanh để củng cố quyền lực. Quá
trình này đã bắt đầu ở thời Xuân Thu, và tới thế kỷ 3 TCN, bảy nước lớn nổi lên
chiếm vị trí áp đảo. Bảy nước lớn thời Chiến Quốc [Chiến Quốc thất hùng], gồm:
Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ và Tần. Một dấu hiệu khác của sự tăng cường
quyền lực là sự thay đổi danh hiệu: trước kia các lãnh chúa vẫn xếp mình vào bậc
công hay hầu, chư hầu của vua nhà Chu; nhưng trong giai đoạn này họ đã lần lượt
tự xưng vương, có nghĩa là họ ngang hàng với vua nhà .

2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng Pháp gia
Trường phái Pháp gia bắt đầu xuất hiện vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc
[770 – 221TCN]. Đây là thời kì mà xã hội Trung Quốc có nhiều biến động.
Thời Xuân Thu, bên cạnh kinh tế phát triển và dân số tăng trưởng, giữa các
nước lớn đã triển khai một cuộc giành giật quyết liệt quyền bá chủ, tình hình xã hội
có biến đổi rất lớn. Xuân Thu là một thời kỳ quá độ từng bước giải thể của trật tự
xã hội chính trị truyền thống Tây Chu. Khổng Tử - nhà tư tưởng đầu tiên và nhà
giáo dục vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đã sinh ra trong thời kỳ cuối Xuân Thu
với trường phái Nho giáo chủ trương “đức trị”. Và bắt nguồn từ cải cách phương
pháp cai trị, phái Pháp gia xuất hiện đại biểu nổi tiếng sớm nhất: Quản Trọng
Thời Chiến Quốc, là thời các nước chư hầu cát cứ ở Trung Quốc tiếp sau
Đông Chu liệt quốc. Trong đó nhiều nước chư hầu vừa và nhỏ đã bị thôn tính, chỉ
còn lại 7 nước là Tề, Sở, Tần, Hàn, Yên, Triệu, Ngụy. Trong thời kỳ Chiến Quốc
các nước tới tấp tiến hành biến pháp, xã hội xuất hiện tầng lớp sĩ nhân mới nổi lên.
Sôi động trong tầng lớp này thúc đẩy một bước phồn vinh về văn hóa, khoa học,…
Thời gian này, văn hóa tư tưởng cổ đại Trung Quốc đạt tới đỉnh cao trong lịch sử.
Trong đó, Khổng Tử là tiêu biểu cho Nho gia; Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử là tiêu
biểu cho Đạo giáo, Hàn Phi là tiêu biểu của Pháp gia; Mặc Tử là tiêu biểu của Mặc
gia và một số người thuộc phái Pháp gia ngày càng nhiều hơn như: Lý Khôi, Ngô
Khởi, Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng,… Đặc biệt, Hàn Phi Tử dựa trên
thực tế của tình hình xã hội tiếp thu, kết hợp những lý thuyết Pháp gia đã có từ
trước, vận dụng sinh động và hoàn chỉnh học thuyết Pháp gia.
Học thuyết pháp trị của Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kì
bởi các tác giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng
và cuối cùng được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
• Quản Trọng [thế kỷ VI TCN] là Tướng quốc của vua Hoàn Công nước Tề.
Ông được coi là nguời đã đề ra một số chính sách cải cách làm cho nước Tề
thời Hoàn Công trở thành nước hùng mạnh. Tử tưởng về pháp trị của Quản
Trọng và những người thừa kế thường tập hợp trong sách Quản Tử, bao gồm
4 điểm chủ yếu sau:

- Một là, mục đích trị quốc là làm cho phú quốc binh cường.
- Hai là, muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển nông, công
thương nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội.
- Ba là, chủ trương phép trị nước phải đề cao “Luật, hình, lệnh, chính”. Luật
là để định danh phận cho mỗi người; Lệnh là để cho dân biết việc mà làm;
Hình là để trừng phạt làm trái Luật và Lệnh; Chính là để sửa cho dân theo
đường ngay, lẽ phải.
- Bốn là, khi được để cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa,
liêm… trong phép trị nước.
Về triết học, sách Quản Tử cho rằng giới tự nhiên có quy luật nhất định:
“Trời không thay đổi quy luật của trời, đất không đổi nguyên tắc của đất. Xuân –
Hạ - Thu – Đông không thay đổi thời tiết, xưa nay đều như thế cả”. Hơn nữa quy
luật ấy tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào ý chí của con người. Sự vận hành
của bốn mùa, sự thay đổi của ngày đêm đều do tác dụng của âm dương. Có khi có
hiện tượng thất thường, nhưng đó cũng do tự nhiên, con người không thể làm thay
đổi được.
Về đường lối chính trị, sách Quản Tử cho rằng muốn trị nước được tốt phải
có ba thứ là “ Pháp”, “Thế”, “Thuật”.
Như vậy, có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thủy tổ của Pháp gia, đồng
thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
• Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất Hại [401 – 337 TCN], là người nước
Trịnh chuyên học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Thân Bất Hại
đưa ra chủ trương ly khai “ Đạo Đức” chống “Lễ” và đề cao “Thuật” trong
phép trị nước. Thân Bất Hại cho rằng “Thuật” là cái “bí hiểm” của vua, theo
đó nhà vua không được lộ ra cho kẻ bè tôi biết là vua sáng suốt hay không,
biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét mình… bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không
thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua.
• Một đại biểu nữa của phái Pháp gia thời kỳ này là Thận Đáo [370 – 290
TCN], ông là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học
về đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước

bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng pháp luật phải khách quan như vật “vô
vi” và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền.
Phải nói rằng đây là một tư tưởng khá tiến bộ mà sau này Hàn Phi Tử đã tiếp
thu và hoàn thiện. Trong phép trị nước, đặc biệt Thận Đáo đề cao vai trò của
“Thế”.
• Cùng với Thận Đáo, có một người cũng nêu cao tư tưởng pháp trị, đó là
Thương Ưởng. Thương Ưởng vốn là Công Tôn Ưởng, người nước Vệ, thời
Tần Hiếu Công cải cách nước Tần trở nên giàu mạnh, được phong ở đất
Thương nên gị là Thương Ưởng. Tư tưởng của ông được chép thành một
quyển gọi là Thương quân thư.
Trong phép trị nước Thương Ưởng không những hoàn toàn đồng ý biện
pháp chung của xã hội có giai cấp là “bên trong thì dùng hình phạt, bên ngoài thì
dùng chiến tranh” mà còn nhấn mạnh rằng muốn chế ngự được thiên hạ thì trước
hết phải chế ngự được dân mình, muốn thắng được kẻ địch mạnh thì trước hết phải
thắng được dân mình.
Trong chính sách thực tiễn, Thương Ưởng chủ trương: Tổ chức liên gia và
cáo gian lẫn nhau, khuyến khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng
người có công, phạt người phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ
xuống làm người thường dân. Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp,
thi hành một thứ thuế thống nhất, dụng cụ đo lường thống nhất nhờ đó chỉ sau
một thời gian ngắn, nước Tần đã mạnh hẳn lên và lần lượt thôn tính được nhiều
nước khác.
• Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi Tử, người có công tổng kết và hoàn thiện tư
tưởng trị nước của Pháp gia. Chính ông là người đã tổng kết và làm nên một
tư tưởng triết học có ảnh hưởng cho đến bây giờ.
3. Hàn Phi Tử - Cuộc đời và cơ sở hình thành tư tưởng Pháp trị
3.1. Cuộc đời
Hàn Phi Tử sinh vào khoảng năm 280TCN, mất năm 233TCN, vốn thuộc
dòng dõi quý tộc, là công tử của vua Công nước Hàn. Chính vì vậy ngay từ nhỏ
ông đã thấy mối quan hệ giữa vua tôi và cách trị nước. Vì theo học đạo Nho dưới

môn Tuân Tử cùng Lý Tư [nhà sử gia lớn nhất lúc bấy giờ], nên ông đã tiếp thu và
thông thạo những tư tưởng quốc trị của các tiền bối đi trước [Nho gia, Đạo gia,
Mặc gia…], nhưng lại có tư tưởng khác biệt với thầy. Tuân Tử chú trọng về việc
giáo hóa Lễ Nghĩa, còn Hàn Phi Tử cùng Lý Tư thì nặng về pháp chế và quyền
thuật, đi theo con đường hoàn toàn trái ngược với đạo Nho. Hàn Phi Tử từng bảo:
“Ngô ái ngô sư, ngô bưu ái chân lý”. [Ta mến thầy ta, nhưng ta chuộng chân lý
hơn]. Tuy nhiên Hàn Phi Tử là người có tật nói lắp, do đó ông không giỏi biện luận
và ông đã tập trung sức lực để viết sách, trình bày các luận thuyết của mình. Hàn
Phi Tử viết rất nhiều sách, và đã nhiều lần dâng kiến nghị lên vua Hàn nhưng
chẳng được trọng dụng. Khi tác phẩm của Hàn Phi Tử truyền sang nước Tần, lúc
vua Tần đọc tới hai thiên “Cô phẩn” và “Ngũ xuẩn”, thấy rất hợp với ý tưởng của
mình, đã thán phục rằng: “Chao ôi, nếu trẫm mà có duyên gặp được người này, thì
chết cũng chẳng còn ân hận”. Hàn Phi Tử có thể được coi là đại diện xuất sắc nhất
của trường phái Pháp gia, là người chủ trương dùng pháp chế để cai trị đất nước.
Theo sử kí ghi nhận, suốt đời Hàn Phi Tử chỉ có một dịp duy nhất, để thi thố
tài nghệ, là lần đi sứ sang Tần. Nguyên do là vì Tần vây đánh nước Hàn, vua Hàn
cả kinh, liền cử Hàn Phi Tử làm sứ giả, sang gặp vua Tần xin hòa giải. Hàn Phi Tử
đệ quốc thư lên Tần Thủy Hoàng, đại ý nói rằng: “Nước bất kính phục với vua Tần
là nước Triệu, vậy Tần chớ nên đánh Hàn, đáng lý nên liên minh với Hàn, cùng
nhau phạt Triệu mới đúng”. Tại nước Tần ông có cơ hội nói lên tư tưởng pháp trị
của mình và Tần Thủy Hoàng rất thích tư tưởng đó. Sau này bởi sự ganh ghét của
người bạn học Lý Tư, ông đã bị bức tử trong ngục. Song tư tưởng pháp trị của ông
đã được Tần Thủy Hoàng thực hiện một cách triệt để.
Đương thời, Lý Tư, bạn học của Hàn Phi Tử là tể tướng nước Tần, không
đồng ý với quan điểm đó, cho rằng mục đích chân chính của Hàn Phi Tử, chẳng
qua là nhằm bảo tồn nước Hàn đó thôi, nào có chủ ý làm lợi cho Tần. Chẳng hiểu
vì lẽ nào, đã không thuyết phục được vua Tần thì thôi, Hàn Phi Tử lại cứ nấn ná
mãi bên Tần, không chịu về nước ngay. Có lẽ bởi cử chỉ quái gỡ đó, khiến cho Lý
Tư nghi, e Hàn Phi Tử ở lâu, rồi sẽ được vua Tần trọng dụng, thay cho địa vị của
mình, nên đã bất chấp tín nghĩa bạn học với nhau, ngầm thông đồng với Diêu Giã

hãm hại Hàn Phi Tử, kết thúc cuộc đời bi thống vào năm 233 TCN khi chưa đầy 50
tuổi. Trớ trêu thay, những bậc tiền bối của Pháp gia, là Ngô Khởi và Thương Quân,
đề có công lớn với triều đình, thế mà cũng chết bất đắc kì tử. Ngô Khởi bị phân
thay, Thương Quân bị xe cán xác, Hàn Phi Tử thì bị bạn học bức tử nơi xứ người.
Trên lịch sử Trung Quốc, Hàn Phi Tử là một triết gia bị ngộ nhận nhiều nhất,
bởi tư tưởng của người chỗ nào cũng trái ngược với đạo Nho, một học phái đã
giành được địa vị chính thống, kể từ đời Đường, Tống trở đi. Do đó, học thuyết
của Hàn Phi Tử, thậm chí bị coi như tà thuyết, dị đoan.
3.2. Cơ sở hình thành tư tưởng pháp trị
Lịch sử Trung Quốc đã từng kiểm nghiệm vai trò các học thuyết “Nhân trị”,
“Đức trị”, “Vô vi trị”, “Kiêm ái”… Song tất cả đều tỏ ra bất lực, vì không đáp ứng
được yêu cầu của thời cuộc. Vào lúc tưởng chừng bế tắc đó, học truyết pháp trị đã
xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tư cách là đường lối chiến lược chính trị lấy pháp
luật làm công cụ chủ yếu. Trong lịch sử xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi Tử
phê phán mạnh mẽ lý thuyết chính trị của Nho gia. Ông cho rằng cách cai trị dựa
trên tinh thần nhân đức của nhà cầm quyền là trái với thực tế và nếu áp dụng vào
thực tế thì sẽ làm loạn đất nước. Đối với ông nền tảng của việc cai trị đất nước
chính là sự chế ước bản thân, một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự
nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Hàn Phi Tử quan niệm nhà vua
cũng là người bình thường như bao người khác, cái làm cho đất nước trị hay loạn
không phải là ông vua đó ra sao mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Then
chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có pháp
luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn
định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm
cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Hàn Phi Tử đã đề xuất tư tưởng “trị
nước bằng luật pháp” [dĩ pháp trị quốc], chủ trương “luật pháp không phân biệt
sang hèn” [pháp bất a quý], “hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng
không bỏ sót kẻ thất phu” [hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu].
Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận
pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”,

