Phong cách ngôn ngữ khoa học là gì năm 2024

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... - 3.3. Văn bản khoa học phổ cập...............................................................

  • CHƯƠNG 4: LIÊN HỆ THỰC TẾ..........................................................................
    • 1. Liên hệ đến nghề nghiệp............................................................................
    • 1. Liên hệ đến việc làm tiểu luận....................................................................
      • 4.2. Một số quy cách chung....................................................................
      • 4.2. Phần khai tập....................................................................................
      • 4.2. Tài liệu tham khảo............................................................................
      • 4.2. Chú thích và trích dẫn......................................................................
  • CHƯƠNG 5: BÀI TẬP VẬN DỤNG...................................................................... BẢNG PHÂN CÔNG NHÓM 1ST

T MSSV Họ tên

Phân công Mức độ hoàn thành

1 47.01.606 [Nhóm trưởng]Võ Tấn Trung

  • Soạn tiểu luận chương 1, 2, 4
  • Làm powerpoint
  • Thuyết trình Chương 1, 2, 4
  • Đặt câu hỏi hàng tuần cho các nhóm khác 100%

2 47.01.606 Lư Tuyết Nhi

  • Soạn tiểu luân chương 3, 5
  • Thuyết trình Chương 3
  • Đặt câu hỏi hàng tuần cho các nhóm khác 100%

3 47.01.606 Nguyễn Gia Huy

  • Soạn tiểu luận chương II và chương IV
  • Thuyết trình 0%

[Đã bảo lưu]

4 47.01.601 Dương Châu DiệuHiền

  • Soạn tiểu luận chương 3, 5
  • Thuyết trình Chương 3
  • Đặt câu hỏi hàng tuần cho các nhóm khác 100%
  • Biến thể của phong cách khoa học Phong cách khoa học phục vụ cho phạm vi khoa học, mang chức năng là tìm tòi để hiểu biết hệ thống các kiến thức về những tính quy luật trong sự phát triển của giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Người nghiên cứu có thể đặt ra cho mình những nhiệm vụ chủ yếu khác nhau. Căn cứ vào đó, phong cách khoa học được chia ra các biến thể hay các phong cách nhỏ hơn: phong cách khoa học chuyên sâu, phong cách khoa học giáo khoa, phong cách khoa học phổ cập. Trong đó, phong cách khoa học chuyên sâu có nhiệm vụ chủ yếu là thúc đẩy sự phát triển của công việc nghiên cứu, phát minh khoa học. Đối với phong cách khoa học giáo dục, nhiệm vụ chủ yếu là thúc đẩy tư duy logic của người đọc, người nghe, từng bước đưa họ vào con đường nghiên cứu, chiếm lĩnh khoa học. Phong cách khoa học phổ cập có nhiệm vụ chủ yếu là hấp dẫn bạn đọc bằng những tìm tòi lí thú trong khoa học, qua đó nâng cao trình độ văn hóa nói chung của họ.
  • Kiểu và thể loại của văn bản khoa học Văn bản khoa học khi dựa vào nội dung ý nghĩa sự vật – logic, người ta chia nó ra làm hai kiểu, bao gồm văn bản khoa học xã hội với các lĩnh vực nghiên cứu như văn, sử, địa, tâm lý, ngôn ngữ,... và văn bản khoa học tự nhiên với các lĩnh vực toán, lí, hóa, sinh,... Khi dựa vào đặc điểm về kết cấu và tu từ, người ta chia văn bản khoa học thành các thể loại như bài giảng, sách giáo khoa, giáo trình, bài báo, chuyên luận, luận văn, tóm tắt luận văn,... Trong thời đại ngày nay, những công trình thuộc loại thông tin khoa học trở nên phổ biến rộng rãi. Chúng có nhiệm vụ chuyển những công trình khoa học đã công bố thành những tập sách, báo, những bài tổng quan có tính chất như những tập thư mục. Công việc này rất cần thiết bởi vì trong tình hình bùng nổ thông tin mà cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật đem lại, nhu cầu

rút ngắn dung lượng các công trình khoa học xuống mức thấp nhất có thể rất cao. Các công trình khoa học được rút ngắn bằng cách loại bỏ những chỗ dư thừa, bằng mọi cách nén ép thông tin.

trưng chung bao gồm: Tính trừu tượng – khái quát cao, tính logic nghiêm ngặt và tính chính xác khách quan.

