So sánh cpi và dgdp

Tỷ lệ lạm phát [% năm]NămSo sánh giữa CPI và chỉ số điều chỉnh GDPNguồn: Bài giảng Kinh tế học của Michael Parkin Mục tiêu của chươngXây dựng khái niệm lạm phátTrình bày cách thức đo lường Chỉ số giá tiêu dùng [CPI] vàcách tính lạm phátSo sánh sự giống nhau và khác nhau giữa CPI và chỉ số điềuchỉnh GDPGiải thích một số hạn chế của CPI trong vai trò đo lường lạmphát.64 Hạn chế của chỉ số giá tiêu dùng1.Không phản ánh được sự thay đổi chấtlượng hàng hóaGiá tăng có thể do chất lượng tăngCPI không tính tới sự thay đổi chất lượng →phóng đại tỷ lệ lạm phát cao hơn thực tế65 Hạn chế của chỉ số giá tiêu dùng2.Không phản ánh được sự xuất hiện củahàng hóa mớiHàng hóa mới thường xuyên xuất hiện thay thếhàng hóa cũ: DVD thay VCD; …Chỉ số giá tiêu dùng có thể phóng đại tỷ lệ lạmphát so với thực tế do không tính tới hàng hóamới thay thế hàng hóa cũ.66

1 CPI khơng tính đến sự gia tăng sức mua của đồng tiền do sự xuất hiện của hàng hoá mới đem lại.2 Nó khơng đo lường được những thay đổi về chất lượng của hàng hoá và dịch vụ trong giỏ hàng hóa tiêu dùng.3 Nó khơng tính đến trường hợp người tiêu dùng sử dụng hàng hố thay thế có giá rẻ hơn tương đối theo thời gian.Trong thực tế ở Việt Nam, chúng ta thường hay sử dụng chỉ số giá tiêu dùng hơn là chỉ số điều chỉnh DGDP hơn. Chỉ số giá tiêu dùng thường được sử dụng nhằmđiều chỉnh các biến số kinh tế để loại trừ ảnh hưởng của lạm phát.1.2.3 Cách tính CPI ở Việt Nam 1.2.3.1 Cách tính CPI ở Việt NamỞ Việt Nam, chỉ số giá tiêu dùng CPI nằm trong “Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia” ban hành kèm quyết định số 3052005QĐ-TTG ngày 24 tháng 11 năm 2005của Thủ tướng chính phủ. Trong văn bản “Giải thích hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia”ban hành kèmtheoThông tư của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 022011TT-BKHĐT ngày 10 tháng 1 năm 2011, có chỉ rõ cách tính CPI của Việt Nam: Về định nghĩa và mục đích:Chỉsố giá tiêu dùng CPI là chỉtiêu tương đối phản ánh xu hướng và mức độ biến động giá cả chung qua thời gian của một số lượng các loại hàng hoá và dịch vụ đạidiện cho tiêu dùng cuối cùng của người dân.Chỉsố giá tiêu dùng CPI là một trong những chỉtiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. CPI được sử dụng cho những mục đích chủ yếu sau đây:- Đánh giá cơng tác kiểm sốt lạm phát - Sử dụng trong cơng tác điều hành, quản lý, nghiên cứu các chính sách tiền lương,lãi suất ngân hàng, quản lýtài chính, tiền tệ, tính toán sức mua và xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh.- Chỉ số giá tiêu dùng được dùng để loại trừ yếu tố biến động tănggiảm giá tiêu dùng trong việc tính tốn một số chỉtiêu thống kê tổng hợp theo giá so sánh. Ngoài rachỉsố giá tiêu dùng còn đáp ứng nhu cầu nghiên cứu phân tích kinh tế của các doanh nghiệp, của người dân và các đối tượng dùng tin khác. Về nội dung và phương pháp tính .Nội dung Danh mục mặt hàng, dịch vụ đại diệnDanh mục hàng hoá và dịch vụ đại diện gồm các mặt hàng và dịch vụ chủ yếu, đại diện cho tiêu dùng của dân cư trong một giai đoạn nhất định, được sử dụng để điềutra thu thập giá định kỳ, phục vụ tính chỉsố giá tiêu dùng.Quyền sốQuyền số tính chỉ số giá tiêu dùng là tỷ trọng chi tiêu cho các nhóm hàng hố và dịch vụ trong tổng chi tiêu của dân cư. Quyền số tính chỉsố giá tiêu dùng là tỷ trọng chitiêu của năm gốc so sánh được sử dụng cố định trong 5 năm đồng nhất với năm cập nhật danh mục hàng hoá và dịch vụ đại diện.Sau mỗi chu kỳ 5 năm, danh mục mặt hàng đại diện, quyền số lại được cập nhật cho phù hợp với thị trường tiêu dùng và cơ cấu chi tiêu cho đời sống hàng ngày của ngườidân trong giai đoạn hiện tại.Cơng thức tính.Áp dụng cơng thức Laspeyres tổng qt:100 ×  × =∑ ∑→W PP WIt tTrong đó:→ tI: Chỉ số giá tiêu dùng kỳ báo cáo t so với kỳ gốc cố định 0.tP: Giá tiêu dùng kỳ báo cáo t.P: Giá tiêu dùng kỳ gốc cố định 0.W: Quyền số kỳ gốc cố định 0.

