So sánh cnh cnh xhcn với cnh tbcn năm 2024

Phát triển rút ngắn bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội hay phát triển rút ngắn từng giai đoạn trong bản thân một hình thái tự thân nó là một quá trình hợp lý và phù hợp với lịch sử tự nhiên

Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế còn lạc hậu so với thế giới hiện đại, nên để đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trước mắt là tránh nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình, đòi hỏi Việt Nam phải tạo ra được sự phát triển mạnh mẽ, vượt cấp của lực lượng sản xuất. Muốn vậy, điều quan trọng trước hết là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về mặt kinh tế, có thể nói cốt lõi của sự phát triển rút ngắn tại Việt Nam, chính là rút ngắn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới đã cho thấy, không ít nền kinh tế đã thực hiện thành công việc rút ngắn tiến trình công nghiệp hóa như Phần Lan, Nhật Bản và Hàn Quốc. Nếu như Tây Âu phải đi qua chặng đường gần 5 thế kỷ [vào cuối thế kỷ XIV khởi đầu chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu], thì với Nhật Bản chỉ mất 100 năm đã sánh ngang với các quốc gia tư bản Tây Âu về trình độ phát triển kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa rút ngắn. Với định hướng sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nền kinh tế chậm phát triển với mục tiêu đặt ra đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, rõ ràng cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, thực hiện phát triển rút ngắn. Và trong thời đại toàn cầu hóa, tri thức hóa nền kinh tế hiện nay, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa và dựa trên nền kinh tế tri thức.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn đối với Việt Nam hiện nay không chỉ là rút ngắn thời gian của quá trình vươn lên trình độ hiện đại của thế giới mà còn phải có phương thức phù hợp cho phép đi tắt đón đầu, thông qua các bước quá độ, hoặc vượt qua một số bước tuần tự để đi thẳng lên hiện đại. Quá trình rút ngắn này phải bảo đảm chất lượng, hiệu quả trong phát triển, tức là phải bảo đảm tính bền vững trong phát triển. Để rút ngắn thời gian, đương nhiên phải tạo được tốc độ phát triển nhanh. Phát triển nhanh trên cơ sở huy động các nguồn lực nội tại và tận dụng các cơ hội thông qua giao lưu hội nhập quốc tế. Chỉ có phát triển nhanh mới bảo đảm thu hẹp khoảng cách với các nước hiện có trình độ phát triển hơn chúng ta. Trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển cần tránh khuynh hướng “say tốc độ”, tức là tăng trưởng mà không chú ý đến hiệu quả.

Cùng với tốc độ phát triển, cần có phương thức phù hợp tìm ra con đường đi tắt mới bảo đảm nhanh chóng theo kịp các nước đi trước. Chẳng hạn về mặt công nghệ có thể thông qua hình thức du nhập công nghệ, trên cơ sở đó tiếp cận các công nghệ hiện đại, tạo ra sự phát triển nhanh và mạnh của lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó tiếp cận các hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến phù hợp với sự phát triển mới của sức sản xuất, tạo cơ sở cho việc hạ giá thành và nâng cao hơn năng xuất lao động. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường… Song cũng chính do tăng trưởng nhanh đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội như bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường… Như vậy cần có cơ chế bảo đảm cho việc đi liền với tăng trưởng phải bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện môi trường. Nói cách khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn nhưng bền vững. Bền vững về cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường và con người.

Với tinh thần đó, trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã nêu rõ, chúng ta cần “đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển… giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng” đồng thời xác định “phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển”, với các nội dung chủ yếu là “phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế”. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra nhiều vấn đề hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Vì thế mà phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”.

Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn trong thời gian qua tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam. Trong giai đoạn đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng khá cao. Chỉ tính riêng giai đoạn [1991 - 2011], tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt trung bình 7,34%/năm, thuộc loại cao ở châu Á và trên thế giới; quy mô kinh tế năm 2011 gấp 5,5 lần năm 1985, gấp trên 4,4 lần năm 1990 và gấp trên 2,1 lần năm 2000 [1]. Giai đoạn 2011 - 2013, GDP tăng trung bình 5,6%, đưa quy mô kinh tế vươn lên đạt 176 tỷ USD năm 2013 [2]. Với sự tăng trưởng về kinh tế tạo điều kiện cho Việt Nam có khả năng giải quyết những nhu cầu căn bản của cuộc sống. Với quy mô GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.061 USD tính theo tỷ giá hối đoái và 2.948 USD theo sức mua tương đương [PPP], Việt Nam đã chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm thu nhập trung bình theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới [WB].