2.2. Tính trừu tượng – khái quát cao Phong cách khoa học phải đạt tính trừu tượng – khái quát cao, vì khoa học phải thông qua khái quát hóa, trừu tượng hóa để nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan. Mục đích của khoa học là phát hiện ra các quy luật tồn tại trong các sự vật, hiện tượng nên càng không thể dừng lại ở những gì riêng lẻ, bộ phận, cá biệt. Đặc trưng này có thể thấy rõ khi so sánh những cách dùng cùng một từ trong lời nói khoa học và lời nói nghệ thuật. Trong ví dụ sau đây,

Ở ao chuôm nước sâu khoảng 1m nên thả 300 con cá

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Hiu quạnh bên trong một tiếng hò. Trích tạp chí khoa học Tố Hữu

Trong lời nói khoa học, từ “sâu” chỉ một khái niệm là “có độ sâu”, “có khoảng cách tính từ mặt nước đến đáy nước”, “sâu” là một từ đa phong cách, có nghĩa đen, nghĩa sự vật. Còn đối với lời nói nghệ thuật, từ “sâu” có nghĩa là “ diễn ra trong tâm hồn, trong những rung động nội tâm kín đáo của con người”. Từ “sâu” ở đây được dùng với nghĩa bóng, nghĩa phát sinh của nó.

2.2. Tính logic nghiêm ngặt Phong cách khoa học phải đạt tính logic nghiêm ngặt vì để gợi mở trí tuệ và thuyết phục bằng lí tính, lời trình bày, cách suy luận phải biểu hiện năng lực tổng hợp của trí tuệ, phải tư duy logic biện chứng. Tính logic là tính chất nhất quán trong sự phân bố tất cả đơn vị của văn bản và là sự có mặt của những mối liên hệ về nghĩa giữa những đơn vị này. Tính nhất quán này chỉ có

thể có ở những căn bản trong đó là các kết luận không gây ra mâu thuẫn, những đoạn văn tư duy từ cái riêng đến cái chung hoặc từ cái chung đến cái riêng. Tính logic của lời nói khoa học được phân biệt với tính logic của ngôn ngữ nghệ thuật. TÍnh chất cực kì khắc khe của tư duy khoa học yêu cầu tính chứng minh và tính có lí do đầy đủ nên logic trong khoa học là logic được chứng minh. Tư duy khoa học không chấp nhận sự mâu thuẫn hay phi logic nào. Tính logic trong nghệ thuật là logic hình tượng lời nói nghệ thuật dường như chấp nhận cả tính mâu thuẫn và yếu tố phi logic do sự sáng tạo chủ quan của tác giả chi phối.

2.2. Tính chính xác – khách quan Phong cách khoa học phải đạt tính chính xác – khách quan vì khoa học yêu cầu phản ánh chính xác, chân thật, khách quan các quy luật của tự nhiên và xã hội. Tính chính xác của phong cách khoa học được hiểu là tính một nghĩa trong cách hiểu, đòi hỏi không được tạo ra sự khác biệt giữa cái được biểu đạt và cái biểu đạt. Quá trình lời nói bên trong [nhận thức khoa học] và quá trình lời nói bên ngoài [thể hiện những kết quả của tư duy] vốn không đồng nhất về cấu tạo lời nói, về sự thể hiện của ngôn ngữ. Sự kết tinh cuối cùng của tư duy [những luận điểm khoa học] được thực hiện trong lời nói bên ngoài, không phải trong lời nói bên trong. Yêu cầu chính xác, khách quan của lời nói khoa học phân biệt với yêu cầu chính xác của lời nói nghệ thuật, xu hướng khái quát hóa. Ngôn ngữ nghệ thuật mang tính chất tạo hình, chính xác trong nghệ thuật có nghĩa là trung thành với hình tượng.

Ba đặc trưng nêu trên được biểu hiện rõ rệt trong những đặc điểm ngôn ngữ của phong cách này. Tất nhiên sự biểu hiện này có những mức độ khác nhau trong những kiểu và thể loại văn bản khác nhau của phong cách khoa học.