CPI so với GDP Deflator

Chỉ số CPI và GDP có khuynh hướng tương tự nhưng họ có vài điểm khác biệt chính. Cả hai đều được sử dụng để xác định lạm phát giá cả và phản ánh tình trạng kinh tế hiện tại của một quốc gia cụ thể.

GDP Deflator tính đến hàng hoá được sản xuất trong nước. Nó không quan tâm đến hàng nhập khẩu và nó phản ánh giá của tất cả các mặt hàng, dịch vụ bao gồm. Chỉ số GDP giảm được tính theo quý và trọng số có thể thay đổi theo tính toán.

GDP là chữ viết tắt của Tổng Sản phẩm trong nước, đó là giá trị tổng thể của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được thực hiện trong biên giới của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. GDP có hai loại: GDP danh nghĩa và GDP thực. Tỷ lệ của hai giá trị này là tỷ số deflator GDP.

Nếu được thể hiện bằng toán học,

GDP Deflator = [GDP danh nghĩa / GDP thực] x 100

Về cơ bản, deflator GDP so sánh mức giá trong năm hiện tại với mức trong năm cơ sở.

Có rất nhiều chỉ số giá cả trên thị trường và GDP không giống với một số trong số đó dựa trên một giỏ hàng hoá và dịch vụ được xác định trước. Trong hệ số giảm phát GDP, cái giỏ được gọi là giỏ hàng trong một năm được đánh giá bởi giá trị thị trường của tất cả lượng tiêu thụ của mỗi loại vì vậy nó có thể thay đổi với mô hình đầu tư và chi tiêu của người dân vì người ta phản ứng với giá cả khác nhau.

CPI, viết tắt của Chỉ số giá tiêu dùng, cho biết giá của một giỏ hàng tiêu biểu của hàng hóa mua sắm của người tiêu dùng. Nó sử dụng một giỏ hàng cố định và các dịch vụ và là một thước đo được sử dụng rộng rãi của chi phí sinh hoạt phải đối mặt bởi người tiêu dùng của một quốc gia. Giống như GDP giảm phát, nó cũng so sánh giá của giai đoạn hiện tại với thời kỳ cơ sở.

CPI có xu hướng xem xét hàng hóa không đáng kể, ngay cả những mặt hàng đã lỗi thời mà người tiêu dùng thực sự không mua nữa. Tuy nhiên, họ vẫn được xem xét định giá trong giỏ cố định. Hàng tiêu dùng là ưu tiên hàng đầu của biện pháp CPI. Giá các mặt hàng khác được sử dụng trong sản xuất không được coi là cũng như giá của hàng hoá đầu tư. Chỉ tính các mặt hàng tiêu dùng, máy móc và thiết bị công nghiệp sử dụng để chế tạo chúng không được xem xét.

Như bạn thấy, GDP giảm phát không đồng nhất với CPI nhưng cung cấp một sự thay thế cho nhau như là một biện pháp lạm phát. Trong một khoảng thời gian dài, cả hai đều cung cấp số lượng tương tự, nhưng chúng có thể phân kỳ trong khoảng thời gian ngắn hơn.

Tóm tắt:

1. Bộ phận giảm nghèo của GDP đo lường một giỏ hàng thay đổi, trong khi CPI luôn cho biết giá của một giỏ đại diện cố định. 2. GDP deflator thường xuyên thay đổi trọng số trong khi CPI được sửa đổi rất thường xuyên.

