Tâm lý học nhân cách giáo viên

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Năng lực sư phạm của người thầy giáo gồm những năng lực nào? Nhóm Nhóm Nhóm năng năng năng lực lực lực tổ dạy giáo chức học dục hoạt động sư phạm
  2. “Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào nhân cách người giáo dục” K.D. Wsinxki
  3. BÀI: SỰ HÌNH THÀNH UY TÍN CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO
  4. Tài liệu tham khảo: • Tâm lý học đại cương- Nguyễn Quang Uẩn [chủ biên]-NXBĐHQG Hà Nội, tái bản lần X, năm 2003. • Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm[Dành cho các trường sư phạm đào tạo giáo viên trung học cơ sở]- PGS.TSKH Nguyễn Kế Hào[chủ biên]- NXBĐHSP • Bài tập tâm lý học-Trần Trọng Thủy- NXBGD 1990. • Sự giao tiếp sư phạm-Nguyễn Văn Lê [tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên].
  5. 1.Uy tín của người thầy giáo:
  6. a.UY a.UY TÍN TÍN Sự Làm cho Khả năng ảnh hưởng người khá tác động đến tin tưởng của người và tuân the người đó khác, một đến cảm hóa cách những người tự người khác khác. giác.
  7. b.UY TÍN THẦY GIÁO Khả năng tác động của người thầy giáo đến học sinh Sự ảnh hưởng đến học sinh, cảm hóa học sinh. Làm cho học sinh tin tưởng và tuân theo một cách tự giác.
  8. UY TÍNTHẦY GIÁO Tấm lòng Tài năng
  9. Thầy giáo Võ Văn Tình tốt nghiệp Trường CĐSP Đăklăk năm 1983 và lập nghiệp tại mảnh đất Cư Pơng anh hùng. Hiệu Trưởng trường Tiểu học La Văn Cầu. Thầy Võ Văn Tình tâm sự: “Ban đầu khi mới vào Cư Pơng nhận công tác thì nơi đây còn rất hoang sơ, rừng rậm và muỗi rất nhiều, ai ở đây cũng đều trải qua những cơn sốt rét đến ghê người, mỗi tháng thầy lại bị sốt rét một lần”.
  10. Trong họat động giảng dạy, uy tín của người thầy có vai trò như thế nào? Uy tín có vai trò rất quan trọng trong công tác sư phạm của người thầy giáo.
  11. Hiệu quả Uy tín công tác sư phạm Có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh. Được các em thừa nhận về phẩm chất và năng lực tốt đẹp. Được các em kính trọng và yêu mến.
  12. Thầy Thầy có không có uy tín uy tín giải bài tập giải bài tập sai sai HS cho rằng HS cho rằng thầy nhầm thầy kém
  13. 2. Uy tín thực và uy tín giả: Theo các bạn uy tín giả là gì?
  14. a>Uy tín giả: -Đe nẹt, dọa nạt, dọa dẫm HS. Vì thế, khi thầy nói sẽ có sức ảnh hưởng đến HS. -Xa lánh, tạo ra khoảng cách.Vì nếu gần gũi khiến cho HS dễ “cá mè một lứa” nên thầy đóng “khuôn mặt lạnh”, nghiêm khắc, không bao giờ cười.
  15. -Tỏ ra là người thông thái, hiểu biết, giải thích những thuật ngữ bằng những từ “đao to búa lớn”→HS thấy kiến thức mình nhỏ bé. -Dễ dãi, thỏa hiệp để lấy lòng HS, HS đòi cái gì thầy cũng chiều→HS thích, thương thầy.
  16. Em muốn thầy cô gần gũi với HS hơn để chúng em đỡ sợ có thể giãi bày tâm sự về những khó khăn của mình. Ở trường chỉ có 3 GV trong số 8 GV là thực sự quan tâm đến chúng em thôi Khi ra khỏi trường hoặc là qua 3 tháng nghỉ hè em cảm thấy không muốn lên trường nữa. m mong muốn các thầy cô giáo quan tâm hơn đến học sinh để th cô và học sinh sẽ trở nên gần gũi hơn như trong một gia đình. NC được triển khai vào năm 2006 trong khuôn khổ của Dự án "Cộng đồng thân thiện vì trẻ em dân tộc, Việt Nam” tại 2 Huyện Bắc Hà và Si Ma Cai thuộc vùng sâu vùng xa và khó khăn của tỉnh Lào Cai.
  17. b>Uy tín thực: Uy tín thực là gì? Cho VD?
  18. b.Uy tín thực: Tài năng Được Tận tụy đạt được tạo nên với hiệu bắng công việc quả cao tấm lòng và trong yêu đạo đức công tác thương trong dạy học học sinh. Sáng. và giáo dục.
  19. Uy tín được toát lên từ toàn bộ cuộc sống của người thầy giáo -Là kết quả của sự hoàn thiện nhân cách. - Là hiệu quả lao động đầy kiên trì và giầu sáng tạo. - Là do sự kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa thầy giáo và học sinh.

Page 2

YOMEDIA

Uy tín của người thầy giáo là khả năng tác động của người thầy giáo đến học sinh; sự ảnh hưởng đến học sinh, cảm hóa học sinh; làm cho học sinh tin tưởng và tuân theo một cách tự giác. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này mời các bạn tham khảo "Bài giảng Chương VI: Tâm lý học nhân cách người thầy giáo - Sự hình thành uy tín của người thầy giáo".