Năm 2013 chúng ta đã nâng thu nhập bình quân đầu người lên 1.960 USD. Chúng ta cũng đã mở rộng quan hệ với nhiều nước trên thế giới. Theo số liệu năm 2013 của Tổng Cục Hải quan, Việt Nam có quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa với gần 240 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số thị trường đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD của xuất khẩu tăng từ 25 thị trường năm 2012 lên 27 thị trường năm 2013 và nhập khẩu tăng từ 13 lên 17 thị trường. Tựu chung sau gần 30 năm đổi mới, cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, Việt Nam đã bảo đảm sự ổn định trên các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn, do tính chất phức tạp của quá trình phát triển rút ngắn vốn chưa có tiền lệ, nên cũng đã và đang đặt ra không ít vấn đề

Một là, năng suất lao động thấp và nợ công gia tăng. Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian vừa qua phát triển dàn trải theo chiều rộng. Phát triển kinh tế theo chiều rộng thông thường đòi hỏi vốn đầu tư cao, trong khi đó ít quan tâm tới đổi mới công nghệ. Do vậy năng suất lao động thấp, hiệu quả vốn đầu tư không cao, biểu hiện chỉ số ICOR của Việt Nam mặc dù có được cải thiện nhưng vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực và thế giới. Hiệu quả đầu tư không cao và dàn trải được tích tụ qua các năm là nguyên nhân chủ yếu làm cho lạm phát tăng cao. Nhu cầu đầu tư lớn dẫn đến tình trạng đầu tư vượt xa khả năng tích lũy của nền kinh tế, thâm hụt ngân sách luôn ở mức cao. Để bù đắp phần thiếu hụt phải trông cậy vào vốn đầu tư và vay nợ từ nước ngoài. Điều này đã làm cho nợ công tăng nhanh trong những năm vừa qua.

Hai là, vấn đề thu nhập - tiền lương còn nhiều bất cập. Trong nhiều năm qua, Nhà nước luôn cố gắng cải cách các chính sách tiền lương - thu nhập nhằm đáp ứng được nhu cầu của xã hội và phù hợp với nền kinh tế đang phát triển nhanh. Tuy nhiên, ngoài những thành công đã đạt được vẫn còn những hạn chế và bất cập. Theo số liệu từ Bộ Nội vụ, trong năm 2003 đến 2014, mức lương tối thiểu chung cho người lao động trong khu vực hành chính - sự nghiệp đã điều chỉnh 7 lần từ 210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày 01-5-2012, mức lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000 nghìn đồng/tháng. Việc điều chỉnh này được thực hiện trên cơ sở các mức đã dự kiến trong Đề án tiền lương giai đoạn 2003 - 2007 và 2008 - 2012, có điều chỉnh theo mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng và khả năng của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, căn cứ trên thực tế mức sống hiện nay, mức lương tối thiểu này hoàn toàn là không đủ để người lao động có thể sống được trong một tháng, nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh. Khi lạm phát ngày càng đẩy giá cả tiêu dùng leo thang nhanh như những năm qua, tình hình đời sống của người lao động càng khó khăn. Hiện nay lộ trình tăng lương đang gặp khó khăn do nguồn thu quá hạn hẹp từ nền kinh tế chưa thực sự hiệu quả.

Ba là, vấn đề ô nhiễm môi trường có chiều hướng gia tăng. Công tác quy hoạch, khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản, đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên biển còn thiếu hợp lý và chưa hiệu quả; biến đổi khí hậu, các hiện tượng khí tượng thủy văn cực đoan và ô nhiễm môi trường đang có xu hướng gia tăng cả về tần suất và cường độ, gây ra những tác động xấu đến sản xuất và đời sống dân cư.

Bốn là, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội và chênh lệch phát triển các vùng, miền, giữa nông thôn và thành thị… ngày càng phức tạp và gây ra nhiều hệ lụy về kinh tế - xã hội. Thu nhập trung bình của người Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa so với nhiều quốc gia ASEAN và Trung Quốc, dù đã được cải thiện nhiều.