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA PHONG CÁCH KHOAHỌC

  1. Từ ngữ của phong cách khoa học Có một hệ thống thuật ngữ riêng, chuyên dùng trong từng lĩnh vực chuyên môn sâu. Tức là những từ hoặc nhóm từ dùng để biểu đạt các khái niệm khoa học mang dung lượng thông tin lôgic lớn. Ví dụ như các thuật ngữ trong toán học: hàm số, đạo hàm, tích phân, vi phân, hay các thuật ngữ trong văn học: kí, tự sự, biểu cảm, hình tượng, điển hình, tính cách,... Từ ngữ mang tính chất trừu tượng, khái quát ở mức độ cao, đặc biệt là trong các văn bản khoa học mang tính chất Triết học hoặc Toán học. Khác với văn học, nghệ thuật nhận thức hiện tượng khách quan bằng tư duy hình tượng, còn khoa học sẽ thông qua tư duy logic. Trừu tượng hóa và khái quát hóa phản ánh thế giới khách quan. Các thuật ngữ ấy đảm bảo yêu cầu ngắn gọn và chính xác. Ví dụ như sự sáng tạo, sự phát triển, yếu tố, ý thức, tính hiện thực, tính năng động. Từ ngữ đa phong cách, trung hòa về sắc thái biểu cảm, chủ yếu được dùng trong ý nghĩa khái quát. Ví dụ như hai nhận định sau đây “thông thuộc loại cây ưa khô”, “rắn là loài bò sát không chân”, thì ở đây “thông” với “rắn” được sử dụng với nghĩa số nhiều, khái quát.

Trong phong cách khoa học, trung bình danh từ được dùng nhiều gấp bốn lần động từ. Phần lớn các danh từ được dùng là danh từ trừu tượng: thời gian, hiện tượng, số lượng, thuộc tính, tần số, trạng thái, nhiệt độ.... Trong một số trường hợp, thái độ khiêm tốn của tác giả còn được bao quát qua đại từ ngôi ba [người ta] và ngôi một [ta, chúng ta, chúng tôi] phù hợp với tính chất khách quan, khái quát.

Từ ngữ trong ngôn ngữ khoa học chỉ được phép hiểu một nghĩa và là nghĩa đen, nghĩa sự vật- lôgic. Trong mạch trình bày, rất hạn chế thay thế một thuật ngữ bằng một từ đồng nghĩa hoặc các đại từ. Tính chất trung hòa của từ ngữ trong phong cách khoa học làm tốt chức năng thông báo khách quan và chứng minh thuyết phục để dễ dàng phân biệt với ngôn ngữ nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật lại rất chú ý khai thác nghĩa bóng, nghĩa hình tượng của từ để biểu hiện cách đánh giá chủ quan, thái độ tình cảm và khiếu thẩm mỹ riêng của nhà văn. Những phương tiện hình tượng trong lời nói khoa học chỉ có tính chất hai bình diện [chứ không có tính chất nhiều bình diện] chỉ có ý nghĩa ngữ cảnh hẹp [chứ không có tính chất hệ thống], chỉ có 1 vai trò phụ: giải thích, phổ cập, cụ thể hóa[chứ không phải là yếu tố quan trọng]

Phong cách ngôn ngữ khoa học nói chung, không dùng phép tu từ vì không có nhu cầu diễn đạt hình ảnh, bóng bẩy, biểu cảm như phong cách văn chương hay phong cách chính luận. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa các biến thể của phong cách khoa học về việc dùng phép tu từ. Trong các văn bản khoa học xã hội nhân văn và trong các thể loại văn bản phổ biến khoa học, người ta có thể sử dụng các phép tu từ theo những mức độ khác nhau nhằm làm cho sự diễn đạt hấp dẫn, sinh động, gần gũi với đối tượng độc giả.