25-03-2016 349 41

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

I – SỰ CẦN THIẾT TRAU DỒI NHÂN CÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI THẦY GIÁO

1. Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách học sinh do những yêu cầu khách quan của xã hội quy định

Sản phẩm này là kết quả tổng hợp của cả thầy lân trò nhằm biến những tinh hoa của nền văn minh xã hội thành tài sản riêng [sự phát triển tâm lý] của trò. Đặc điểm đó của nghề dạy học quy định một cách khách quan những phẩm chất tâm lý cần phải có trong toàn bộ nhân cách của người thầy giáo. Sự phù hợp giữa yêu cầu khách quan của nghề dạy học với những phẩm chất tương ứng trong nhân cách của người thầy giáo sẽ tạo nên chất lượng cao của sản phẩm giáo dục. Rõ ràng sự trau dồi nhân cách đối với người thầy giáo là một yêu cầu cấp thiết trong sự nghiệp đào tạo

2. Thầy giáo, người quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo

Trong trường học, người trực tiếp thực hiện quan điểm giáo dục của Đảng, người quyết định “phương hướng của việc giảng dạy”, “lực lượng cốt cán trong sự nghiệp giáo dục, văn hóa” là người thầy giáo, trình độ tư tưởng, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn và sự phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh không chỉ phụ thuộc vào chương trình và sách giáo khoa, cũng không chỉ phụ thuộc vào nhân cách học sinh, mà còn phụ thuộc vào người thầy giáo, vào phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn và khả năng tay nghề của “nhân vật chủ đạo” trong nhà trường. Vì vậy chất lượng giáo dục phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ người thầy giáo và nhân cách của ông ta. Trên đà phát triển của giáo dục dù có sự xuất hiện của các phương tiện kỹ thuật dạy học tinh xảo, hiện đại đến đâu chăng nữa [như máy dạy học], cũng hoàn toàn không thể thay thế được hai trò người thầy giáo. Nhấn mạnh về ý nghĩa này, K.D.Usinxki đã vạch ra rằng: “Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào nhân cách của người giáo dục, bởi vì sức mạnh của giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách của con người mà có. Không một điều lệ, chương trình, không một cơ quan giáo dục nào dù có được tạo ra một cách khôn khéo như thế nào cũng không thể thay thế được nhân cách của con người trong sự nghiệp giáo dục. Không một sách giáo khoa, một lời khuyên răn nào, một hình phạt. một khen thưởng nào có thể thay thế ảnh hưởng cá nhân người thầy giáo đối với học sinh” [K.D.Usinxki. Toàn tập. Tập II, Nxb Viện KHGD Nước CHLB Nga, 1948. tr.63]. Như vậy, việc trau dồi nhân cách đối với người thầy giáo là rõ ràng.

3. Thầy giáo là cái “dấu nối” giữa nền văn hóa nhân loại và dân tộc với việc tái tạo nên văn hóa đó trong chính thế hệ

Nền văn hóa của nhân loại, cũng như của dân tộc chỉ được bảo tồn và phát triển thông qua sự lĩnh hội nền văn hóa ở thế hệ trẻ. Muốn cho sự lĩnh hội đó của trẻ đầy đủ, chính xác, muốn cho nền văn hóa đó được trẻ “tiêu hóa” là biến thành những cơ sở trọng yếu để xây dựng nhân cách của chính nó, tự trẻ không làm được việc đó mà phải được huấn luyện theo phương thức đặc biệt [phương thức nhà trường] thông qua vai trò người thầy giáo. Vì rằng nền văn hóa xã hội được trẻ lĩnh hội không thể thực hiện theo con đường truyền đạt và ghi nhận, ở đó thầy giảng giải và chứng minh, khuyên răn và trừng phạt... trò thụ động tiếp thu ngoan ngoãn, học thuộc những điều thầy nói và xem như là chân lý của khoa học. Như vậy, sự lĩnh hội nền văn hóa đó ở trẻ phải được thực hiện bằng một cơ chế khác. Thầy – tổ chức và điều khiển hoạt động lĩnh hội ở trò, trò – hoạt động để chiếm lĩnh nền văn hóa đó. Trong cơ chế đó, cả thầy và trò đều là chủ thể của hoạt động dạy học. Nền văn hóa [tri thức khoa học] là phương tiện của hoạt động dạy của thầy, đồng thời là mục đích của hoạt động dạy – học, thầy và trò đều phải hoạt động tích cực, hoạt động của thầy không có mục đích tự thân, mà có mục đích tạo hoạt động tích cực của trò. Trò hoạt động theo sự tổ chức và điều khiển của thầy để tái sản xuất nền văn hóa nhân loại và dân tộc, tạo ra sự phát triển tâm lý của chính mình, tạo ra những năng lực mới mang tính người. Theo nghĩa đó, ta cũng có thể nói thầy đã biến quá trình giáo dục của mình thành quá trình tự giáo dục cùi trò. Vì thế giáo dục và tự giáo dục thống nhất với nhau trong việc làm nên sản phẩm giáo dục nhân cách. Làm được điều đó, thầy xứng đáng là “cái dấu nối” giữa nền văn hoá xã hội và việc tái sản xuất nền văn hóa đó ở trẻ. Thật là một sứ mạng vẻ vang, nhưng công việc không đơn giản, không mang tính chất lặp lại. Công việc này phải dựa trên cơ sở nắm vững con đường mà loài người đã đi qua trong khi phát hiện ra nền văn hóa đó, phải dựa trên cơ sở của những thành tựu tâm lý học, giáo dục học hiện đại đồng thời lại phải am hiểu đầy đủ đắc điểm và trình độ phát triển về mọi mặt của trẻ nhất là về mặt trí tuệ và đạo đức.

Công việc đó đòi hỏi một quá trình học tập lý luận nghiêm túc trau dồi chuyên môn, rèn luyện tay nghề... nói chung là trau dồi nhân cách.

Tóm lại, sự cần thiết trau dồi nhân cách đối với một người thầy giáo là tất yếu. Sự khẳng định ấy là một yêu cầu khách quan dựa trên đặc điểm cơ bản của nghề dạy học, vai trò và chức năng của người thầy giáo. Đây là một quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi một sự học tập và rèn luyện kiên trì và giàu sáng tạo về mọi mặt [chính trị, chuyên môn nghiệp vụ] để từng bước hình thành lý tưởng nghề nghiệp cao cả và tài năng sư phạm hoàn hảo.

II – ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO

Hiểu được đặc trưng của lao động nghề nghiệp, một mặt chúng ta hiểu rõ yêu cầu khách quan của xã hội đối với nghề mà ta đang làm, mặt khác chúng ta cũng tự ý thức về yêu cầu đối với phẩm chất và năng lực [nói chung là nhân cách] khi thực hiện nghề nghiệp đó. Để tìm thấy đặc trưng của một loại hoạt động nghề nghiệp nào, ta có thể dựa vào các mặt, như đối tượng của hoạt động, công cụ của hoạt động, tính chất của hoạt động... Dựa trên cơ sở đó, ta có thể nêu lên đặc điểm lao động cơ bản của người thầy giáo như sau:

1. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người

Như ta đã rõ, nghề nào cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp của mình. Có nhà khoa học dã dựa vào tiêu chuẩn này để chia thành bốn loại sau đây:

- Nghề quan hệ với kỹ thuật: như thợ lắp máy, sửa chữa máy, gia công bằng máy...

- Nghề quan hệ với tín hiệu: như thợ sắp chữ, sửa bản in, đánh máy, mật mã...

- Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên: như nghề chăn nuôi, thú y, địa chất, khí tượng...

- Nghề quan hệ trực tiếp với con người: như người cán bộ quản lý, cán bộ tuyên huấn, chị bán hàng, cô hướng dẫn viên du lịch, thầy thuốc và cả thầy giáo nữa...

Vì đối tượng quan hệ trực tiếp với con người, nên đòi hỏi người hoạt động trong nghề đó phải có những yêu cầu nhất định trong quan hệ giữa con người và con người, chẳng hạn: sự tôn trọng, lòng tin, tình thương, sự đối xử công bằng, thái độ ân cần, lịch sự, tế nhị... là những nét tính cách không thể thiếu được của loại hình nghề nghiệp này.

Cũng là đối tượng quan hệ trực tiếp là con người, những con người với tư cách là đối tượng của thầy giáo cũng không hoàn toàn giống với con người trong quan hệ với thầy thuốc, chị bán hàng hay cô hướng dẫn viên du lịch. Đó là con người đang trong thời kỳ chuẩn bị, đang ở buổi bình minh của cuộc đời xã hội tương lai mạnh hay yếu, phát triển hay trì trệ, tùy thuộc vào nội dung và chất lượng của thời kỳ chuẩn bị này. Thực chất nội dung của thời kỳ chuẩn bị này là hình thành những phẩm chất và năng lực của con người mới đáp ứng yêu cầu của xã hội đang phát triển. Hoạt động chính của thầy giáo là tổ chức và điều khiển trẻ lĩnh hội, thông trải những kinh nghiệm, những tinh hoa mà loại người tích lũy được và biến chúng trở thành những nét nhân cách của chính mình. Không ai trong xã hội, ngay cả cha mẹ là bậc vĩ nhân đi nữa cũng không thể thay thế được chức năng của người thầy giáo. Xuất phát từ đặc điểm này, cho nên có nhiều ý kiến cho rằng nghề thầy giáo là nghề có ý nghĩa chính trị, kinh tế to lớn và từ đó ta càng hiểu thêm lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng là rất cần thiết” mà Người đã dặn lại trong di chúc của mình.

2. Nghề mà công cụ chủ yếu là nhân cách của chính mình

Nghề nào cũng bằng công cụ để gia công vào vật liệu tạo ra sản phẩm. Công cụ càng tốt, càng hiện đại thì kết quả gia công càng cao. Công cụ đó có thể ở trong hay ngoài người lao động.

Trong dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để tác động vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, là sự giác ngộ về lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, là lòng yêu nghề mến trẻ, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp, là lối sống, cách sử sự và kỹ thuật giao tiếp của người thầy giáo... Đó là lý do mà K.D.Usinxki đã khẳng định: “Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”.

Hơn nữa, nghề đào tạo con người lại là nghề lao động nghiêm túc, không được phép tạo ra thứ phẩm, chứ nói gì là phế phẩm như ở một số nghề khác. Có người đã từng nói: làm hỏng một đồ vàng ta có thể nấu lại, một nên ngọc quý ta có thể bỏ đi, làm hỏng một con người là một tội lớn, một lỗi lầm không thể chuộc lại được. Vàng, ngọc, kim cương đều quý nhưng không thể so sánh chúng với tâm hồn, nhân cách một con người, một trẻ thơ.

Vì công cụ chủ yếu của lao động người thầy giáo là bản thân ông thầy, là nhân cách của chính mình, cho nên nghề thây giáo đòi hỏi những yêu cầu về phẩm chất và năng lực rất cao. Nhưng làm sao có thê có dược điều đó? Một giáo viên đã trả lời câu hỏi: “Thế nào là một giáo viên tốt?” – Theo tôi để trở thành một giáo viên tốt, trước hết cần phải sống một cuộc sống chân chính, vẹn toàn nhưng đồng thời phải có ý thức và kỹ năng tự hoàn thiện mình. Tâm hồn của nhà giáo phải được bồi bổ rất nhiều để sau này có khả năng truyền lại gấp bội cho thế hệ trẻ. Người giáo viên, một mặt là cống hiến, mặt khác họ như một thứ bọt biển, thấm hút vào mọi tinh hoa của dân tộc và của thời đại, của cuộc sống và của khoa học và rồi, họ lại cống hiến những tinh hoa này cho trẻ.

3. Nghề tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội

Để tồn tại và phát triển, xã hội loài người phải sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất và của cải tinh thần. Để tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần cần đến sức lao động. Sức lao động chính là toàn bộ sức mạnh vật chất hay tinh thần ở trong con người, trong nhân cách sinh động của cá nhân cần phải có để sản xuất ra sản phẩm vật chất hay tinh thần có ích cho xã hội. Cho nên chức năng của giáo dục chính là bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đó ở trong con người và thầy giáo là lực lượng chủ yếu tạo ra sức lao động xã hội đó.

Những sức mạnh tinh thần đó là truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường; là tình thương đồng bào, đồng loại; là đức tính cần cù, sáng tạo, là tri thức và năng lực để làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân; là lòng yêu lao động, lao động có tổ chức, có kỹ thuật và năng suất cao.