“thuật” với “thế”.
4. Nội dung tư tưởng của Hàn Phi Tử trong pháp trị
4.1. Một số nội dung cơ bản của phép trị nước
Triết lý chính trị của Hàn Phi Tử, bắt nguồn từ tư tưởng “Phú quốc binh
cường” của Ngô Khởi cùng Thương Quân, hình thành một hệ thống gồm ba chủ
điểm là: “Pháp”, “Thuật” và “ Thế” là ba yếu tố cần thiết không thể tách rời. Theo
ông, sở dĩ dùng pháp luật, mệnh lệnh, hình phạt là phương pháp có hiệu quả nhất vì
“dân vốn nhờn với lòng thương mà chỉ tuân theo uy lực”. Nhưng muốn “pháp” có
thể thi hành được thì vua phải có “thế”, tức là phải có đầy đủ uy quyền. Tuy
nhiên,muốn cai trị được tốt thì ngoài “thế” và “pháp” còn phải chú ý đến “thuật”,
tức là phương pháp điều hành. Thuật bao gồm ba mặt: bổ nhiệm, khảo hoạch và
thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là khi chọn quan lại chỉ căn cứ theo tài năng chứ
không cần đến đức hạnh, dòng dõi; đồng thời phải xuất phát từ yêu cầu của công
việc để đặt chức quan, chức qua không cần thiết thì bãi bỏ. Thuật khảo hạch và
thưởng phạt là căn cứ theo trách nhiệm để kiểm tra hiệu quả công việc, làm tốt thì
thưởng, không làm tốt thì chém. Ngoài ba thứ đó, ông vua chuyên chế không cần
thứ gì khác, tức là không cần nhân nghĩa ân huệ, không cần trí tuệ, không cần hâm
mộ trung tín.
4.1.1: Pháp
Hàn Phi Tử quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn
định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ
thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày
ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong
thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số
ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới
không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”.
Theo ông định nghĩa cho Pháp có ba điểm chính:
• Là pháp lệnh do cửa quan ban ra, mọi người phải tuân theo.
• Nội dung chính yếu của pháp lệnh là Thưởng và Phạt.
• Pháp ví như tấm gương sáng có thể soi thấu tà gian; pháp ví như cán

cân, tiêu biểu cho lẽ công bằng.
Nếu xét theo quan niệm hiện đại, thì hàm nghĩa của “Pháp” gồm có hai mặt
tích cực và tiêu cực.
- Về mặt tiêu cực: là có tính cách phòng ngừa, pháp đã quy định sẵn,
trường hợp phạm và lệnh cấm nào thì phải chịu theo hình phạt ấy.
- Về mặt tích cực: có những điều khoản bảo đảm quyền lợi cho người
dân.
Nhìn lại cái gọi là “Pháp” mà Hàn Phi Tử luôn luôn nhấn mạnh, thì chỉ có
mặt tiêu cực mà thôi. Nói cách khác, “Pháp” của Hàn Phi Tử, chỉ có những điều do
kẻ thống trị đòi hỏi ở nhân dân thôi, ngược lại, nhân dân chẳng có quyền đòi hỏi
điều gì ở kẻ thống trị. Đọc sách “ Hàn Phi Tử” người ta thấy chữ “Pháp” hay gắn
liến với chữ “cấm”. Vậy cái gọi là “Pháp” [tức là lệnh cấm], là những gì mà kẻ
thống trị đòi hỏi một chiếu ở người dân, ai làm đúng với lệnh dó thì được thưởng,
trái với lệnh đó là phải thưởng, phạt. Thưởng và phạt là hai cái án giúp cho kẻ
thống trị kiểm soát, thậm chí nô dịch nhân dân. Để pháp lệnh được thi hành hữu
hiệu, đòi hỏi kẻ hành pháp phải công bằng, vô tư. Hàn Phi Tử đã viết trong thiên
“Ngũ xuẩn” rằng: “Phù thùy khấp bất dục hình giả, nhân giả; nhiên nhi bất khả bất
hành giả, pháp giả. Thiên vương thắng khì Pháp, bất thính kì khấp”. [phàm là
người rơi lệ, không đành lòng gia hình cho kẻ khác, là Nhân; nhưng buộc không
gia hình cho kẻ khác là Pháp. Tiên vương sở dĩ đã thắng lợi thành công , là nhờ
vào Pháp,chẳng màng đến tiếng khóc than]. Theo quan niệm của Hàn Phi Tử như
vậy, thì Pháp chẳng những có ý nghĩa pháp lệnh quốc gia về mặt chính trị, đồng
thời còn là tiêu chuẩn tối cao về giá trị xã hội nữa. Do đó, Hàn Phi Tử đã đả kích
hầu hết các thuyết khác, kể cả Khổng - Mạnh, Lão - Trang và Mặc Tử nữa.
Theo Hàn Phi Tử, nội dung chính yếu của Pháp là thưởng và phạt. Sở dĩ
phải nhấn mạnh về vấn đề thưởng phạt, là vì có 3 nguyên nhân sau đây:
• Người ta có tâm lí ham thưởng, sợ phạt, nên áp dụng luật thưởng, phạt
là phương pháp cai trị hữu hiệu nhất.
• Nếu vua chúa để mắt nhìn, để tai nghe và dùng đầu óc suy tư thì rất dễ
bị thần thuộc a dua lừa bịp. Một khi đã áp dụng luật lệ thưởng, phạt, thì sẽ tránh