  1. Cú pháp của phong cách khoa học 3.2. Đặc điểm cú pháp Phong cách khoa học thường sử dụng các hình thức câu hoàn chỉnh, kết cấu chặt chẽ, rõ ràng để đảm bảo tính chính xác, rõ ràng, mạch lạc về tư duy lôgic [cú pháp tiêu chuẩn – standard syntax]. Ngoài ra, còn sử dụng nhiều loại câu ghép, câu phức để diễn đạt đầy đủ, súc tích các vấn đề cần bàn luận, phân tích hay sử dụng các loại câu khuyết chủ ngữ và chủ ngữ không xác định

phương tiện ngôn ngữ. Được xây dựng theo một khuôn mẫu quy đình nghiêm ngặt đòi hỏi người viết phải tuân theo. Sau đây là một số kết cấu của văn bản khoa học chuyên sâu thường gặp. Trong bài báo khoa học: bắt đầu bằng việc trình bày lịch sử vấn đề, nêu lên tính thời sự của đề tài [lí do lựa chọn đối tượng khảo sát], xác định nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu. Trong phần chính cần trình bày hệ thống hóa và giải thích các sự kiện đã đạt được trong cuộc khảo sát. Tiếp theo cần đưa ra những kết luận, hệ quả, tóm tắt ngắn gọn những luận điểm của bài báo. Cuối cùng, bài báo thường được kết thúc bằng một bảng thư mục có thể kèm theo một phụ lục hay tài liệu minh họa. Bài giới thiệu sách: đòi hỏi khá chặt chẽ, thông tin ngắn gọn cho độc giả biết về chủ đề và nội dung của sách. Một bài luận văn hay một công trình khoa học hoàn chỉnh: cần tuân theo những quy định chặt chẽ cho các phần mở đầu, phần chính và phần kết luận. Bản tóm tắt luận án: phải phản ánh trung thành nội dung bản luận án, theo sát từng chương mục, tóm tắt ngắn gọn nhưng phải đầy đủ những luận điểm, những phân tích, kết luận. Trang cuối cùng dành cho việc công bố những công trình của tác giả đã được công bố có liên quán đến đề tài luận văn. Những thể loại “khép kín” như bản nhận xét đánh giá một luận văn, một công trình khoa học: có tính chất khuôn mẫu nhiều hơn. Ngoài việc nêu rõ đề tài, nội dung, tư liệu, tài liệu tham khảo còn phải có sự đánh giá về mặt ưu điểm lẫn khuyết điểm, xác định rõ giá trị về mặt lí luận, thực tiễn, có xứng đáng hay không xứng đáng được đưa ra bảo vệ. Có những thể loại cho phép biến đổi tùy theo mục đích cụ thể, tùy theo đối tượng học như: các bài báo khoa học có nội dung luận chiến, nội dung miêu tả tư liệu v...

3.3. Các công trình khoa học hiện đại Các công trình khoa học hiện đại thường được trình bày theo hai hình thức là hình thức độc thoại và hình thức đối thoại. Hình thức độc thoại là hình thức chủ yếu, phù hợp trong mức độ lớn với nội dung và nhiệm vụ của công trình khoa học. Trong đó có 4 kiểu độc thoại là miêu tả, tường thuật, biện luận và phê bình – luận chiến. Đối với hình thức đối thoại cho phép trao đổi một cách linh hoạt những phán đoán chung quanh những vấn đề mà trong khoa học chưa có cách giải quyết thống nhất. Hình thức đối thoại cung cấp khả năng chuyển một cách tự do từ việc trình bày một ý tưởng này sang một ý tưởng khác ngay khi giữa những ý tưởng này không có những mối liên hệ có thể nhìn thấy. Là hình thức tự do hơn, không đòi hỏi sự phụ thuộc nghiêm ngặt vào những quy luật của phong cách khoa học. Có 4 dạng đối thoại đó là tọa đàm [về những vấn đề trí tuệ], tranh luận khoa học, độc thoại được xây dựng theo lược đồ đối thoại, các yếu tố của đối thoại trong tường thuật độc thoại. Trong đối thoại có sự phản ánh của những nét cơ bản của phong cách KH vốn có trong công trình thuộc hình thức độc thoại. Tuy nhiên, những nét cơ bản này có đặc trưng riêng do đặc điểm cấu tạo của đối thoại quy định. Sự khác nhau giữa đối thoại và độc thoại chủ yếu ở khả năng diễn đạt to lớn của cái “tôi” tác giả trong đối thoại. Đó là một cọn người cụ thể phát biểu nhân danh chính mình. Lời nói khoa học đối thoại có những phẩm chất ngược lại với phong cách khoa học: tính cảm xúc và tính diễn cảm được diễn đạt hiển minh [ra bên ngoài], khả năng dựa vào sử dụng những yếu tố của các lớp tu từ học [nôm na, bình dân, thân mật, mộc mạc]. Các yếu tố của lời nói đối thoại được đưa vào độc thoại khoa học nhằm những mục đích tu từ khác nhau: có khi đó là nét phản ánh sự luận chiến với người khác quan điểm, có khi đó là phương tiện để hấp dẫn sự chú ý của người đọc.

