lãng, ai cũng từng nâng trên tay nhưng ít ai thấy được sức nặng của nó. Một hạt gạo bé
nhỏ nhưng để có được hạt gạo ấy, cha mẹ chúng ta phải vất vả vật lộn với cả một vụ lúa:
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy
Đoạn thơ sử dụng biện điệp nhằm nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và
càng làm ta càng thương hơn những người mẹ chịu thương, chịu khó lội xuống ruộng
cấy mạ non giữa những trưa hè tháng sáu nóng bức. Khi nước nóng như đun sôi cả các
con vật cụng ngoi lên bờ để tìm sự sống thì mẹ lại xắn xuống ruộng, đội cả trời mnh
người mẹ hiện lên thật bình dị mà hung vĩ, chống trả với thiên nhiên khắc nghiệt để
giành lấy sự sống.
c] Lặp từ, cụm từ, cả câu nhằm tạo sự khẳng định
Ví dụ:
Trong bài Đất nước [TV5 tập 2, Nguyễn Đình Thi]
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Trong hai câu thơ, cụm từ đây là của chúng ta được nhắc lại hai lần nhằm khẳng
định chủ quyền làm chủ đất nước, khẳng định niềm tự hào vì được làm chủ một đất
nước đang tồn tại, đang hiện hữu ngay trước mắt với trời xanh, núi rừng. Dường như
tác giả đang đứng trên đỉnh cao để thu vào tầm mắt tất cả đất trời, sông núi. Đất trời
này giờ đây là của chúng ta.
1.1.3. Vai trò của biện pháp điệp
Khi muốn biểu đạt những tình cảm, những giá trị đặc biệt, hay khẳng định chắc chắn
một nhận định, người ta thường sử dụng biện pháp tu từ này. Tùy vào tần suất của sự xuất
hiện của thành phần điệp, qua đó người đọc có thể cảm nhận được các cung bậc tình cảm
của người viết gửi gắm trong câu văn, câu thơ. Người đọc cũng có thể nhận thấy được tác
giả muốn nhấn mạnh và làm rõ điều gì qua sự lặp đi lặp lại đầy nghệ thuật này. Có thể là
5
sự khẳng định chắc chắn điều mà tác giả muốn nêu ra, một tuyên ngôn mà người viết
muốn truyền lại cho người đọc dựa trên cái nền của ngôn từ:
Ví dụ: Trong bài Những cánh buồm Hoàng Trung Thông có đoạn:
Con bỗng lắc tay cha khẽ hỏi :
Cha ơi !
Sao xa kia chỉ thấy nước, thấy trời
Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?
Cha mỉm cười xoa đầu con nhỏ:
Theo cánh buồm đi mãi tới nơi xa
Sẽ có cây, có cửa, có nhà
Nhưng nơi đó cha chưa hề đi đến.
Điệp từ thấy, không thấy, có tạo nên sự liệt kê sự vật đầy tính thẩm mĩ,
mặc dù chỉ để nêu ra lần lượt các sự vật nhưng người đọc không hề thấy sự khiên
cưỡng, trái lại còn làm cho câu thơ như ngân vang, uyển chuyển hơn.
1.2. Cơ sở ngôn ngữ của dạy học tiếp nhận văn học ở Tiểu học
Mức độ tiếp nhận tác phẩm văn học của đối tượng học sinh Tiểu học, hoặc nói cách
khác con đường cảm thụ văn học của học sinh tiểu học có những nét rất khác biệt đối với
các cấp học cao hơn. Chính vì lí do này, ta cần phải làm rõ các cấp độ của dạy học tiếp
nhận văn học, tạo điều kiện để các em phát triển năng lực tiếp nhận và cảm thụ được tác
phẩm nghệ thuật một cách thuận lợi.
1.2.1. Cấp độ ngôn từ
Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật của ngôn từ, văn học dùng chữ viết và
ngôn ngữ. Đọc bất kể tác phẩm văn học nào thì ta cũng bắt gặp ngôn từ, đó là lớp lời văn
của tác phẩm. Lớp này bao gồm mọi thành phần của ngôn từ và lời văn như âm thanh, từ
ngữ, câu, đoạn, chương hồi, vần, nhịp Đặc điểm của lớp này là trực tiếp sự chỉ định của
quy luật ngôn ngữ như: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, phong cách học, đồng thời lại chịu sự
chi phối của quy luật thơ văn như: thể loại, chỉnh thể, phong cách ngôn ngữ và trần thuật
xuất hiện ở lớp này.
