Tết âm lịch ngày nào

Trên mạng vừa qua đã ễn ra cuộc ranh luận ế Ta – ế Tây đến mức có nhều ý kến gây căng hẳng, hậm chí nặng lờ bà bác gáo sư này, ến sỹ nọ, sử ga ka chỉ vì ý kến rằng a có nên “ăn ế” ương lịch hay ế âm lịch [ÂL] nhằm ế kệm hờ gan để bắ kịp hờ cơ hộ nhập.

Được bế có &g;50% ý kến chống lạ đề nghị rên đây. Các ý kến bà bác vì lo ngạ là a sẽ xóa bỏ ruyền hống ân ộc. Vậy đặ vấn đề lưu gữ ryền hống ân ộc rên cơ sở nào kh mà pháp luậ lao động Vệ Nam đang cho những ngày nghỉ âm lịch gồm: ế ÂL ừ 30 háng chạp đến hế mùng 5 háng gêng, chưa kể sẽ hêm ngày gỗ ổ Hùng Vương 10 háng 3 ÂL; và lạ ừng nghỉ hứ bảy hàng uần, ngoà chủ nhậ, ho Tây phương và các nước khác.

Nó về ngày ÂL, sau ngày hống nhấ đấ nước hì ngườ lao động chỉ có nghỉ chều 30 ế và 2 ngày 1&2 háng gêng ÂL, cho ớ nay được phép nghỉ hêm 2,5 ngày đầu năm ÂL. Có ngườ cho là a đang nghỉ nhều ngày quá ! Thực ra, số ngày nghỉ ở VN hện nay không nhều so vớ các nước, vì rong luậ lao động a không nghỉ những ngày rêng của ôn gáo, hay như ở châu Âu họ còn nghỉ cả ngày kỷ nệm chấm ứ hế chến hứ I & II [ngoà ngày quốc ế lao động như ở VN] và hêm lễ Phục Snh [ngày chúa Jsus sống lạ rong Knh hánh của đạo Cơ đốc] và cả Gáng snh. Chưa hế, họ còn muốn chỉ làm vệc 35 gờ/uần [7 ếng/ngày].

Nó về vệc hộ nhập “hờ gan” chúng a phả ìm hểu lạ âm lịch và ương lịch ra sao, rồ lịch ôn gáo rong đờ sống của các ân ộc, ừ đó ẫn đến nguồn gốc các ngày ế ở các nước.

Ngày 12/1/2013 rên báo mạng của Đạ học Quốc ga Hà Nộ có mộ bà vế nó về các nước ASEAN ăn ế ra sao uy khá rõ nhưng chưa đủ để a xm xé vấn đề hộ nhập quốc ế hợp lý. Qua bà vế này a hấy có 4 nhóm nước và lãnh hổ: Vệ Nam, Đà Loan và Sngapor vớ ế nguyên đán [1 háng gêng] như ở Trung quốc; còn Campucha, Lào, Myanmar, Thá Lan và Lào “ăn ế” ho Phậ gáo [3 ngày 13-15/ 4 Phậ đản]; Inonsa, Malaysa và Brun ăn ế ho Hồ gáo [sau háng Ramaan]; rêng Phlppn hì chỉ ăn ế ương lịch, như Nhậ bản và Hàn quốc. Trên lịch của họ chỉ có ngày ương lịch như Tây phương. Tuy nhên về lịch mà nước chúng a đang ùng là âm ương lịch [có ngày rên ương, ngày ướ âm; năm số và Can Ch; mớ hành ra năm 2013 -Kỷ ỵ].

Dương lịch [DL] các nhà hên văn ùng huậ oán để ính ngày ựa ho sự chuyển động ho mặ rờ của rá đấ. Kh xưa họ đều ở rong các gáo hộ và kh ôn gáo còn ch phố chính quyền hì quy định về hờ gan của họ rở hành “luậ”. DL mà hầu hế các nước đang ùng hện nay là của Đức gáo hoàng Grgory XIII công bố năm 1582, nó nhanh chóng được các nước Công gáo chấp nhận. Sau đó đến các nước ho Tn Lành đã ho lịch này, còn các nước Đông Âu hì muộn hơn. Vương quốc Anh hì bắ đầu 1752 bỏ lịch cổ của mình để ho lịch Grgory. Thụy Đển chấp nhận lịch Grgory năm 1753. Trước đó Thụy Đển có hờ kỳ 12 năm bắ đầu ừ năm 1700 đã sử ụng lịch Julus sửa đổ. Nga hì uy rì lịch Julus cho đến ận Cách mạng Nga, chính vì hế nó được gọ là ''Cách mạng háng Mườ Nga'' nhưng ễn ra vào háng 11 ho lịch Grgory năm 1917, rong kh Hy Lạp vẫn ếp ục sử ụng lịch Julus cho đến ận năm 1923. Lịch Julus o Jlus Casar của Đế chế La Mã đưa ra ừ  năm 45 rước Công nguyên. Lộ rình chuyển đổ có sa khác như sau:

- Lịch Cộng hòa La Mã [rước Julus]: 30, 29, 30, 29, 30, 29, 30, 29, 30, 29, 30, 29, ổng cộng 354 ngày. Rồ xn kẽ vớ các năm nhuận, mà các năm nhuận này lạ xn kẽ các năm 377 và 378 ngày. Cứ rong 1 chu kỳ 24 năm lạ có 3 năm nhuận [7 năm hường + 1 năm nhuận]

- Lịch Julus: 31, 29 [hay 30], 31, 30, 31, 30, 31, 30, 31, 30, 31, 30, ổng cộng 365 ngày

- Lịch Grgory: 31, 28 [hay 29], 31, 30, 31, 30, 31, 31, 30, 31, 30, 31, ổng cộng 365 ngày.

2 lần lịch về sau cho hấy 4 năm hì có háng 2 nhuận 1 ngày ứng vớ rá đấ quay xung quanh mặ rờ hế 365,25 ngày. Cứ năm nào có 2 số sau cha chẵn cho 4 hì là năm nhuận; còn những năm ròn hế kỷ hì phả năm nào cha chẵn 400 mớ nhuận: như năm 2000 hì nhuận, nhưng năm 1700 hay 1900 hì không nhuận, và năm 2100 cũng sẽ không nhuận, . . .]. Tuy nhên, cũng phả bế rằng lịch Grgory hay DL hện nay chỉ ính đến năm 2800 hô [cũng không có nghĩa là năm này lạ “ận hế” như lịch ngườ Maya ính chỉ đến năm 2012]. Những năm nhuận này hện là những năm đồng hờ bầu cử ổng hống Mỹ và cũng ễn ra hế vận hộ Olympc mộ cách ngẫu nhên vớ chu kỳ 4 năm.

Lịch ho mặ rờ còn gọ là DL mà ân a còn gọ lịch Tây; có lẽ được ính ừ hờ vua Bảo Đạ kh rều đạ phong kến cuố cùng của Vệ Nam được “ây hóa” để phân bệ vớ lịch Ta. Thực ra rước đây lịch nước a ho nên hệu nhà vua, ví ụ Hồng Đức năm hứ … đờ vua Lê Thánh Tông [gống như Trung quốc hay Nhậ bản]. Trong kh nhà vua có 2 nên hệu, vớ nên hệu Thệu Bình rước đó, hì lạ là Thệu Bình năm hứ…, cũng chính ừ đó gọ bộ luậ Hồng Đức chứ không nêu lên năm.

Âm lịch [ÂL]: Chỉ có các nước Hồ gáo mớ ùng lịch ho chu kỳ mặ răng [Lịch Hjr]. Loạ lịch này có 12 háng rong mỗ năm vớ khoảng 354 ngày [cũng như ương lịch hờ kỳ ban đầu]. Do năm âm lịch này ngắn hơn so vớ năm ương lịch khoảng 11 ngày, nên các ngày lễ hêng của Hồ gáo, mặc ù được kỷ nệm vào các ngày cố định rong lịch của họ, hường ịch chuyển lù lạ khoảng 11 ngày rong mỗ năm ương lịch kế ếp, mà kh đố chếu vớ lịch Grgory hì chỉ có năm 2008 ương lịch là năm gần đúng nhấ vớ năm 1429 của lịch Hồ gáo.