Giáo dục tạo ra sức mạnh đó không phải ở dạng giản đơn, cũng không phải “một vốn bốn lãi”, mà có lúc tạo ra những hiệu quả không lường. Có lẽ đây là lý do mà người ta cho rằng đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư có lãi nhất, sáng suốt nhất. Để làm rõ cho ý kiến này ta hãy tiếp xúc với một dẫn chứng. Trong một cuộc hội thảo nọ, khi bàn về sự giàu có của một đất nước, có nhiều ý kiến nêu ra những căn cứ khác nhau. Có người cho rằng: dựa vào tài nguyên như dầu mỏ, kim cương, vàng... có ý kiến khác lại cho rằng: dựa vào thu nhập bình quân tính theo đầu người. Có ý kiến khác lại cho rằng: lấy số lượng chuyên gia làm căn cứ. Nhưng trong số những ý kiến nêu ra thì có ý kiến cho rằng: dựa vào trình độ dân trí của người lao động là có căn cứ nhất. Họ lập luận rằng chúng ta đang sống trong thời đại của cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai. Do đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật này mà ngày càng dẫn đến sự thay đổi vị trí của người lao động sản xuất. Nếu như trước đây người lao động dùng năng lượng cơ bắp để gia công tạo ra sản phẩm cho xã hội thì ngày nay vị trí đó được thay thế dần bằng máy móc và như vậy người lao động từ vị trí là người gia công, nay ở vị trí là người chỉ huy gia công. Công việc chính của họ là dùng “năng lượng thần kinh” để “bấm nút”, để lập chương trình cho máy móc gia công tạo ra sản phẩm cho xã hội. Nói cách khác họ lao động chủ yếu bằng sức mạnh tinh thần, sức mạnh trí tuệ không chối cãi gì, nhà trường, thầy giáo là nơi, là người tạo ra sức mạnh đó theo phương thức tái sản xuất mở rộng.

4. Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao

Ai có ở trong nghề thầy giáo, ai có làm việc đầy đủ tinh thần trách nhiệm, với lương tâm nghề nghiệp cao thượng thì mới cảm thấy lao động sư phạm là một loại lao động không đóng khung trong giờ giảng, trong khuôn khổ nhà trường. Dạy học sinh biết giải một bài toán, đặt một câu đúng ngữ pháp, làm một thí nghiệm... không phải khó nhưng dạy sao cho nó biết con đường đi đến chân lý, nắm được phương pháp, phát triển trí tuệ... mới là công việc đích thực của một ông giáo. Dieterweg, một nhà sư phạm học Đức, đã nhấn mạnh: “Người thầy giáo tồi là người mang chân lý đến sẵn, người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân lý”. Thực hiện được công việc dạy học theo tinh thần đó, rõ ràng đòi hỏi người thầy giáo phải dựa trên những nền tảng khoa học giáo dục và có kỹ năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, thích ứng với từng cá nhân sinh động.

Quan niệm công việc của nhà giáo như vậy là yêu cầu người thầy giáo thực hiện chức năng xã hội của mình theo yêu cầu đó thì công việc của họ đòi hỏi tính khoa học cao và tính khoa học cao đến mức khi thể hiện nó như một người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ, một nhà thơ của quá trình sư phạm.

5. Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp

Lao động trí óc có hai đặc điểm nổi bật:

- Phải có một thời kỳ khởi động [như lấy đà trong thể thao] nghĩa là thời kỳ để cho lao động đi vào nền nếp, tạo ra hiệu quả. Người công nhân đứng máy sau một phút, có khi xong một giây đã có thể cho ra sản phẩm. Khác với người công nhân, người lao động trí óc trăn trở đêm ngày, có khi trăn trở hằng tháng cũng không chắc cho ra sản phẩm gì. Lao động của nhà giáo cũng có tính chất như vậy, nhất là khi phải giải quyết một tình huống sư phạm phức tạp và quyết định.

- Có “quán tính” của trí tuệ. Chị kế toán ra khỏi phòng làm việc sự nhảy múa của các con số đã bị dập tắt. Thầy giáo ra khỏi lớp học có khi còn miên man suy nghĩ về cách chứng minh một định lý, suy nghĩ về một trường hợp chậm hiểu của học sinh, phán đoán về một sự ngập ngừng, biểu hiện trong sự dập xóa ở bài làm của các em...

Do những đặc điểm của lao động trí óc chuyên nghiệp như trên, cho nên công việc của người thầy giáo không hẳn đóng khung trong không gian [lớp học], thời gian [8h vàng ngọc] xác định, mà ở khối lượng, chất lượng và tính sáng tạo của công việc. Công việc tìm tòi một luận chứng, cách giải một bài toán, xác định một biện pháp sư phạm cụ thể trong một hoàn cảnh sư phạm nhất định... Nhiều khi cũng giống như trường hợp “Eureca” của Acsimet vậy.

Tóm lại, thông qua những đặc điểm lao động của người thầy giáo, chúng ta thấy đặt ra nhiều đòi hỏi trong phẩm chất và năng lực của người thầy giáo, càng minh chứng tính khách quan trọng yêu cầu đối với nhân cách nhà giáo dục. Nhưng mặt khác nó cũng đặt ra cho xã hội phải dành cho nhà giáo một vị trí tinh thần và sự ưu đãi vật chất xứng đáng, như Lê nin đã từng mong ước “Chúng ta phải làm cho giáo.viên ở nước ta có một địa vị mà từ trước dấn này họ chưa bao giờ có” [V.I. Lê nin, Bàn về giáo dục. NXBGD, HN. Tr.23]

III – CẤU TRÚC NHÂN CÁCH NGƯỜI THẦY GIÁO

Nói đến nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc [nét đặc trưng] và giá trị tinh thần [giá trị làm người] của mỗi người. Như vậy cấu trúc của nhân cách là một hệ thống gồm hai bộ phận: phẩm chất [đức] và năng lực [tài].

Nói đến phẩm chất là nói đến thái độ của người đó với hiện thực [tự nhiên, xã hội, người khác và cả bản thân], có nghĩa là nó là hệ thống những thuộc tính tâm lý biểu hiện các mối quan hệ xã hội cụ thể của người đó. Nhưng mối quan hệ cụ thể đó thường được thể hiện ra hành động, hành vi và cách xử xử đối với con người, công việc, tổ chức...