được tệ hại đó bởi điều thưởng phạt là phán xét theo xử kiện khách quan, việc gì
đáng thưởng, điều nào đáng phạt, điều được định sẵn bằng luật lệ minh bạch, khỏi
bị ảnh hưởng bởi tình cảm chủ quan.
• Thưởng phạt là lợi khí sắc bén để vua chúa kiểm soát thần thuộc.
Ví như: Bá Di, Thúc Tề, vì tưởng niệm cố quốc, bất mảng chính trị mà chịu
chết đói trên núi hoang, được Khổng Tử tôn là hiền sĩ, nhưng với Hoàng Phi thì
cho rằng, những người chẳng ham thưởng, không sợ phạt như vậy, là” hạn thần
dân vô ích”, theo tiêu chuẩn giá trị chữ “Pháp”
Hai thiên Giải Lão và Dụ Lão trong tác phẩm Hàn Phi Tử, đã chứng tỏ Hàn
Phi Tử rất am hiểu Đạo gia. Nhìn chung, cả Đạo gia và Pháp gia đều yêu cầu mọi
việc phải luôn biến đổi. Đạo gia nhấn mạnh đến tính tương đối của tri thức con
người cũng như của chế độ, còn Pháp gia đi đến kết luận rằng, cần phải lấy yêu cầu
trước mắt làm phương hướng cho việc giải quyết các vấn đề chính sự. Nó đòi hỏi
người đứng đầu bộ máy quyền lực phải luôn theo sát tình hình thực tế: “Bậc thánh
nhân không cốt trau dồi chuyện xưa, không noi theo những nguyên tắc bất biến,
khi bàn việc làm ở đời thì dựa theo tình hình của thời mình mà đặt ra những biện
pháp”. Hàn Phi Tử phê phán một cách gay gắt những người “hủ Nho”, coi đó là
“bọn học giả dốt nát ở đời không biết bản chất của việc trị và loạn, cứ nói năng
nhảm nhí và dẫn những sách của người xưa để làm rối việc cai trị ở đời này Nếu
nghe lời họ thì nguy, nếu dùng kế họ thì loạn. Đó là điều ngu hết sức lớn và là mối
lo hếtsức lớn”.
Hàn Phi Tử hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh
ban bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho
những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Đây là một
tư tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng
nơi cửa công” khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý
tộc nắm quyền đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho
dân biết pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi
người, chứ không phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương
thức phòng bị tích cực, chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời,

nó cũng chính là “hiến lệnh”– một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ
yếu của “pháp” có thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
Thực hành pháp trị tất phải xây dựng pháp luật. Hàn Phi Tử cho rằng, lập
pháp cần phải xét đến các nguyên tắc sau:
• Tính tư lợi. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con
người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc khéo
hút mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình
thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi.Cho nên, người bán cỗ xe làm
xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài
thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ đóng cỗ xe có lòng
nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi
của anh ta là ở chỗ người ta chết”. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải
lớn hơn cái hại.
• Hợp với thời thế. Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc
thực tế của việc xây dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét
nổi bật trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp
luật siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà noi
theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay
đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao Thời thế
thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn Cho nên, bậc thánh
nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả
năng mà thay đổi”
• Ổn định, thống nhất. Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế,
song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi
[“số biến pháp”], vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà
còn tạo cơ hội cho bọn gian thần.
• Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm.
• Đơn giản mà đầy đủ.
• Thưởng hậu phạt nặng.
Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là:

• Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”.
• Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”,
“hình bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ
– nhà vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là
kẻ phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”; Nếu nhà
vua biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những dân sẽ được
yên, mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm này
thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh
không thể xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi
pháp quyền.
• Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho
người không có công, vô cớ sát hại người vô tội.
• Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.
4.1.2: Thuật
Thuật là quan niệm rất quan trọng, trong tư tưởng của Hàn Phi Tử, luôn luôn
gắn liền với “Pháp”, chỉ có khác ở chỗ, Pháp để trị dân, còn thuật thì để nhà vua
kiểm soát thần thuộc. Vậy thuật của vua là thuật gì? Một là, “cách tắt nhi bất
thông, chu mật nhi bất hiện”. [Ngăn cách đừng thông nhau, kín đáo đừng lộ liễu];
hai là, giấu kĩ tình cảm ghét thương. Về điểm một là bảo, kẻ làm vua nên sống cách
biệt với quần thần, đừng để họ thấy cử chỉ của mình mà đoán biết ý định chân
chính của mình; hai là bảo người làm vua phải tập làm sao cho tình cảm ái lạc hỉ
nộ của mình,chẳng bao giở biều lộ ra ngaoì, có vậy thì đám thần sẽ không cách nào
khai thác, lợi dụng tình cảm của mình. Xem đó thì ai muốn có “thuật” làm vua,
cũng chẳng dễ gì, cần phải học hỏi thêm công phu tu thân, dưỡng tính vừa hư vừa
tĩnh của cả nhà Nho lần nhà Đạo, mới mong thành công được. Để giữ gìn quyền
lực tuyệt đối của vua, Hàn Phi khuyên các vua chúa không nên tín nhiệm kẻ khác.
Đã không nên tín nhiệm mà thật tế lại đòi hỏi, không thể không dùng người làm
việc cho mình, cho nên cần phải có thuật khống chế người, bằng những pháp lệnh
khắt khe, khiến cho người ta khiếp sợ, phải cúi đầu khuất phục.
Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật” của nhà