Mức độ tiếp nhận của học sinh Tiểu học mới đầu tiên là phương diện ngữ âm của tác
phẩm: vần, các loại vần điệu, cách gieo vần, có tác dụng lớn trong việc hình thành các thể
thơ, mà còn có tác dụng tạo hình biểu hiện trong các văn bản miêu tả, có thể dùng song
thanh, điệp thanh, điệp vần, có thể dùng vần trắc, vần bằng, trầm bổng để tạo nên nghệ
6
thuật.
Ngoài ra, trên phương diện từ vựng, học sinh Tiểu học đã chú ý đến nghĩa, cái hay cái
đẹp trong từ, bắt đầu biết sử dụng từ hợp lý, đúng chỗ mang biểu cảm lớn.
Cuối cùng, trên phương diện ngữ pháp, các em đã chú ý đến hiện tượng đặc biệt trong
cấu trúc câu, có trật tự C - V, chú ý đến đảo ngữ, tách câu, nhấn mạnh ý hoặc là sự đan
xen các kiểu câu, các kiểu lời nói trực tiếp, gián tiếp, các biện pháp tu từ mà tác giả dùng
trong tác phẩm, chú ý nhạc điệu ở vần, ở nhịp, ở ngữ điệu.
1.2.2. Cấp độ hình tượng
Hình tượng văn học được tạo ra bởi hệ thống ngôn từ và rẽ dần theo thời gian, nó
không hiện lên hoàn chỉnh ngay một lúc trong đầu người đọc, tuy vậy sự cảm thụ hình
tượng không hoàn toàn theo tuyến tính. Sự cảm thụ này vừa tiến về theo tương lai lại vừa
có sự hồi cố. Vì vậy muốn tiếp nhận hình tượng văn học trước hết phải bám chắc vào các
chi tiết, tình tiết, sự kiện, nhưng muốn các chi tiết, tình tiết, sự kiện trở thành hình tượng
lại phải có khả năng tưởng tượng liên tưởng để tái tạo được trong tâm trí hình tượng ấy.
Dạy học sinh vấn đề tiếp nhận hình tượng cũng phải bắt đầu tổ chức cho học sinh từng
bước cảm và hiểu được giá trị của những chi tiết tạo hình, những sự kiện quan trọng trong
tác phẩm, phải khơi gợi trí tưởng tượng liên tưởng và vốn sống của trẻ, tìm nghĩa đen rồi
liên tưởng hình tượng bằng trí tưởng tượng để tìm ra nghĩa bóng.
1.2.3. Cấp độ kết cấu
Kết cấu là phương tiện khái quát nghệ thuật, nhờ kết cấu mà các sự kiện hiện tượng
sự vật con người được liên kết trong một chỉnh thể và từ đó bộc lộ tư tưởng quan niệm
của nhà văn, kết cấu ra đời cùng một lúc với ý đồ nghệ thuật, cụ thể hóa sự phát triển của
hình tượng. Kết cấu đảm nhận các chức năng rất đa dạng: bộc lộ chủ đề và tư tưởng của
tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt văn bản, cấu trúc hợp lý văn bản, tổ chức điểm
nhìn trần thuật của tác giả.
1.2.4. Cấp độ chỉnh thể
Chỉnh thể là chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Sự thống nhất của ba cấp độ trên tạo
thành lớp ý nghĩa tồn tại trong toàn bộ chỉnh thể, nó bao gồm các thành phần như đề tài,
chủ đề, tư tưởng thẩm mỹ của tác phẩm.
Như vậy, tiếp nhận văn học ở tiểu học mang cảm xúc hơn phân tích, đó cũng là con
đường riêng trong cảm thụ văn học của học sinh Tiểu học. Giáo viên nên tổ chức cho học
sinh tự làm, đi dần từng bước: giải nghĩa tìm nghĩa đen, nghĩa bóng, chủ đề tư tưởng, kết
7
hợp hoạt động lời nói, thao tác bàn tay và khả năng tưởng tượng, liên tưởng.