học, sách giáo khoa, các giáo trình sẽ đóng vai trò là dụng cụ truyền dẫn kiến thức đến học sinh và là những công cụ để nghiên cứu dưới dạng những văn bản khoa học giáo dục. Dù là sinh viên ngành học nào cũng sẽ trải qua ít nhất từ 5-10 bài tiểu luận, việc nắm vững phong cách khoa học sẽ giúp cho sinh viên thực hiện tốt hơn bài tiểu luận, tránh các tình trạng lệch lạc kiến thức. Hình 4 & 4: Một số bài báo khoa học, công trình khoa học

Hình 4 & 4: Một số hình ảnh sách giáo khoa đang lưu hành hiện nay Một số yêu cầu chúng ta cần lưu ý khi sử dụng phong cách khoa học bao gồm cách diễn đạt, thái độ trình bày, cách trình bày ở dạng viết và nói. Đối với cách diễn đạt, khi diễn đạt phải rõ ràng, rành mạch và súc tính. Chúng ta phải tránh việc nói lan man, không rõ ràng vì sẽ vi phạm đến đặc trưng logic nghiêm ngặt của phong cách khoa học. Đồng thời những việc mà chúng ta trình bày ra phải là chính xác, có nghĩa. Thái độ trình bày phải luôn giữ ở

mức trung lập, không được đặt cái tôi cá nhân vào quá nhiều, ngoại trừ trường hợp trình bày một văn bản khoa học có thiên hướng nghệ thuật. Đối với việc trình bày viết, lấy ví dụ như một bài tiểu luận, chúng ta phải trình bày được đúng theo quy định cỡ chữ, giãn dòng và khổ giấy. Một điểm cần lưu ý đó chính là chúng ta phải hạn chế tối đa việc sai chính tả vì điều đó thể hiện sự thiếu chuyên nghiệp và không chú trọng một cách chỉn chu trong bài làm của mình. Đối với hình thức trình bày bằng lời nói, chúng ta phải giữ bình tĩnh, giữ cho mình một tốc độ nói vừa phải, dễ nghe. Ví dụ như việc thuyết trình trước một đám đông hay trong một tọa đàm, chúng ta phải biết rằng người nghe mình muốn gì, họ cần được nghe những gì và phải luôn để ý đến thái độ của người nghe.

4. Liên hệ đến việc làm tiểu luận....................................................................

4.2. Một số quy cách chung....................................................................

Thông qua học phần “Phương pháp nghiên cứu khoa học” được giảng dạy bởi PGS. TS. Hoàng Dũng của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, cùng việc tham khảo một số tài liệu về cách để làm một luận văn, luận án thạc sĩ, nhóm chúng tôi xin rút được một vài quy cách chung để trình bày một bài tiểu luận cho sinh viên như các mục chúng tôi sắp nêu sau đây. Về các quy cách về định dạng, khổ giấy của một bài tiểu luận tiêu chuẩn là khổ giấy A4, font chữ tiêu chuẩn là các font được đề cập đến như “.VnTime”, “VNI-Times”, “Times New Roman”, đây là các font chữ có chân, dễ nhìn, trang trọng và tùy theo cách gõ Unicode hoặc VNI mà font chữ sẽ được ứng dụng vào bài tiểu luận. Kích cỡ tiêu chuẩn của font chũ là 14, giãn dòng “1. lines”. Để căn lề theo đúng tiêu chuẩn, bài tiểu luận cần tuân theo 4 quy tắc căn lề như sau: lề trên 3,5 cm; lề dưới 3 cm; lề trái: 3,5 cm; lề phải: 2 cm. Về

Chủ Đề