vua, bởi vì “bầy tôi đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục, chỉ vì bị tình
thế buộc không thể không thờ”.Nhà vua dựa vào pháp trị để làm cho đất nước giàu
mạnh, song nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu mạnh của
nước mà làm giàu có cho các quan đại thần mà thôi”. Do vậy, nhà vua phải có
“thuật” để dùng người. Đối với Hàn Phi Tử, “thuật” chính là một loạt các phương
pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử, thưởng phạt của nhà vua. Trong đó, phép hình
danh là một thuật không thể thiếu được của bậc quân chủ. Với cách nhìn như vậy
thì “pháp” và “thuật”gắn bó chặt chẽ với nhau: “Nhà vua không có thuật trị nước
thì ở trên bị che đậy; bầy tôi mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới. Hai
cái không thể thiếu cái nào, đó đều là những công cụ của bậc đế vương”. Thời
chiến quốc, xu hướng chính trị chung là mưu cầu quốc gia phú cường [giàu
mạnh], để đi tới mục tiêu cuối cùng là đại thống nhất, cho nên đòi hỏi phải có nhà
lãnh đạo chí tôn chí cường, thì Hàn Phi quan niệm “Pháp” và “Thuật” là điều kiện
tất yếu, khả dĩ đem lại quyền lực tuyệt đối, cho nhà lãnh đạo chí tôn chí cường.
4.1.3: Thế
Ngoài “pháp” và “thuật”, Hàn Phi Tử đặc biệt coi trọng “thế”. “Thế” còn
được gọi là “quyền thế”, “uy thế”, “thế trọng”, nó chỉ một sức mạnh quyền uy
tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối cao của ông vua, bao gồm quyền sử
dụng người, quyền thưởng phạt,…Nguyên quan niệm về Thế, là do Thận Đáo khởi
xướng, kịp đến tay Hàn Phi Tử, thì càng coi đó là điều kiện căn bản nhất của nhà
lãnh đạo. Nếu chưa mà thiếu cái Thế mạnh, thì Pháp không thể hành, và sở dĩ chúa
phải dùng đến Thuật, là nhằm bảo vệ cái Thế.
Trong tư tưởng của Hàn Phi Tử, quyền lực là tất cả, như đã viết trong thiên
“Hiển học”: “Thị cố lực đa tắc nhân triều, lực quả tắc triều ư nhân, cố minh quân
vụ lực”. [Bởi vậy cho nên, quyền lực nhiều thì người ta đến chầu mình, quyền lực
kém thì phải đi chầu người ta. Do đó, minh chúa phải nắm quyền lực] và “Quyền
thế bất khả dĩ tá nhân, thượng thất kì nhất, hạ dĩ vi bách”. [Quyền thế chớ chia sẻ
cho người ta, khi bề trên chia mất một quyền, thì kẻ dưới sẽ lạm dụng thành trăm].
Hàn Phi Tử không những coi trọng quyền lực, mà còn là kẻ sùng bái quyền lực. Đó
là ý nghĩa chung của kẻ chủ trương độc tài, chuyên chế từ cổ chí kim, từ đông chí

tây, họ coi quyền lực là chân lý, có quyền lực là có tất cả.
Hàn Phi Tử cho rằng, chỉ khi nào nắm quyền thống trị trong tay, thì một
người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể cai trị dân chúng. Trong thiên “Bát
kinh”, ông viết:“Cái thế là cơ sở để thắng đám đông” [Thế giả, thắng chúng chi tư
dã].Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Hàn Phi quan
niệm rất rõ ràng những điểm trọng yếu về thế:
• Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế.
• Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi.
• Cần sử dụng thuật thưởng phạt để củng cố quyền thế.
• Vua phải duy trì địa vị độc tôn của mình, không được để bề tôi quá quý hiển,
đề phòng đại thần tiếm quyền. Vì vậy, nếu chỉ xét về bản thân vị vua, thì
“thế” là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn“pháp” và “thuật” chỉ là công
cụ.
Sử dụng “pháp”, “thuật”, “thế” cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập
quyền quân chủ, tạo nên bối cảnh chính trị “việc tuy ở bốn phương song then chốt
ở tại trung ương, thánh nhân nắm giữ cái chủ yếu, bốn phương đến phục dịch” [sự
tại tứ phương, yếu tại trung ương, thánh nhân chấp yếu, tứ phương lai hiệu. “Hàn
Phi tử. Dương quyền”]; từ đó, góp phần tạo ra một xu thế lịch sử cho việc xây
dựng một nhà nước trung ương tập quyền phong kiến thống nhất.
4.2. Một số hạn chế
Trên thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã thu phục được
các nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc
Trung Hoa. Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở lại, Pháp gia cùng
hệ thống pháp trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về phương diện này,
Ngô Kinh Hùng, nhà triết học pháp luật nổi tiếng người Trung Quốc, đã đưa ra một
nhận xét tương đối xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm
của Pháp gia [trong đấy có Hàn Phi] tồn tại nhiều điểm quá cực đoan:
• Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình
phạt nghiêm khắc. Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn
Phi nói riêng quá máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi

trong việc sử dụng pháp luật. Ông coi các điều khoản pháp luật chính thức là
hình thức duy nhất phù hợp với pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập
quán.
• Pháp gia chỉ chú trọng đến hành chính pháp luật và làm thế nào để quốc gia
phú cường chứ không giáo dục dân, bất chấp nguyện vọng của nhân dân,
ông chỉ bảo vệ người già và giai cấp quý tộc. Ông chỉ nhìn thấy con người ở
góc độ vụ lợi, cho đến nhà nước theo ông cũng quy về chủ nghĩa thực dụng,
không thấy được lý tưởng cao đẹp và sẵn sàng hy sinh quên mình cho những
lý tưởng ấy của những người có tâm có đức. Ông tuyệt đối hóa pháp luật ở
những khía cạnh biểu hiện cụ thể của nó, mà không thấy được còn những
công cụ khác kết hợp để trị nước. Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú
trọng đến phương diện vật chất; thực ra, luật pháp cần phải giúp phát triển
một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
• Ở ông, có lòng nhiệt huyết cải cách, song lại quá thiếu ý thức lịch sử, dường
như là muốn sáng tạo lại lịch sử. Tuy Hàn Phi quan niệm vua phải tuân theo
pháp luật, song trên thực tế, vua là người siêu vượt lên trên pháp luật, vì mọi
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều nằm trong tay nhà vua. Hơn nữa,
xem xét dưới góc độ kỹ thuật, dù có một số người vẫn quan niệm pháp luật
của Hàn Phi là sự kết hợp giữa lễ và hình, song để so sánh, thì“hình” vượt xa
“lễ” rất nhiều. Trên thực tế, hình phạt là nền tảng của những điều luật mà
Pháp gia đưa ra. Tư tưởng pháp trị của Trung Quốc mà Hàn Phi là đại biểu
xuất sắc nhất vẫn thiếu một tinh thần pháp luật tối thượng.Vì vậy, Pháp gia
quá nhấn mạnh mặt trừng phạt nặng nề, phủ nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu
văn hóa giáo dục là đi ngược lại với sự phát triển của văn minh, làm cho
mâu thuẫn xã hôi ngày càng gay gắt.
5. So sánh với Nho gia
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi Tử đã phê phán
mạnh mẽ lý thuyết chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa
trên nhân đức của nhà cầm quyền [dưới các tên gọi “nhân trị”, “đức trị” hay “lễ
trị”] là trái với thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó thì sẽ làm loạn đất nước.