3. CPI sẽ xem xét hàng nhập khẩu vì họ vẫn được coi là hàng tiêu dùng trong khi chỉ số GDP sẽ chỉ chứa giá các mặt hàng trong nước.

Sự khác biệt giữa Chỉ số giá tiêu dùng [CPI] và Tổng sản phẩm quốc nội [GDP] - ĐờI SốNg

Chỉ số giá tiêu dùng [CPI] so với Tổng sản phẩm quốc nội [GDP]

Chỉ số giá tiêu dùng [CPI] và tổng sản phẩm quốc nội [GDP] là hai thước đo lạm phát. Mặc dù mọi người có thể bối rối về cách phân biệt cái này với cái kia, nhưng chỉ số giảm phát CPI và GDP có mục đích riêng là tại sao chúng tồn tại và được sử dụng để xác định tỷ lệ lạm phát của một quốc gia.

CPI giảm phát

CPI hay chỉ số giá tiêu dùng là một trong những số liệu thống kê kinh tế được theo dõi chặt chẽ nhất do nó phản ánh những thay đổi trong giá trị thực. CPI là thước đo sự thay đổi mức giá của hàng hóa tiêu dùng mà các hộ gia đình mua theo thời gian. Nó tập trung hơn vào một rổ thị trường bao gồm một danh sách các mặt hàng cố định được sử dụng để theo dõi sự tiến triển của lạm phát trong nền kinh tế. CPI được sử dụng để chỉ số giá trị thực của tiền lương, lương hưu nhằm điều tiết giá cả. Bằng cách làm giảm mức độ tiền tệ, CPI sẽ cho thấy những thay đổi về giá trị thực.

Giảm phát GDP


GDP [tổng sản phẩm quốc nội] là tổng giá trị của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một nền kinh tế trong một khoảng thời gian xác định. Giảm phát GDP đo lường mức giá nhưng sẽ tập trung nhiều hơn vào tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mới, được sản xuất trong nước, trong nền kinh tế. Thay vì xem xét sự thay đổi trong tiêu dùng của người tiêu dùng và ảnh hưởng của nó đến giá cả, công cụ giảm phát GDP có phạm vi rộng hơn. Nó xem xét tất cả các hàng hóa được sản xuất trong nước trong một năm được tính theo giá trị thị trường của tổng mức tiêu thụ của mỗi hàng hóa. Kết quả là, mô hình chi tiêu của một nền kinh tế được cập nhật.

Sự khác biệt giữa CPI và chỉ số giảm phát GDP

Chênh lệch giữa CPI và GDP giảm phát thường rất nhỏ. Tuy nhiên, sẽ không có vấn đề gì nếu về cơ bản mỗi cái cũng tách biệt với nhau. Đối với một điều và như đã nêu ở trên, chỉ số giảm phát GDP phản ánh giá của tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong một nền kinh tế trong khi CPI cho thấy giá đến từ một rổ hàng hóa và dịch vụ đại diện được người tiêu dùng mua. Một điểm khác biệt đáng kể khác giữa chúng là CPI sử dụng một rổ cố định bao gồm các mặt hàng cố định được sử dụng để theo dõi diễn tiến lạm phát của nền kinh tế; Giảm phát GDP sử dụng so sánh giá cả các sản phẩm hiện đang được sản xuất so với giá hàng hóa và dịch vụ ở cơ sở.


Đối với hầu hết các nước phát triển, nơi họ liên tục sử dụng chỉ số giá cho hầu hết mọi thứ, những khác biệt nhỏ này giữa CPI và GDP giảm phát có thể mang lại những thay đổi đáng kể, có thể làm thay đổi doanh thu và chi phí hàng tỷ đồng. Vì vậy, tốt nhất là đừng đánh giá thấp sự khác biệt.

Tóm lại:

• Cả chỉ số giảm phát GDP và CPI đều là thước đo lạm phát.

• Giảm phát GDP đo lường mức giá nhưng sẽ tập trung nhiều hơn vào tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mới, được sản xuất trong nước, trong nền kinh tế

• CPI là thước đo sự thay đổi mức giá của hàng hóa tiêu dùng mà các hộ gia đình mua theo thời gian.

• CPI sử dụng một rổ cố định để so sánh giá trong việc xác định diễn biến lạm phát. Giảm phát GDP sử dụng giá của sản phẩm được sản xuất hiện tại so với giá của năm gốc.

Video liên quan

Chủ Đề