Những bất cập trên có nhiều lý do, mà một trong những lý do đó là việc xây dựng và triển khai chính sách còn nhiều hạn chế. Quá trình lập quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quá trình xây dựng các chính sách phát triển còn chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý với nhau. Cơ chế quản lý và giám sát sự phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và có hiệu lực. Nói cách khác, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta chưa có được sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách nhằm bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững. Quy trình xây dựng chính sách còn bị khép kín, hiện chưa có quy định cụ thể để huy động hiệu quả trí tuệ của nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách; chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp từ những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách.

Cần hệ giải pháp đồng bộ, phát huy các nguồn lực bên trong và bên ngoài, để có thể thực hiện quá trình phát triển rút ngắn

Điều này chỉ có thể thực hiện khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở, điều kiện về kinh tế, chính trị cũng như về văn hóa - xã hội và an ninh - quốc phòng. Xét riêng trên khía cạnh kinh tế, cốt lõi vấn đề là bảo đảm các điều kiện cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn. Có thể nói, công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn vừa là điều kiện, vừa là nội dung cơ bản của quá trình phát triển rút ngắn đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn đòi hỏi hàng loạt điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, nguồn lực con người và cơ chế, chính sách.

Thứ nhất, điều kiện về vốn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày một hiện đại, đòi hỏi phải có nhiều vốn trong nước và ngoài nước, trong đó nguồn vốn bên ngoài là quan trọng. Nguồn vốn bên trong được hình thành bởi: vốn tích lũy từ ngân sách, vốn tích lũy từ các doanh nghiệp và vốn nhàn rỗi trong dân cư. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, thực hiện tiết kiệm. Nguồn vốn bên ngoài được huy động từ các nước trên thế giới dưới nhiều hình thức khác nhau: vốn viện trợ của các nước, các tổ chức kinh tế - xã hội; vốn vay ngắn hạn, dài hạn với các mức lãi suất khác nhau của các nước và các tổ chức kinh tế; vốn đầu tư của nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh, liên doanh liên kết... Biện pháp cơ bản để tận dụng, thu hút vốn bên ngoài là đẩy mạnh, mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài, tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, vay vốn ở các nước. Ở nước ta hiện nay, nguồn vốn trong nước còn hạn chế nên phải tận dụng khai thác nguồn vốn từ bên ngoài. Tuy nhiên, việc tạo nguồn vốn phải gắn chặt với quản lý sử dụng tốt, có hiệu quả, khai thác tối đa khả năng vốn đã có.

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi huy động ngồn vốn lớn và trên thực tế, kể từ khi thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong khai thác các nguồn vốn. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, quy mô vốn đầu tư những năm qua luôn tăng trưởng theo các năm. Cụ thể năm 1996, tổng vốn đầu tư cả nước [theo giá so sánh năm 1994] là: 74.315 tỷ đồng, năm 2000: 115.109 tỷ đồng, năm 2005: 213.931 tỷ đồng, năm 2010: 400.183 tỷ đồng. Tỷ trọng vốn đầu tư so với GDP luôn duy trì ở mức cao, tính trung bình giai đoạn 1996-2012 là 48,8% GDP/năm. Đây là mức cao so với nhiều quốc gia trong khu vực và chỉ đứng sau Trung Quốc. Tổng vốn đầu tư hằng năm cũng thường cao hơn so với tổng lượng tích lũy tài sản trong nước, trong đó 4 năm liên tục [2007 - 2010] tỷ lệ đầu tư cao gấp 1,5-1,6 lần tỷ lệ tích lũy so với GDP. Trong tổng nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển thì nguồn vốn của dân chiếm khoảng 1/3, nguồn vốn nước ngoài, khoảng 1/5, vốn nhà nước chiếm gần 1/2.

Với việc huy động nguồn lực lớn cho đầu tư, trong những năm qua chúng ta đã tạo ra sự phát triển kinh tế với tốc độ khá cao, tạo cơ sở cho việc cải thiện điều kiện sống và giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc sử dụng nguồn vốn của Việt Nam hiệu quả chưa cao. Nghiên cứu thực tiễn phát triển của các quốc gia khu vực cho thấy, trong vòng 20 năm từ năm 1961 đến năm 1980 để đạt được tốc độ tăng trưởng như Hàn Quốc: 7,9%/năm và Đài Loan tới 9,7%/năm, hai nước này chỉ cần lượng vốn đầu tư 23-26% GDP, chỉ số ICOR dưới 3,0. Trong khi đó Việt Nam hiện nay phải cần lượng vốn đầu tư tới hơn 40% GDP, ICOR hơn 6,0, chỉ để đạt tốc độ tăng trưởng 5-7% [3]. Mặc dù những năm qua chúng ta đã cố gắng cải thiện chất lượng tăng trưởng nhưng hệ số ICOR vẫn còn cao, ở mức 6,7 trong giai đoạn 2008 - 2010 và 5,53 trong giai đoạn 2011 - 2013. Điều đó có nghĩa chúng ta phải bỏ ra 5,53 đồng để tạo ra 01 đồng tăng thêm GDP.