Khổng Tử - người sáng lập Nho gia – làm hết sức để nhằm mục đích cho
người quân tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước
chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự
nhiên mang lại hòa bình, ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng nói: “Bản thân
mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì [người khác] cũng thi hành; còn nếu
bản thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì [người khác] cũng không tuân
theo”. [Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Luận
Ngữ. Tử Lộ]. Theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước chính là
đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt được qua
“lễ”. Khổng Tử đặc biệt là người nệ cổ, thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện của
ông là làm sao để xã hội có thể trở về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử ông tổ của phái
Mặc gia, cũng rất đề cao quá khứ.
Hàn Phi Tử đã phê phán một cách hết sức sắc sảo loại quan điểm này:
“Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ trương của hai người
khác nhau. Họ đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Nghiêu, Thuấn
không sống lại thì ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc đúng với Nghiêu, Thuấn?
Đời Ân, đời Chu đã hơn 700 năm; đời Ngu, đời Hạ trước đấy đã hơn 2000 năm mà
còn không quyết định được cái đúng của đạo Nho và đạo Mặc. Nay lại muốn
nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách đây 3000 năm, chẳng phải là không
thể làm được sao? Các nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để
pháp luật có được tính phổ quát nhất định, hay nói cách khác, để có một nền pháp
trị, Pháp gia nói chung và Hàn Phi Tử nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà
những kẻ cai trị luôn muốn tự khoát lên mình.
Hàn Phi Tử quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao
người khác. Cái làm cho đất nước muốn trị hay loạn không phải là ông vua của
nước đó ra sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản
Trọng và Tể Hoàn Công thường được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng
này. Các nhà Nho tôn quân, Hàn Phi Tử cũng tôn quân nhưng tôn quân theo một
cách khác. Ông viết: “Bọn nhà Nho đời nay nói đến nhà vua lại không nói đến cái
làm cho đời nay được trị vì mà nói đến công lao trị an ngày xưa, không hiểu rõ

công việc phép quan, không xét kĩ tình hình của bọ gian tà, mà đều nói đến những
chuyện truyền từ thời thượng cổ, ca ngợi công lao của các tiên vương. Nhà Nho tô
vẽ lời nói, bảo: “Nghe lời nói của ta thì có thể làm bá vương”. Loại người nói như
vậy cũng như thầy cúng, đông cốt, vị vua có pháp độ không nghe. Cho nên vị vua
sáng nêu lên những việc có thực, bỏ cái vô dụng, không có chuyện nhân nghĩa,
không nghe lời bọn học giả.
Sỡ dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi Tử đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi
ông có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn
đời xưa để phê phán đời nay hay lấy cái qua khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại,
Hàn Phi Tử cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt
nguồn từ thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự
chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế: “Trẻ con
đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nhưng
chiều đến thế nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để chơi,
nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, hùng
biện mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà không
biết sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chư
không dùng để trị nước”.
Trên đây là những tư tưởng pháp trị mang tính toàn diện nhất được đề xuất
và tổng hợp bởi triết gia tài ba Hàn Phi Tử.
6. Ảnh hưởng của tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử
6.1. Trung Quốc đương thời
Như ta đã biết tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử gồm có ba nội dung chính
là: “Pháp”, “Thế” và “Thuật”. Ba phạm trù này không có tách biệt mà có mối quan
hệ móc xích với nhau và phát triển cho nhau. Chính vì vậy Pháp gia là sự kết hợp
nhuần nhuyễn của “Pháp”, “Thế”, “Thuật”. Như thế tư tưởng pháp trị mới thực sự
được thực hiện. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong chính sách cai trị đất nước
của Tần Thủy Hoàng. Thâu tóm lục quốc, thống nhất thiên hạ là thành công đầu
tiên thể hiện triết lí Pháp gia của Hàn Phi Tử, tiếp theo đó là xây đựng nhà nước
tập quyền Trung Ương và thực hiện củng cố chế độ Trung ương tập quyền.

Đại diện tiêu biểu cho việc ứng dụng triệt để tư tưởng Pháp gia vào cai trị
đất nước và đạt nhiều thành tựu đáng kể là Tần Thủy Hoàng.
Năm 770TCN – nước Tần là một nước vốn có lãnh thổ nhỏ quốc lực không
mạnh mới được phong làm một trong những Hầu Quốc phía Tây của Trung Quốc,
vì thế luôn bị Hầu Quốc Trung Nguyên khinh thường. Lúc bấy giờ sự nghiệp thống
nhất và phát triển Trung Quốc đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một
trình độ mới, trong đó tư tưởng về “Pháp”, “Thế”, “Thuật” vừa được phát triển
hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi Tử đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã
được Tần Thủy Hoàng vận dụng triệt để, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công
thống nhất đất nước.
+ Vài nét về Tần Thủy Hoàng [246 – 209TCN]: Tần Thủy Hoàng là con của
Trang Tương Vương nước Tần, ông họ Doanh tên Chính. Do cha Trang Tương
Vương làm con tin nước Tần ở nước Triệu, Trang Tương Vương lấy người thiếp
của Lã Bất Vi nên Tần Thủy Hoàng đã được sinh ra tại Hàm Đàn vào tháng giêng
năm thứ 48 của đời Tần Chiêu Vương. Sau khi trở về nước, Trang Tương Vương
được phong làm vua và Doanh Chính được phong làm thái tử. Năm 147TCN, Tần
Trang Vương chết và thái tử Doanh Chính lên ngôi Hoàng đế năm 13 tuổi, song
mọi quyền hành đều nằm trong tay tướng quốc Lã Bất Vi. Năm 233TCN là năm
thứ 9 vương triều Tần, Doanh Chính đã 22 tuổi, lúc đó mới thực sự cầm quyền
điều hành đất nước. Năm năm sau thì Doanh Chính bãi miễn chức tướng quốc của
Lã Bất Vi, thế vị trí đó là Lý Tư và tập trung quyền lực vào tay mình. Tần Doanh
Chính bắt đầu sự nghiệp trị quốc của mình.
Ngay từ khi lên nắm chính quyền, Tần Doanh Chính đã thực sự tiếp thu một
cách sau sắc tư tưởng dùng pháp trị để trị quốc của Hàn Phi Tử.
Năm 230 TCN Tần Thủy Hoàng phát động chiến tranh với quy mô lớn, trải
qua 10 năm lần lượt tiêu diệt Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề, đến năm 221TCN đã
thống nhất 6 nước, nhờ vậy cục diện chia rẽ 600 năm ở Trung Quốc đã kết thúc.
Lấy tư tưởng Pháp gia làm chủ đạo, sau khi thống nhất 6 nước, Tần Thủy
Hoàng đã áp dụng một loạt các biện pháp để củng cố nước Tần. Nhờ đó đã đạt