Nói đến năng lực là nói đến mặt hiệu quả của tác động, tác động vào con người, vào sự việc như thế nào và đem lại hiệu quả gì?

Phẩm chất và năng lực đều là tổ chức của ba yếu tố tâm lý cơ bản: nhận thức, tình cảm, ý chí. Cho nên, mặt phẩm chất của nhân cách bao gồm ý thức, niềm tin đạo đức [nhận thức] mà biểu hiện tập trung là thế giới quan và lý tưởng; tình cảm, đạo đức và ý chí đạo đức [biểu hiện tập trung ở tính cách].

Mặt năng lực cũng vậy, bao gồm năng lực trí tuệ [nhận thức], tình cảm trí tuệ và hành động trí tuệ [ý thức].

Cả phẩm chất và năng lực làm thành một hệ thống. Chúng quyện vào nhau, chi phối lẫn nhau và lạo nên một cấu trúc [với ý nghĩa là một tổ hợp những yếu tố cũng như mối quan hệ giữa các yếu tố đó tạo ra một thể thống nhất toàn vẹn].

Những nội dung cơ bản tạo thành nhân cách nói trên là chung cho mọi người ở mọi loại hoạt động nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong mỗi thành phần của nó, ở mỗi loại hình hoạt động nghề nghiệp khác nhau có nội dung tính chất và yêu cầu khác nhau.

Sau đây ta sẽ xét cấu trúc nhân cách của người thầy giáo.

Trong cấu trúc nhân cách của người thầy giáo có thể kể đến những thành phần sau đây:

Các phẩm chất: thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng yêu trẻ, lòng yêu nghề nghiệp, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của người thầy giáo.

Các năng lực sư phạm: năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục tri thức và tầm hiểu biết: năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực dạy học, năng lực ngôn ngữ, năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, năng lực giao tiếp sư phạm, năng lực “cảm hóa” học sinh, năng lực đối xử khéo léo sư phạm, năng lực tổ chức hoạt động sư phạm...

Các phẩm chất và năng lực của người thầy giáo sẽ được làm sáng tỏ ở phần sau.

IV – PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO

1. Thế giới khoa học

Trong phẩm chất nhân cách của người thầy giáo, trước hết phải có thế giới quan khoa học. Sau khi vạch trần tính chất bịp bợm cái gọi là giáo dục phi chính trị, phi Đảng, V.I.Lê nin khẳng định: “Nền giáo dục mới có trách nhiệm phải gắn hoạt động của giáo viên với nhiệm vụ xây dựng xã hội XHCN” và cần “Bồi dưỡng một đội ngũ những người làm công tác giáo dục và giảng dạy gắn bó chặt chẽ với Đảng, với lý tưởng của Đảng và thấm nhuần tinh thần của Đảng”.

Mà xu hướng chính trị phụ thuộc vào niềm tin, vào hệ thống quan điểm của con người trước những quy luật: về tự nhiên, về xã hội, tức là phụ thuộc vào thế giới quan. Thế giới quan – nó vừa là hiểu biết, quan điểm, vừa là sự thể nghiệm, vừa là tình cảm sâu sắc. Do đó, thế giới quan là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó không những quyết đinh niềm tin chính trị, mà còn quyết định toàn bộ hành vi, cũng như ảnh hưởng của thây giáo đối với trẻ.

Thế giới quan của người thầy giáo là thế giới quan Mác – Lênin, bao hàm những quan điểm duy vật biện chứng về các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy. Thế giới quan Mác – Lênin cua người thầy giáo được hình hành dưới nhiều ảnh hưởng khác nhau. Trước hết, đó là trình độ học vấn của người thầy giáo, là việc nghiên cứu nội dung giảng dạy [chẳng hạn: qua toán học thay được sự phụ thuộc hàm số giữa các đại lượng, qua văn học thấy được ý nghĩa của điều kiện vật chất trong đời sống xã hội đến sự hình thành hệ tư tưởng của tác giả và giá trị tinh thần của tác phẩm], là ảnh hưởng của toàn bộ thực tế đất nước [kinh tế, khoa học, văn hóa, nghệ thuật...], là do việc nghiên cứu triết học.

Thế giới quan của người thầy giáo chi phối nhiều mặt hoạt động cũng như thái độ của ông ta đối với các mặt hoạt động đó, như việc lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy và giáo dục, việc kết hợp giữa giáo dục với nhiệm vụ chính trị của xã hội, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống, cũng như phương pháp xử lý và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý học sinh.

Tóm lại, thế giới quan Mác – Lênin là kim chỉ nam giúp cho người thầy giáo đi tiên phong trong đội ngũ những người xây dựng xã hội XHCN. Xây dựng niềm tin cho thế hệ đang lớn lên, và chống mọi biểu hiện của tư tưởng xa lạ.

2. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ

Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người thầy giáo. Lý tưởng là “ngôi sao dẫn đường” giúp cho thầy giáo luôn đi lại phía trước, thấy hết được giá trị lao động của mình đối với thế hệ trẻ. Mặt khác lý tưởng của thầy giáo có ảnh hưởng sâu sắc đen sự hình thành nhân cách học sinh.

Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người thầy giáo biểu hiện ra ngoài bằng niềm say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hy sinh với công việc, tác phong làm việc cần cù, trách nhiệm, lối sống giản dị và thân tình... Những cái đó sẽ tạo nên sức mạnh giúp thầy vượt qua mọi khó khăn về tinh thần và vật chất, hoàn thành nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Những cái đó cũng sẽ để lại những dấu ấn đậm nét trong tâm trí học sinh, nó có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Một đoạn tâm sự của học sinh sau đây sẽ nói lên ảnh hưởng lớn lao của thầy giáo: “ở trường tôi học, kể từ khi cô HV bắt đầu dạy môn văn học, ở tôi mới dấy lên một nguyện vọng tha thiết trở thành nhà giáo. Tôi hằng mơ ước được như cô, cũng sẽ bước lên bục giảng say sưa kể cho học sinh nghe về Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân tương, Puskin, Gôgôn, Goócki và các nhà văn khác. Tôi hình dung rằng mình cũng sẽ nói một cách trong sáng và đầy sức thuyết phục như cô và thậm chí còn niềm nở và dịu dàng với học sinh hơn cô HV. Tôi đã tưởng tượng mình cũng sẽ có tất cả những phẩm chất khác mà cô chưa có. Những phẩm chất khác này tôi rút ra từ các thầy cô giáo khác. Và lúc đó tôi lại càng mong thời gian trôi nhanh để tôi mau chóng trở thành một cô giáo”.

Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ không phải là cái gì có sẵn, cũng không phải là cái gì có thể truyền từ người này sang người khác bằng cách áp đặt. Trái lại, sự hình thành và phát triển là một quá trình hoạt động tích cực trong công tác giáo dục. Chính trong quá trình đó, nhận thức về nghề càng được nâng cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng tỏ rõ quyết tâm cao.

Vì tác dụng to lớn của lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ trong nhân cách người thây giáo, cho nên mọi việc làm trong trường sư phạm phải nhằm xây dựng lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh. Nếu trường sư phạm không giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh thì cũng như A.X.Macarenco đánh giá là: “Không giáo dục gì hết”.

3. Lòng yêu trẻ

Lòng yêu người, trước hết là yêu trẻ là một trong những phẩm chất đạo đức cao quý của con người, là một phẩm chất đặc trưng trong nhân cách người thầy giáo, vì lòng thương người đó và đạo lý của cuộc sống. Lòng thương người, yêu trẻ càng sâu sắc bao nhiêu thì càng làm được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu. Để khẳng định ý nghĩa to lớn của tình thương người, lòng yêu trẻ trong nhân cách người thầy giáo, V.A.Xukhômlinxki [một giáo viên công huân của Liên Xô [trước đây] [1918 – 1970]], bằng sự trải nghiệm của mình đã viết: “Tôi nghĩ rằng đối với một nhà giáo dục điều chủ yếu là tình người, đó là nhu cầu sâu sắc trong con người. Có lẽ những mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều vô cùng quan trọng. Vì khi tạo ra niềm vui cho người khác, cho trẻ thơ thì ở họ sẽ có một tài sản vô giá: đó là tình người, mà tập trung là sự nhiệt tâm, thái độ ân cần và chu đáo, lòng vị tha”.

Lòng yêu trẻ của thầy giáo dược thể hiện:

- Cảm thấy sung sướng khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu và thế giới độc đáo của trẻ. “Đối với tôi không có gì thân thiết hơn là những khuôn mặt tò mò của các em, là muôn vàn giọng nói thơ ngây của các em... Thật sung sướng biết bao khi nhìn thấy trí óc của trẻ ngày một giàu thêm trí thức, tâm hồn của trẻ ngày một mọc lên tươi tốt những hạt giống quý giá của nhân loại và những cái đó lại do chính bàn tay của mình”, lời tâm sự đó của một cô giáo nói lên khuynh hướng quan tâm tới trẻ, muốn giúp đỡ và đem lại niềm vui cho trẻ. Nếu tình cảm này được nảy nở sớm bao nhiêu, càng được thỏa mãn sớm chừng nào qua hoạt động phù hợp thì ở người đó càng nhanh chóng chín muồi tình yêu và nguyện vọng hoạt động sư phạm bấy nhiêu.

- Lòng yêu trẻ còn thể hiện trong thái độ quan tâm đầy thiện chí và ân cần đối với trẻ, kể cả các em học kém và vô kỷ luật.

- Người thầy giáo có lòng yêu thương trẻ lúc nào cũng thể hiện tinh thần giúp đỡ họ bằng ý kiến hoặc hành động thực tế của mình một cách chân thành và giản dị. Đối với họ không bao giờ có thái độ phân biệt đối xử, dù có những em chưa ngoan hoặc chậm hiểu.

Tuy nhiên, lòng yêu trẻ của người thầy giáo không thể pha trộn với những nét ủy mỵ, mềm yếu và thiếu đề ra yêu cầu cao và nghiêm khác đối với trẻ, mà ngược lại.

Tóm lại, có thể nói rằng bí quyết thành công của người thầy giáo suất sắc là bộ nguồn từ một thứ tình cảm vô cùng sâu sắc – đó là tình yêu trẻ. Khẩu hiệu các trường học hiện nay ở nước ta “Tất cả vì học sinh thân yêu” cũng là xuất phát từ tình cảm đó..

4. Lòng yêu nghề [yêu lao động sư phạm]

Lòng yêu trẻ và yêu nghề gắn bó chặt chẽ với nhau, lồng vào nhau. Càng yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề bấy nhiêu, có yêu người mới có cơ sở để yêu nghề. Không có lòng thương người, yêu trẻ thì khó mà tạo ra cho mình những động lực mạnh mẽ để suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng, vì lý tưởng nghề nghiệp.

Người thầy giáo là người luôn nghĩ đến việc cống hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ của mình. Trong công tác giảng dạy và giáo dục, họ luôn luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, luôn luôn cải tiến nội dung và phương pháp, không tự thỏa mãn với trình độ hiểu biết và tay nghề của mình. Họ thường có niềm vui khi được giao tiếp với học sinh. Sự giao tiếp này sẽ làm phong phú cuộc đời người thầy giáo, càng làm cho thầy giáo có nhiêu cảm xúc tích cực và say mê.

Có thể nói rằng, chỉ có người giáo viên nào mà họ hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ, lấy việc hy sinh phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đào tạo con người mới làm hạnh phúc cao cả của cuộc đời mình thì mới có thể thực hiện được chức năng “người kỹ sư tâm hồn” một cách xứng đáng.

Chúng ta có thể khẳng định vai trò của phẩm chất này trong cấu trúc nhân cách người thầy giáo bằng cách mượn câu nói của L.N.Tônxtôi: “Để đạt được thành tích trong công tác, người thầy giáo phải có một phẩm chất – đó là tình yêu. Người thầy giáo có tình yêu trong công việc là đủ cho họ trở thành người giáo viên tốt” [L.N.Tônxtôi. “Tác phẩm sư phạm”. NXB Giáo dục Mátxcơva, 1953, tr 342].