1.3. Đặc điểm tâm sinh lí và tiếp nhận ngôn bản của học sinh lớp 5
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lí, nhận thức
Tư duy của học sinh ở các lớp đầu cấp bậc Tiểu học mang tính trực quan cụ thể. Càng
về cuối cấp các em càng chuyển dần sang tư duy trừu tượng, khái quát. Học sinh lớp 5
nhận thức được thuộc tính và dấu hiệu bản chất của hiện tượng. Các em biết nhìn nhận sự
vật theo nhiều hình thức, nhiều chiều, có thể lí giải một hiện tượng bằng nhiều nguyên
nhân, từ nhiều cơ sở khác nhau. Đây là cơ sở của việc bồi dưỡng năng lực giải nghĩa từ
cho học sinh theo nhiều phương pháp phù hợp.
Tri giác của học sinh lớp 5 phát triển hơn ở các lớp dưới, các em đã biết xác định mục
đích của việc tri giác, bước đầu biết phân tích, suy luận khi khám phá thế giới xung quanh
mình..
Học sinh lớp 5 đã có cơ sở khá vững chắc để hình thành và phát triển năng lực ghi
nhớ một cách khoa học khác với khuynh hướng ghi nhớ trực quan, máy móc ở đầu bậc
Tiểu học. Điều này cho chúng ta cái nhìn khả quan về việc bồi dưỡng năng lực giải nghĩa
từ cho học sinh, mức độ yêu cầu bồi dưỡng năng lực giải nghĩa từ sẽ được nâng lên so với
các lớp dưới.
Ở giai đoạn cuối của bậc Tiểu học, khối lượng chú ý tăng lên, học sinh có khả năng
phân phối chú ý giữa các hành động, biết định hướng chú ý của mình vào nội dung cơ bản
của tài liệu. Sức tập trung của học sinh vào số lượng vật thể được chú ý. Nhưng học sinh
lớp 4, 5 vẫn chưa ghi nhận được nhiều sự việc một lúc, nhiều khi những từ ngữ được cung
cấp trong các văn bản nghệ thuật khá xa lạ với cuộc sống hàng ngày của các em. Do vậy,
sử dụng các dụng cụ trực quan kết hợp lời giảng của giáo viên trong dạy học là rất cần
thiết.
Tưởng tượng của học sinh lớp 5 đã bền vững và gần với thực tế hơn so với giai đoạn
đầu của bậc Tiểu học. Thông qua liên tưởng và tưởng tượng mà ý nghĩa của từ ngữ, cách
sử dụng từ trong ngữ cảnh được tái hiện và trở thành một sự kiện trong tâm hồn bạn đọc
nhỏ tuổi.
1.3.2. Đặc điểm tiếp nhận ngôn bản
Khả năng tiếp nhận ngôn bản của học sinh lớp 5 chưa hoàn thiện so với người lớn.
Các em bị chi phối mạnh mẽ bởi các yếu tố tâm lí, tình cảm chủ quan nên dẫn đến sự thờ
ơ với những nhân vật ít hành động, bỏ qua hay chỉ đọc lướt những đoạn bình luận, suy
8
nghĩ, triết lí của nhân vật hoặc tác giả. Khả năng phân tích các chi tiết, tình tiết, tính cách
nhân vật còn ít nhiều bị hạn chế. Tuy nhiên các em đã có những cảm xúc, suy nghĩ rất
riêng của mình, giáo viên cần tôn trọng những cái riêng ấy và gợi mở trong các em những
cảm nhận mới trong tâm hồn.
Năng khiểu sáng tạo của học sinh giai đoạn này đã biểu hiện khá đầy đủ, nhất là về
văn học. Sự sáng tạo này mang đậm dấu ấn của sự hồn nhiên, ngây thơ, đáng yêu như
cách nhìn của các em về thế giới. Mặc dù kinh nghiệm sống còn hạn chế, óc khái quát
chưa cao nhưng các em đã hình dung một cách sống động những bức tranh về cuộc sống
muôn màu do các tác giả vẽ ra bằng ngôn từ.
Tư duy của học sinh phát triển chưa cao nhưng các em có hứng thú đặc biệt về nghệ
thuật, có thể nắm bắt những rung cảm mà tác phẩm văn học mang lại. Tuy nhiên, tư duy
của học sinh còn thiên về trực cảm một chiều, giáo viên cần giúp học sinh vượt qua giai
đoạn tiếp nhận cảm tính để phát triển tư duy hình tượng, đạt đến một bậc cao hơn trong
quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học.