Lịch Hồ gáo cũng có 12 háng, rong đó ên háng hứ 9 là Ramaan. Đây là háng quan rọng nhấ. Các gáo ân Hồ gáo cần phả kêng khm ăn uống, rèn luyện gảm ham muốn cá nhân [như mùa ăn chay rong Phậ gáo]. Nhưng lịch Hồ gáo không đồng nhấ hóa được vớ khá nệm ÂL như a nó đến ở VN hay Trung quốc. Như vậy, họ ùng âm ương lịch ho kểu khác a. Dù ÂL của họ cũng ựa rên năm có 12 háng, được bổ sung sao cho nó chứa rung bình khoảng 354,367 ngày. Mỗ háng được định nghĩa như là khoảng hờ gan rung bình rong sự xoay của mặ răng quanh rá đấ [29,530588... ngày]. Tho quy ước, các háng 30 ngày và 29 ngày kế ếp lẫn nhau, làm cho ha háng kế ếp nhau có ổng cộng 59 ngày. Đều này làm cho sự ao động hờ gan của háng chỉ là khoảng 44 phú để ính oán ếp, nó sẽ bổ sung đủ cho 1 ngày [24 gờ] rong vòng 2,73 năm. Hện nạy chỉ có Ả Rập Sau là quốc ga Hồ gáo uy nhấ còn sử ụng ÂL này như là lịch cho hoạ động hường ngày của chính quyền, còn các nước Hồ gáo khác đều sử ụng a gọ là ÂL cho mục đích ôn gáo mà hô. Như vậy, lịch Grgory ức ương lịch hện nay co như đã hống rị gần như oàn cầu.

Trong ếng Vệ, kh nó ớ âm lịch hì ngườ a nghĩ ớ loạ lịch được lập ựa rên các cơ sở và nguyên ắc của lịch Trung Quốc, nhưng Vệ Nam có sự chỉnh sửa lạ ho UTC+7 [gờ Hà Nộ, bắ đầu ừ năm 1967] hay vì của Trung quốc là UTC+8 [gờ Bắc Knh, rước Hà Nộ mộ mú gờ]. Chính ra ở Sà gòn rước 1975 đã ùng gờ Bắc Knh ho ngườ Hoa. Và hện nay Malaysa và Sngapor cũng vậy, nên mớ hơn Hà Nộ 1 ếng đồng hồ rong kh “Sà gòn” xưa hay 2 nước này cùng mú gờ vớ Hà Nộ - Vệ Nam. Cá chung ở Trung quốc, Hàn quốc, Trều Tên, Nhậ bản và Vệ Nam [nó vu là những nước ừng sử ụng né chữ “cọ quẹ”, khác vớ các nước rong khu vực ừng sử ụng né chữ “lăn quăn”] đã ừng ính oán 10 Can và 12 Ch ạo nên chu kỳ lịch 60 năm ÂL. Cách gọ năm ở VN ho Trung quốc sẽ kèm cách ghép Can [gáp, ấ, bính, đnh, mậu, kỷ, canh, ân, nhâm, quý] và Ch [ý, sửu, ần, mão, hn, ỵ, ngọ, mù, hân, ậu, uấ, hợ]. Nhưng lịch VN chỉ gống Can, còn khác Ch qua bểu ượng loà vậ [TQ có hỏ, bò và cừu; còn VN lạ là mèo, râu và ê].

Vớ kểu lịch Trung quốc hay Vệ Nam hện là mộ loạ âm ương lịch ho sá nghĩa chứ không phả âm lịch huần úy. Mộ số nơ ở Nhậ cũng còn ùng ÂL như a vớ Trung quốc, nhưng là UTC+9. Trong đó, UTC là ừ vế ắ của ếng Anh Coorna Unvrsal Tm được ùng hay cho GMT [Grnwch Man Tm] = 0 gờ ạ knh uyến của đà hên văn Grnwch, Anh quốc. DL nhuận 1 ngày, còn ÂL nhuận 1 háng. Tho âm ương lịch hì rong 19 năm ương lịch có 228 háng ương lịch, ương ứng vớ 235 háng ÂL, hừa 7 háng so vớ năm ương lịch, gọ là 7 háng nhuận. Bảy háng này được quy ước vào các năm hứ 3, 6, 8 hoặc 9, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.