5. Một số phẩm chất đạo đức [nét tính cách] và phẩm chất ý chí của người thầy giáo

Khác với các hoạt động khác, hoạt động của người thầy giáo nhằm làm thay đổi con người [học sinh]. Do vậy, mối quan hệ thầy trò nổi lên như một vấn đề quan trọng nhất. Nội dung, tính chất và cách xử lý mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học. Nếu người thầy giáo xây dựng được mối quan hệ với học sinh, sao cho qua đó khơi dậy ở họ được tính tích cực hoạt động thì chắc chắn chất lượng dạy – học sẽ được nâng cao.

Hơn nữa, người thầy giáo giáo dục học sinh không những bằng những hành động trực tiếp của mình mà còn bằng tấm gương của cá nhân mình, bằng thái độ và hành vi của chính mình đối với hiện thực.

Để làm điều đó, thầy giáo, một mặt, phải biết lấy những quy luật khách quan làm chuẩn mực cho mọi tác động sư phạm của mình, mặt khác, phải có những phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết. Trong những phẩm chất đó, ta có thể nêu lên những phẩm chỉ đạo đức và ý chí không thể thiếu. Đó là: tinh thần nghĩa vụ, tinh thần “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, thái độ nhân đạo, lòng tôn trọng, thái độ công bằng, thái độ chính trực, tính tình ngay thẳng, giản dị và khiêm tốn, tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn, tính tự kiềm chế, biết tự chiến thắng với những thói hư tật xấu, kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng cho thích hợp với các tình huống sư phạm... Những phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo ra sự cân bằng theo quan điểm sư phạm trong các mối quan hệ cụ thể giữa thầy và trò. Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy giáo thành hiện thực và tác động sâu sắc tới học sinh.

V – ĐỘNG LỰC CỦA NGUỜI THẦY GIÁO [NĂNG LỰC SƯ PHẠM]

Hoạt động của người thầy giáo biểu hiện ở tất cả các hình thức khác nhau của công tác sư phạm nhưng tựu chung lại ở hai dạng đặc trưng: công tác dạy học và công tác giáo dục. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ là tương đối vì khi tiến hành công tác dạy học thì cũng đã đạt mục đích giáo dục, ngược lại, muốn giáo dục thì cũng phải dựa trên cơ sở dạy học. Vả lại dạy học hay giáo dục thực chất cũng là tạo ra những cơ sở trọng y yếu, cơ bản để “xây cất” nhân cách cho thế hệ trẻ.

Hiện nay việc xem xét cấu trúc của năng lực sư phạm cũng có nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, có tác giả sắp xếp các năng lực sư phạm dựa vào các yếu tố chủ đạo, hỗ trợ, điểm tựa và từ đó chia thành nhóm các năng lực sư phạm giữ các vai trò chủ đạo, nhóm các năng lực sư phạm giữ vai trò hỗ trợ, nhóm các năng lực sư phạm giữ vai trò điểm tựa.

Cách phân chia trên có mặt hợp lý và mặt chưa hợp lý. Cách phân chia này giúp ta thấy mức độ ý nghĩa là hiệu quả khác nhau của năng lực trong hoạt động sư phạm. Nhưng cách làm đó cũng bộc lộ một nhược điểm lớn là việc sắp xếp năng lực này hay năng lực kia vào nhóm năng lực giữ vai trò chủ đạo hay hỗ trợ hoặc điểm tựa thiếu cơ sở thuyết phục lớn. Ví dụ dựa vào cơ sở nào để xắp năng lực giao tiếp và nhóm năng lực giữ vai trò điểm tựa?

Còn một cách khác, tuy “chiết trung”, nhưng trong đó có hạt nhân hợp lý của nó. Đó là cách nêu ra một số các năng lực điển hình của hoạt động sư phạm [theo cách làm của Ph.N. Gônôbôlin], Ph.N. Gônôbôlin cho rằng, việc đưa ra những năng lực trong các năng lực sư phạm không phải xếp theo thứ tự quan trọng khác nhau. Trong số những năng lực đó, có những năng lực “đặc hiệu” cho hoạt động này [chẳng hạn năng lực cảm hóa học sinh cần cho công tác giáo dục, hoặc năng lực truyền đạt tài liệu thì lại đặc trưng cho công tác dạy học], nhưng cũng có năng lực “đặc hiệu cho cả hai hoạt động dạy học và giáo dục. Hơn nữa, trong số những năng lực đó, có năng lực được sử dụng hiệu quả ở những giáo viên khác nhau trong công một loại hoạt động dù có những đặc điểm cá nhân khác nhau. Chẳng hạn, cả hai giáo viên đều thành công trong công tác dạy học và giáo dục nhưng người thì chủ yếu do truyền đạt tri thức, nhưng có người thì lại nhờ tài khéo léo đối xử sư phạm; cũng có người có tất cả các năng lực nhưng chỉ là một giáo viên trung bình, nếu ở họ không có những phẩm chất nhân cách chung. Những phẩm chất này, có thể không gọi là năng lực sư phạm được, [chẳng hạn niềm tin sâu sắc vào sức mạnh của giáo dục, tính mục đích, tính nguyên tắc...] nhưng thiếu nó thì cũng không thể trở thành một giáo viên có tài.

Cũng có tác giả dựa vào chức năng đặc trưng của người thầy giáo là dạy học và giáo dục để xác định cấu trúc của năng lực sư phạm. Để thực hiện có hiệu quả các chức năng đặc trưng đó phải có một hệ thống các năng lực tương ứng, do đó tạo thành các nhóm năng lực như: nhóm năng lực dạy học, nhóm năng lực giáo dục, nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm.

Tuy nhiên, cách chia này cũng có một nhược điểm khác là không hơn một năng lực cụ thể nào đó là bộ phận cấu thành của nhóm năng lực này chứ không phải là của nhóm năng lực kia. Chẳng hạn, năng lực hiểu học sinh chẳng những cần có trong nhóm năng lực dạy học mà cả trong nhóm năng lực giáo dục cũng không thể thiếu sự có mặt của nó.