được một số thành tựu sau:
- Là triều đại đầu tiên bãi bỏ chế độ phân chư hầu trước đây, thiết lập chế độ
quân huyện để xác lập quyền lực tuyệt đối của Hoàng đế.
- Đặt ra tiêu chuẩn hóa chữ viết, tiêu chuẩn hóa hệ đo lường [về trọng lượng,
khối lượng, thước đo…] và luật pháp thống nhất áp dụng trên toàn lãnh thổ.
- Mở rộng lãnh thổ xây dựng biên cương, xây dựng cơ sở hạ tầng [đường xá,
cầu cống…], nông dân được ưu đã, ruộng đất nằm trong tay người làm
ruộng, mở rộng các kênh tưới tiêu cho nông nghiệp, khuyến khích dân nhập
cư, tăng gia sản xuất lao động, chế tạo sản phẩm, thuế thu trực tiếp từ bộ
máy quản lý nhà nước không thông qua gia cấp quý tộc…
- Pháp luật công khai những điều luật, luật lệ, quy định mang tính nguyên tắc
được biên soạn rõ ràng, minh bạch như khuôn mẫu, được chép trong đồ thư
và bày ra nơi qua phủ, ban bố rộng rãi cho dân chúng biết.
- Quân đội thuộc về nhà nước không thuộc về quản lý của giới quý tộc.
- Thiết lập bộ máy chính quyền mới có tính hệ thống.
- Quan trọng nhất là việc thống nhất tư tưởng.
Tuy nhiên tư tưởng pháp trị cũng bộc lộ nhiều điểm quá cực đoan như:
- Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa trên những hình
phạt nghiêm khắc.
- Quan niệm về pháp luật của pháp gia nói chung và của Hàn Phi Tử nói riêng
qua máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử
dụng pháp luật.
- Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với
pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
- Giải thích mục tiêu pháp luật qua chú trọng đến phương diện vật chất; thực
ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác
nhau.
- Lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch sử,
dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử.
Vì thế việc áp dụng triệt để tư tưởng pháp trị của Tần Thủy Hoàng đã dẫn

đến nhiều hệ lụy như: áp dụng hệ tư tưởng do thực hiện độc tài chính trị khiến các
trí thức không phục; thủ tiêu nhiều tâp quán văn hóa do tiêu diệt các trường phái tư
tưởng khác; bác bỏ lễ trị, coi thường nhân, lễ, nghĩa [nặng về hình, nhẹ về đức] đã
đánh mất lòng dân, không thu phục lòng người; phân chia của cải trong xã hội
không hợp lý; triều đình nắm hết các mối lợi thương nghiệp, địa chủ thâu tóm tài
sản đất đai; giới quý tộc cũ không được hưởng ưu quyền, đặc quyền dẫn đến bất
bình, ngấm ngầm bùng nổ;… Từ đó khiến nhà Tần sụp đổ chỉ sau 4 năm Tần Thủy
Hoàng qua đời.
6.2. Xã hội phong kiến Việt Nam
Trong xã hội phong kiến Việt Nam thì tư tưởng về đường lối trị nước là sự
phản ánh ý chí, chủ trương của các triều đại phong kiến trong lịch sử, đồng thời
quyết định sự tồn vong của một triều đại. Trong lịch sử Việt Nam gắn liền với các
triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần tư tưởng về đường lối trị nước được hình
thành và phát triển cùng với sự hoàn thiện của bộ máy nhà nước phong kiến.
Đường lối trị nước của thời nhà Trần so với thời nhà Lý là một bước phát
triển mạnh mẽ. Đó không còn đơn thuần là đường lối “đức trị” với tinh thần “từ bi,
bác ái” của nhà phật như thời Lý mà là đường lối kết hợp “ đức trị” với “ pháp trị”
trên tinh thần “đức chủ, pháp bổ”, vị trí “đức trị” giữ vai trò chủ đạo trong cách cai
trị của nhà Trần. C hỉ mấy năm sau khi lên ngôi, năm 1230 Lê Thái Tông đã lập
tức cho “khảo xét các luật lệ của triều trước soạn thành Quốc triều thông chế và
sửa đổi hình luật lễ nghi gồm 20 quyển”. Đến đời Trần Dụ Tông, vua lại sai
Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên định bộ Hình thư. Đồng thời với
việc biên soạn luật pháp, nhà Trần còn quan tâm đến việc hoàn chỉnh các cơ quan
chuyên trách về thư pháp và thể lệ xét xử. So với thời Lý thì thời Trần có bước
phát triển hơn cả về việc biên soạn luật lẫn việc kiện tụng. Ở trung ương nhà Trần
có cơ quan chuyên xét việc kiện tụng gọi là viện Thẩm hình, ngoài ra còn có viện
Đăng văn kiểm pháp làm nhiệm vụ xét hỏi của các cơ quan xét xử. Cùng với việc
làm đó là sự tuyển chon và bổ nhiệm những quan lại thanh liêm vào những cơ
quan pháp luật. Những người được lựa chọn vào làm việc ở các cơ quan luật pháp
phải thông qua thi cử, trong đó có thi về hình luật [thi thủ phân, hỏi về phép đối

án].
Đường lối kết hợp “đức trị” với “pháp trị” từ nhà Trần đến nhà Lê sơ là một
bước phát triển mới trong lĩnh vực chính tri – xã hội so với thời kì trước đây. Nếu
ở nhà Trần đường lối “đức trị” là chủ đạo có sự hỗ trợ của pháp luật thì đến thời Lê
sơ, vai trò của pháp luật đã được nâng lên ngang tầm với yếu tố đức trị. Nói cách
khác đó là đường lối trị nước “đức trị” kết hợp “pháp trị” theo đúng nghĩa của nó.
Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện thực tiễn cụ thể, có khi tư tưởng “pháp trị” đã
vượt lên và được đề cao hơn cả. Chẳng hạn, vua Lê Thái Tông khẳng định: “Từ
xưa đến nay trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên
học tập thời xưa đặt ra pháp luật, để dạy các tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân
chúng trăm họ, biết thế nào là thiện ác, điều thiện thì làm, chẳng lành thì tránh, chớ
để đến nỗi phạm pháp”. Chính vì vậy ngay từ những ngày đầu lên ngôi, việc lập
pháp đã được vua Lê Thái Tổ đặc biệt chú trọng. Năm 1428, ông đã “hạ lệnh cho
các quan… bàn định pháp lệnh cai trị quân dân để người làm tướng biết phép trị
quân, quan các lộ biết phép trị dân, cũng để răng đe quân dan biết có pháp luật”.
Nổi bật trong đường lối pháp trị của Lê Thái Tổ là việc đề cao pháp luật mà
trọng tâm là việc thưởng phạt nghiêm minh. Hình phạt dưới thời Lê Thái Tổ mặc
dù chưa chặt chẽ, song, có thể nói là rất nghiêm khắc, bởi tình hình đất nước khi đó
hết sức phức tạp, chưa ổn định sau nhiều năm chiến tranh loạn lạc.
Bộ Quốc triều hình triều hình luật nổi tiếng được hoàn thành dưới triều đại
của ông và được sử dụng kế thừa trong nhiều triều đại sau này với nội dung là bảo
vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật tự đẳng cấp và gia đình phụ hệ gia trưởng
thông qua cơ chế pháp luật. So với Hình thư của nhà Trần thì Quốc triều hình luật
– Bộ Luật Hồng Đức có sự phát triển cả về quy mô, nội dung, tính nghiêm khắc và
cả tính thực tiễn. Tuy nhiên dù Quốc triều hình luật là bộ luật nghiêm khắc, song
nó vẫn chứa được những yếu tố đạo đức như những nguyên tắc nhân đạo, được vận
dụng khi xử lí một số đối tượng, như phụ nữ, người già, trẻ em, người tàn tật…[các
điều 1, 16, 17, 18, 19… của bộ luật].
Đường lối trị nước giữa “đức trị” và “pháp trị” dưới triều Lê sơ được các
triều đại sau thừa kế. Nhà Mạc đã kế thừa gần như trọn vẹn các chủ trương, đường