Từ lịch qua ế, hì kh nó đến các nước châu Á ăn “ế Tây” chỉ có cách đón ế của ngườ ân Phlppns vừa chịu ảnh hưởng của phương Tây lẫn Trung Quốc, nhưng đồng hờ cũng mang những né ruyền hống đặc rưng. Trước đêm gao hừa, các ga đình bắ đầu chuẩn bị bàn ệc “Ma Noch” để cả ga đình cùng hưởng hức vào đúng nửa đêm. Các nước Malaysa, Inonsa [Tế Hjrah] và Brun [ế Har Raya] hì ăn ế ho Hồ gáo ngay sau háng Ramaan. Rêng Nhậ bản ăn ế Oshogasu nhưng đã chuyển sang ho Tế ương lịch như phương Tây ừ năm 1873; ế của ân Nhậ cũng là sự kện để nghênh đón vị hần Toshgamsama ho phong ục đón năm mớ; hện họ vẫn gữ được những ruyền hống Á Đông đển hình, bên cạnh đó cũng hu nhận những né văn hóa mớ ừ phương Tây qua quá rình gao lưu, ương ác ho hờ gan. Hàn quốc có Tế Sollah cũng vào ngày đầu năm mớ; còn Ấn độ hì ế rơ vào 14/4 cùng hờ đểm ế của các xứ Phậ gáo, uy nhên ở mộ số bang có ngày ế mang ên rêng.

Trở lạ lịch Vệ Nam hay đúng hơn là âm ương lịch Vệ Nam, đó là mộ né độc đáo so vớ các nước. Trên cơ sở đó “ế” hay đúng hơn là “ế nguyên đán” [“nguyên đán”  là buổ sáng đầu ên]. Nó cho vu, Anh Mỹ ngày nào cũng chào nhau “goo mornng” còn ân mình mộ năm mớ chào buổ sáng vào ngày 1/1 ÂL, vớ lễ hộ rấ là long rọng và kéo à 3-4 ngày ớ nguyên cả uần. Ngườ Trung quốc hện nay gọ đây là "Xuân Tế" [ế vớ ế là mộ] vẫn ăn ế cổ ruyền của họ, mặc ù ừ năm 1949, Trung Quốc đã chính hức chuyển qua ùng ương lịch và chuyển qua gọ Tế ương lịch là Tế Nguyên đán. Lệu bằng mệnh lệnh hành chính ở a sẽ chuyển lịch “ăn ế” ừ “Ta” sang “Tây” như Nhậ hay Thá Lan hoặc như ễn ến ừ các nước châu Âu rong vòng 400 năm qua hay không ? [có ngườ cho rằng sẽ “nuô hươu cao cổ”]

Trong kh đó Campucha có ế Chaul Chnam Thmay, Myanmar có ế Thngyan, Lào có ế Bulpmay, Thá Lan có ế Songkran, họ đều ho Phậ lịch, hoàng ga Thá lan đã chuyển ế Songkran sang ngày ương lịch ừ năm 1941, Lào và Myanmar cũng đều quy về ngày ương lịch [13 – 16/4] vớ chung phong ục lễ hộ “é nước” được gữ nguyên. Do đó, nếu có đề nghị chuyển ế “chào ngày đầu năm mớ” ừ 1/1 ÂL ở nước a sang 1/1 DL mà gữ nguyên các phong ục ập quán hì cũng không phả là “ho Tây” ngoạ la. Lúc ấy quy phạm pháp luậ về “hờ gan” rong luậ lao động cũng ễ àng đều chỉnh hô ! Ta vốn có hó qun gỗ ngày ÂL và sau này “Tây hóa” có snh nhậ; nếu ma này “ăn ế” ho DL hì chắc chắn cũng phả gắn lền phong ục vốn có [mà hực ra đã ần bỏ mộ phần] rên nh hần vu ươ, an oàn và ế kệm.

Nhớ  ngày xưa: Thị mỡ, ưa hành, câu đố đỏ,

Cây nêu, ràng pháo, bánh chưng xanh

Còn ngày nay ngườ a ngán “mỡ” o nguy cơ bệnh m mạch; “cây nêu” chỉ còn ở đô nơ hôn xóm; “ràng pháo” bị cấm hoàn oàn bằng Chỉ hị số 406/CT-TTg ngày 8/8/1994 vì ính chấ nguy hểm ễ gây sá hương của nó. Thay vào đó, là vệc ổ chức các đêm bắn pháo hoa cho ngườ ân hưởng hức. Câu đố chữ Nho ngày nay mở rộng hành hư pháp chữ Vệ. Dù hế nào hì ế Vệ Nam vẫn đậm né ga đình đón chào năm mớ, con cháu nhớ đến ổ ên, ruyền hống ấy hể hện ở đón gao hừa vớ ín ngưỡng mờ ông bà [đã khuấ] về nhà đón xuân, sau đó: mồng mộ ế cha, mồng ha ế mẹ [vợ], mồng ba ế hầy.

Chủ Đề