Dù sao, xét về mặt thực tiễn, cách phân chia này giúp chúng la thấy những năng lực cần thiết, cơ bản ứng với từng loại hoạt động đặc trưng của người thầy giáo. Từ đó, trong đào tạo ở các trường sư phạm cũng như trong tự rèn luyện của giáo sinh, những hiểu biết trên sẽ là những định hướng bổ ích.

Sau đây, ta sẽ xét một số năng lực điển hình trong các nhóm của năng lực sư phạm.

A. Nhóm năng lực dạy học

B. Nhóm năng lực giáo dục.

C. Nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm.

A. Nhóm năng lực dạy học

B. Nhóm năng lực giáo dục

C. Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm

VI – SỰ HÌNH THÀNH UY TÍN CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO

Chương 6: TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH NGƯỜI THẦY GIÁO CÂU HỎI ÔN TẬP

TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM à Phần 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM à Chương 6: TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH NGƯỜI THẦY GIÁO

Hiệu quả của giáo dục và dạy học phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của người thầy giáo. Học sinh có tin, nghe và làm theo thầy hay không cũng do uy tín của thầy mà có. Thầy giáo có xứng đáng là đại diện cho nền văn minh nhân loại, cho nền giáo dục tiến bộ, cho điều hay lẽ phải hay không cũng xuất phát lừ uy tín của người thầy giáo. Vì vậy, uy tín là một điều vô cùng quan trọng của công tác sư phạm.

Người thầy giáo có uy tín thường có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của các em. Họ thường được học sinh thừa nhận có nhiều phẩm chất và năng lực tốt đẹp, họ được các em kính trọng và yêu mến. Sức mạnh tinh thần và khả năng cảm hóa của người giáo viên có uy tín thường được nhân lên gấp bội.

Vậy thực chất của uy tín là gì? Nói một cách cô đọng và đầy đủ, ta có thể nói: đó là tấm lòng và tài năng của người thầy giáo. Vì có tấm lòng, nên thầy giáo mới có lòng thương yêu học sinh, tận tụy với công việc và đạo đức trong sáng. Bằng tài năng, thầy giáo đạt dược hiệu quả cao trong công tác dạy học và giáo dục.

Đó là uy tín thực, uy tín chân chính. Với uy tín đó, người thầy giáo thường xuyên tỏa ra một “hào quang” hấp dẫn và soi sáng các em đi theo mình. Lúc đó, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói cho đến tinh thần lao động, lí tưởng, nghề nghiệp... đều là những bài học sống đối với các em. Do đó, đối với nhiều học sinh, người thầy giáo có uy tín đã trở thành hình tượng lí tưởng của cuộc đời các em và các em mong muốn xây dựng cuộc sống của mình theo hình mẫu lí tưởng đó [như trường hợp cô HV đã nói ở trên].

Khác với uy tín nói trên, là uy tín giả [uy tín quyền uy]. Chẳng hạn có giáo viên xây dựng uy tín cho mình bằng các thủ thuật giả tạo như: bằng cách trấn áp em cho các em sợ hãi mà phải phục tùng mình, bằng cách khoe khoang, khoác lác về những cái mà mình không có, bằng lối sống xuề xòa dễ dãi, vô nguyên tắc, bằng những biện pháp nuông chiều học sinh... Có thể nói răng mọi ý đồ xây dựng uy tín bằng các thủ thuật đó trước sau thế nào cũng thất bại.

Bởi thế, có lúc A.X.Macarenco đã khuyến cáo chúng ta “Nếu bạn có những biểu hiện huy hoàng nổi bật trong công tác, trong hiểu biết và trong thành tựu, lúc đó bạn sẽ thấy mọi học sinh đều hướng về phía bạn. Trái lại, nếu bạn tỏ ra không có năng lực và tầm thường thì dù bạn có ôn tồn đến đâu, hiền lành đến thế nào đi chăng nữa, dù bạn có săn sóc đến sinh hoạt và nghỉ ngơi của học sinh như thế nào, ngoài việc bị học sinh khinh thị ra, vĩnh viễn bạn sẽ không bao giờ được cái gì hết” [A.X. Macarenco toàn tập. T1. NXB Viện HLKHGD nước CHLB Nga, 1957, tr.189]. Tuy nhiên, cũng không có gì đáng sợ cả. Vì, uy tín được toát lên từ toàn bộ cuộc sống của người thầy giáo. Nó là kết quả của việc hoàn thiện nhân cách, là hiệu quả lao động đầy kiên trì và giàu sáng tạo, là do sự kiến tạo quan hệ tốt đẹp giữa thầy và trò.

Muốn hình thành uy tín, người thầy giáo phải có những điều kiện sau đây:

a. Thương yêu học sinh và tận tụy với nghề.

b. Công bằng trong đối xử [không thiên vị, không thành kiến, không cảm tính [yêu nên tốt, ghét nên xấu].

c. Phải có chí tiến thủ [có nguyện vọng tự phát triển, nhu cầu về mở rộng tri thức và hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp].

d. Có phương pháp và kỹ năng tác động trong dạy học và giáo dục hợp lí, hiệu quả và sáng tạo.

Mô phạm, gương mẫu về mọi mặt, mọi lúc và mọi nơi.

Tóm lại, nhân cách là bộ mặt chính trị - đạo đức của người thầy giáo, là công cụ chủ yếu để tạo ra sản phẩm giáo dục. Nó là cấu tạo tâm lý phức tạp và phong phú. Sự hình thành và phát triển nhân cách là cả một quá trình tu dưỡng văn hóa và rèn luyện tay nghề trong thực tiễn sư phạm. Nhân cách hoàn thiện và có sức sáng tạo sẽ tạo uy tín chân chính của người thầy giáo. Trường sư phạm có nhiệm vụ xây dựng nên những cơ sở trọng yếu để hình thành nhân cách người thầy giáo tương lai. Thời gian học tập là tu dưỡng của giáo sinh ở trường sư phạm là cực kỳ quan trọng để tạo ra những tiền đề cần thiết kiến tạo nhân cách.

Video liên quan

Chủ Đề