Trong tình hình như vậy, đứng trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững cần có giải pháp chính sách quyết liệt nhằm chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên gia tăng năng suất chứ không phải theo xu hướng gia tăng tỷ lệ vốn đầu tư/GDP vốn đã rất cao so với các quốc gia khu vực. Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế thiếu hiệu quả thì việc gia tăng vốn từ tích lũy nội bộ cũng rất khó khăn. Bên cạnh đó, mặc dù những năm qua chúng ta đã có cố gắng trong việc huy động nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng thực tế cho thấy hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng chưa cao. Muốn có sự phát triển rút ngắn, bền vững thì cùng với thỏa mãn nhu cầu vốn, đòi hỏi tỷ lệ vốn trong nước ngày càng tăng lên. Muốn vậy tỷ lệ tích lũy phải tăng nhanh hơn tỷ lệ tiêu dùng, tỷ lệ tiết kiệm phải tăng nhanh hơn tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ đầu tư không được phép tăng quá nhanh so với tỷ lệ tích lũy. Đó là những mối quan hệ ràng buộc cần có để bảo đảm tăng lên nguồn vốn trong nước, trở thành nguồn vốn giữ vai trò quyết định của tăng trưởng.

Thứ hai, điều kiện về công nghệ. Công nghệ giữ vai trò quan trọng trong phát triển rút ngắn. Kinh nghiệm của một số quốc gia thực hiện phát triển rút ngắn cho thấy, việc xác định một chiến lược phát triển công nghệ hợp lý sẽ cho phép tận dụng được hình thức công nghệ tiên tiến của thế giới kết hợp với công nghệ truyền thống sẵn có để khai thác phát huy các nguồn lực phát triển. Trong thời đại công nghệ tin học, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta không chỉ đơn giản là biến Việt Nam từ nước nông nghiệp thành nước công nghiệp, mà quá trình đó phải bao hàm cả bước chuyển nhảy tắt lên xã hội thông tin. Vì vậy, trong chiến lược phát triển công nghệ phải chú ý tới cả việc phát triển công nghệ cao lẫn công nghệ truyền thống, trong đó xu hướng tăng lên của loại hình công nghệ cao cần được ưu tiên. Làm sao để có được công nghệ cao hiện đại trong khi nguồn vốn có hạn là một thách thức lớn đối với chúng ta hiện nay. Nếu không tiếp cận được công nghệ cao hiện đại thì khó có thể nói đến sự phát triển rút ngắn.

Tuy nhiên, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển nên tiềm lực về khoa học và công nghệ còn yếu, trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu. Điều này thể hiện ở mức độ tự động hóa thấp, tốc độ đổi mới công nghệ chậm, tỷ trọng công nghiệp dựa trên công nghệ cao cũng như số phát minh sáng chế còn ít. Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Theo báo cáo điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương [CIEM], Tổng Cục Thống kê và trường Đại học Cô-pen-ha-gen [Đan Mạch] về “Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam: Kết quả điều tra năm 2012”, những doanh nghiệp có hoạt động chuyển giao công nghệ đều đạt năng suất cao hơn, nhưng chỉ có số ít doanh nghiệp đang đầu tư vào phát triển các sản phẩm hoàn toàn mới và đang tham gia vào việc cải tiến công nghệ và đổi mới. Các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam hầu hết đều có trình độ bằng hoặc cao hơn công nghệ sẵn có ở Việt Nam nhưng mới chỉ đạt mức trung bình so với các nước trong khu vực. Trên 80% doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 5-6% sử dụng công nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