9
CHƯƠNG 2. DẠY HỌC ĐỌC HIỂU BIỆN PHÁP ĐIỆP TRONG
CÁC BÀI THƠ CHO HỌC SINH LỚP 5
2.1. Thống kê những bài thơ có sử dụng biện pháp điệp trong chương trình lớp 5
Khảo sát nội dung chương trình lớp 5 chúng tôi thống kê được trong các bài thơ
sau có sử dụng biện pháp điệp
Chủ điểm
Việt nam Tổ quốc
em
Cánh chim hoà bình
Con người với thiên
nhiên
Giữ lấy màu xanh
Vì hạnh phúc con
người
Vì cuộc sống thanh
bình
Nhớ nguồn
Nam và nữ
Những chủ nhân
tương lai
Tuần
Tên tác phẩm
Tác giả
Thể loại
2
Sắc màu em yêu
Phạm Đình Ân
Thơ
4
5
Bài ca về trái đất
Ê-mi-li, con
Tiếng đàn ba-la-lai-
Định Hải
Tố Hữu
Thơ
Thơ
Quang Huy
Thơ
7
12
ca trên sông Đà
Hành trình của bầy
ong
14
Hạt gạo làng ta
22
Cao Bằng
25
Cửa sông
27
Đất nước
31
Bầm ơi
32
Những cánh buồm
34
Nếu trái đất thiếu
trẻ con
Nguyễn Đức
Mậu
Trần Đăng
Khoa
Trúc Thông
Quang Huy
Nguyễn Đình
Thi
Tố Hữu
Hoàng Trung
Thông
Đỗ Trung Lai
Thơ
Thơ
Thơ
Thơ
Thơ
Thơ
Thơ
Thơ
2.2. Giá trị thẩm mĩ của biện pháp điệp
2.2.1. Sự liệt kê đầy tính thẩm mĩ
Biện pháp tu từ điệp sử dụng sự lặp đi lặp lại từ, cụm từ hoặc câu văn... nhằm tạo ra
hiệu quả thẩm mĩ trong văn chương nghệ thuật. Sự liệt kê các sự vật có sử dụng lặp nếu
10
không tạo ra hiệu quả thẩm mĩ trong câu văn lại chính là hình thức sử dụng từ lặp một
cách nhàm chán. Bù lại, điều mà biện pháp điệp tạo ra lại là sự liệt kê đầy âm hưởng thẩm
mĩ, ngân vang trong từng câu thơ.
Tác giả Nguyễn Đình Thi chỉ bằng 3 câu thơ trong bài Đất nước:
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa...
Nhà thơ đã vẽ nên bức tranh lãnh thổ Việt Nam toàn vẹn với những sự vật đặc trưng
sau điệp từ những. Ông đã vẽ nên chiều cao của đất nước với những cánh đồng lúa
chín toả hương khắp không gian mùa gặt, đi hết chiều dài của đất nước qua những con
đường xa rộng, bao quát hết chiều rộng của đất nước với những dòng sông nặng phù sa
như tấm lòng người Việt. Chỉ bằng vài nét chấm phá mà bức tranh nước Việt, hồn Việt
hiện ra sống động hơn bao giờ hết.
Còn tác giả Nguyễn Đức Mậu lại vẽ ra chặng đường gian nan, xa thẳm của bầy ong
qua điệp từ tìm với sự liệt kê những nơi mà bầy ong bay đến:
Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu
Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban
Tìm nơi bờ biển sóng tràn
Hàng cây chắn bão dịu dàng mùa hoa
Tìm nơi quần đảo khơi xa
Có loài hoa nở như là không tên...
Đằng sau mỗi giọt mật ấy, mỗi từ tìm ấy là cả một khoảng cách xa rộng ta khó có
thể đo lường nổi những gian nan mà bầy ong đã phải trải qua để để làm nên những giọt
kết tinh cho đời. Quả thật đó đúng là hành trình: một giọt mật thành hình đời vạn
chuyến ong bay.
Nhà thơ Trúc Thông rất tài tình khi sử biện pháp điệp để liệt kê sự vật trong bài Cao
Bằng:
Sau khi vượt Đèo Gió
Ta lại vượt Đèo Giàng
Lại vượt đèo Cao Bằng
Thì ta tới Cao Bằng
11