lối của thời Lê Thánh Tông về tổ chức bộ máy nhà nước quan liêu cũng như hệ
thống giáo dục khoa cử của nó.
Nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam ngay từ
khi nắm quyền cai trị đất nước, đã thể hiện sự độc tôn nho giáo lần thứ 2, thể hiện
sự tiếp tục phát triển đường lối trị nước của nhà Lê sơ, bởi khi đó nhà Nguyễn,
đứng đầu là Nguyễn Ánh dù được người Pháp giúp đỡ lật đổ nhà Tây Sơn, nhưng
không vì thế mà học tập và xây dựng mô hình nhà nước phương Tây. Việc Nguyễn
Ánh ra lệnh cho các quần thần biên soạn bộ Hoàng triều hình luật [Luật Gia Long]
trên cơ sở kế thừa luật Hồng Đức và tham khảo luật lệ nhà Thanh cho thấy ảnh
hưởng của đường lối trị nước thời Lê sơ đối với nhà Nguyễn đến mức nào. Những
thay đổi ở một số điều khoản của luật Gia Long so với luật Hồng Đức cũng là điều
dễ hiểu, bởi ý chí và chủ trương về đường lối trị nước của bất kì triều đại nào cũng
điều bị quy định của sự tồn tại của xã hội và của chính triều đại đó.
Từ những điều trên ta có thể thấy rằng, Việt Nam chịu ảnh hưởng của các tư
tưởng từ Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là tư tưởng Đức trị của Nho giáo, pháp trị của
Hàn Phi Tử. Từ xa xưa các vị vua đã thấy được ưu điểm của pháp trị, biết lấy ưu
điểm, của Đức trị để khắc phục nhược điểm pháp trị, và sử dụng chúng một cách
tài tình trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
KẾT LUẬN
Trung Quốc là một quốc gia lớn trên thế giới, và là một nền văn minh lớn
trên nhân loại. Và đây cũng chính là quê hương của các nhà tư tưởng triết học nổi
tiếng trên thế giới như Nho gia, Đạo gia, Mặc gia… và đặc biệt là tư tưởng Pháp
gia của Hàn Phi Tử, mà đặc biệt là ở tư tưởng pháp trị của ông.
Quan niệm pháp chế [hay triết lý Pháp gia của Hàn Phi Tử], đáp ứng được
nhu cầu tập trung sức mạnh quốc gia nhằm thỏa mãn các mục tiêu quốc phòng là
phù hợp với nhu cầu phát triển của lịch sử. Là một trường phái triết học ra đời
muộn hơn so với các trường phái triết học khác như Nho gia, Đạo gia, Mặc gia…
Pháp gia đã kế thừa và phát triển những tư tưởng triết học, của những trường phái
triết học trước đó. Điều mà Pháp gia thừa kế đó là các chủ trương, chính sách trong
việc cai trị đất nước. Hàn Phi Tử là đại diện cho trường phái này, song ông không

phải là người đầu tiên đưa ra chủ trương dùng “pháp trị” để trị nước, ông đã kế
thừa từ Quản Trọng, Chương Ưởng và Thân Bất Hại, nhưng ông đã kế thừa và đã
có sự phát triển Pháp gia thành một trường phái hoàn thiện, với triết lý chặt chẽ về
Pháp – Thế - Thuật.
Những tư tưởng về Pháp trị của Pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho
sự nghiệp thống nhất đất nước Trung Hoa bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng,
trong bối cảnh xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc, tư tưởng chính trị
của Pháp gia mà tiêu biểu nhất là của Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng
được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng Pháp gia vẫn có nhiều yếu tố giá trị
có thể vận dụng trong xây dựng pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Mấy ngàn năm đã qua, chúng ta có thể chắc chắn một điều là không có gì là tuyệt
đối cả. Tư tưởng Pháp gia cũng vậy, nó cũng có những điểm tiêu cực, thậm chí là
phản động, nhưng nó cũng có nhiều điểm rất tiến bộ mà ngay cả ngày nay cũng là
lí tưởng.
MỤC LỤC
I. Mở đầu
II. Nội dung
1. Bối cảnh lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng Pháp gia
3. Hàn Phi Tử - cuộc đời và cơ sở hình thành tư tưởng pháp trị
3.1. Cuộc đời
3.2. Cơ sở hình thành tư tưởng pháp trị
4. Nội dung chủ yếu của phép trị nước
4.1. Một số nội dung cơ bản của phép trị nước
4.1.1 Pháp
4.1.2 Thuật
4.1.3 Thế
4.2. Một số hạn chế
5. So sánh với Nho gia
6. Ảnh hưởng của tư tưởng Pháp gia

6.1. Trung Quốc đương thời
6.2. Xã hội phong kiến Việt Nam
III. Kết luận
Tài liệu tham khảo
//vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p_gia
//www.kh-sdh.udn.vn/zipfiles/so26/03tr.Binh-ng%20kim.pdf
//www.facebook.com/nhatkyyeunuoc1/posts/776252225734860:0
//luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-tu-tuong-triet-hoc-cua-phap-gia-
va-su-anh-huong-cua-no-den-doi-song-chinh-tri-cua-thoi-dai-64377/

Chủ Đề