Như vậy, rõ ràng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam cần chú trọng hơn nữa đến việc nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Thực tiễn phát triển của thế giới cho thấy, cần nhanh chóng chuyển từ giai đoạn nhập khẩu - cải tiến công nghệ, sang giai đoạn nghiên cứu sáng chế công nghệ. Có như vậy mới góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo cơ sở cho phát triển bền vững. Đó là những vấn đề chính sách rất cần có sự quan tâm đầu tư thích đáng để giải quyết. Điều này xuất phát từ vai trò của công nghệ đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ ba, điều kiện về nguồn lực con người. Trong mọi thời đại con người luôn là nhân tố cơ bản của sự tăng trưởng. Con người có sức khỏe, có trình độ sẽ đưa lại năng suất lao động cao. Năng suất chính là cái quyết định sự thắng lợi của loại hình tổ chức kinh tế - xã hội mới. Trong nền kinh tế thị trường cùng với đội ngũ lao động có sức khỏe nhiệt tình, cần có đội ngũ những chuyên gia kinh doanh giỏi. Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc đã cho thấy vai trò cực kỳ quan trọng của đội ngũ doanh nhân trong tiến trình phát triển rút ngắn. Cùng với đó, xét trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật, yếu tố kỹ thuật công nghệ đóng vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất. Để có nền kỹ thuật công nghệ tiên tiến cần có đầu tư nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật giỏi. Chính họ là người tiếp thu, ứng dụng thành tựu của thế giới vào quốc gia mình, và cũng chính họ sẽ đề xuất, xây dựng những quy trình công nghệ mới cho phép tăng nhanh năng suất, rút ngắn các bước đi trong tiến trình phát triển.

Hiện nay, nguồn nhân lực của Việt Nam phản ánh rất rõ đặc trưng cơ cấu nhân lực của nền kinh tế với lĩnh vực nông nghiệp là chính đang phát triển chuyển sang nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở đó lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có trình độ kỹ năng chuyên môn còn thấp, đại đa phần là lao động giản đơn. Cơ cấu nguồn nhân lực này đang có xu hướng dịch chuyển tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp, dịch vụ, phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông - công nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, hiện đại hóa. Về cơ cấu lãnh thổ và ngành kinh tế, nguồn nhân lực chủ yếu tập trung vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Về cơ cấu trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật, nguồn lực lao động nước ta ở mặt bằng còn thấp so với các quốc gia khu vực. Bà Ni-cô-la Cô-nô-li [Nicola Connolly], Tổng Giám đốc Adeco Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban nguồn nhân lực của Hiệp Hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam cho rằng: Trong khối ASEAN, Việt Nam xếp ở nửa dưới về phát triển nguồn nhân lực. Hiện có trên 65% lao động không có kỹ năng, tỷ lệ này còn cao hơn trong giới trẻ từ 20-24 tuổi là 75%.

Có thể tóm lược thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng đông, chất lượng không cao, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp, chưa có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa học thật sự giỏi; chưa có những chuyên gia giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình giỏi; chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước ngoài bình luận người Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng và đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung. Rõ ràng là cần có giải pháp chính sách nhằm giải quyết hàng loạt vấn đề đang đặt ra như nêu trên nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ tư, về thị trường. Chúng ta biết rằng, không thể phát triển nền kinh tế hàng hóa khi thiếu thị trường bởi thị trường là một yếu tố quan trọng quyết định đến sự sống còn của quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa. Đối với các nước đang phát triển, thị trường không chỉ là nơi tiêu thụ hàng hóa mà còn là nơi tiếp cận nguồn vốn, lao động và công nghệ… Vì vậy muốn phát triển nhanh không thể không mở rộng thị trường, tham gia hội nhập quốc tế. Ngày nay xu thế toàn cầu hóa đã và đang lôi cuốn các nước vào thị trường chung toàn cầu. Nói cách khác việc hội nhập quốc tế là đòi hỏi khách quan, song hội nhập ra sao để tận dụng được các điều kiện do thị trường mang lại là tùy thuộc nội lực và chiến lược hội nhập của mỗi quốc gia.

Trong gần 3 thập kỷ thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã tích cực và chủ động mở cửa hội nhập, chính vì vậy quy mô và không gian thị trường đều có sự gia tăng. Năm 2013 Việt Nam có buôn bán, trao đổi hàng hóa với gần 240 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên điều cũng cần thấy là, dù quan hệ quốc tế được mở rộng nhưng việc thâm nhập thị trường và mở rộng thị trường của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam vẫn đang gặp không ít khó khăn. Đó là chất lượng hàng hóa, dịch vụ còn hạn chế, công tác xúc tiến thương mại cũng chưa thực sự bài bản và nguồn lực hạn chế, công tác đăng ký bản quyền hàng hóa đôi khi chưa kịp thời làm giảm năng lực cạnh tranh, mất thị phần… Đó cũng là những vấn đề cần có hướng chính sách thúc đẩy giải quyết nhằm mở rộng thị trường đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ năm, về cơ chế, chính sách. Đây cũng là vấn đề cần được quan tâm và ưu tiên trong quá trình tiếp tục đổi mới hiện nay. Thực ra nếu có được cơ chế, chính sách phù hợp là “nguồn lực” quan trọng thúc đẩy phát triển, hay nói chính xác là cơ sở để nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng các nguồn lực. Trong quá trình gần 30 năm đổi mới vừa qua, những kết quả đạt được đều gắn liền với đổi mới về cơ chế, chính sách và những hạn chế yếu kém cũng phần lớn là do những hạn chế trong cơ chế, chính sách cản trở sự phát triển.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất tuân theo những quy luật của nó, cho nên để thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất, Việt Nam cần vận dụng kinh nghiệm của những nước đi trước, nhất là những nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po… trong việc xây dựng và soạn thảo các cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho phát triển lực lượng sản xuất. Về vấn đề này cũng đã có ý kiến của nhiều chuyên gia, cụ thể nên tập trung vào những định hướng chính sau:

- Một là, cần chú ý đầu tư nghiên cứu kỹ các vấn đề chính sách đặt ra, kể cả đánh giá các điều kiện để triển khai chính sách nhằm bảo đảm cho chính sách có tính khả thi cao. Muốn vậy phải có sự quan tâm đầu tư thích đáng của các cấp, các ngành cả trên phương diện lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư nguồn lực, đồng thời mở rộng các đơn vị tham gia nghiên cứu chính sách phục vụ cho việc xây dựng luật.

- Hai là, nội dung chính sách dự kiến đưa vào luật để thể chế hóa phải được xác định rõ ràng. Trong thực tế hoạch định chính sách, nhất là khi nước ta đang trong thời kỳ phát triển và hội nhập, chúng ta phải nghiên cứu chính sách trên cả lĩnh vực lý thuyết và thực tế, dự báo, đánh giá tác động kinh tế, xã hội của chính sách, so sách các chính sách, lựa chọn chính sách nào tối ưu và phù hợp với thực tiễn và nhu cầu phát triển của Việt Nam.

- Ba là, cần xây dựng chính sách phù hợp với chiến lược và định hướng chiến lược phát triển các ngành kinh tế - xã hội trong tổng thể phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước qua đó bảo đảm tính ổn định của chính sách. Tất nhiên, ổn định ở đây không có nghĩa là không thay đổi mà chính sách có thể thay đổi để đáp ứng với tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, chính sách cần phải ổn định và nhất quán thì luật mới ổn định và tạo môi trường đầu tư - kinh doanh thuận lợi.

- Bốn là, cần đổi mới cách thức xây dựng và phê duyệt chính sách, bảo đảm tính công khai, tham vấn, trưng cầu ý kiến của những đối tượng được điều chỉnh. Cụ thể cần áp dụng các phương pháp khoa học kiểm nghiệm chính sách dự kiến áp dụng và phương pháp soạn thảo luật mà các nước đã và đang áp dụng như: Phương pháp đánh giá tác động chính sách [RIA], phương pháp phân tích các yếu tố tác động vào quy trình xây dựng pháp luật.

Có thể thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đứng trước những cơ hội lớn, có điều kiện cho phép phát triển rút ngắn. Trong bối cảnh hiện nay, việc tạo lập cơ chế chính sách phù hợp có vai trò cực kỳ quan trọng để phát huy các nguồn lực, hiện thực hóa các mục tiêu đặt ra, để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại./.

-------

[1]. Xem thêm: Dương Ngọc, Kinh tế Việt Nam: 67 năm qua các con số, VnEconomy.vn/thời sự/kinh tế…ngày 31-8-2012

[2]. Phát biểu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Diễn đàn Đối tác phát triển Việt Nam, ngày 05-12-2013

[3]. PGS,TS. Bùi Tất Thắng: Phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam [thời kỳ 2011 - 2020], Nxb Khoa học - xã hội, Hà Nội, 2010, tr.204

Chủ Đề