Thịt rắn có tác dụng gì

Trong nhiều bài thuốc Đông y, cổ phương đã dùng rắn điều trị một số bệnh với nhiều loại chế phẩm khác nhau.

Thịt rắn thường gọi là xà nhục. Thịt rắn ngon và lành hơn thịt gà, có vị ngọt, mặn, mùi tanh, tính ấm, có tác dụng khu phong, giảm đau, trừ thấp, được dùng dưới dạng món ăn - bài thuốc như sau:

Bài 1: Rắn lột da, bỏ phủ tạng, lọc lấy thịt băm nhỏ, gói lá lốt nướng hoặc rán lên cho trẻ ăn liên tục một tuần để điều trị chứng chốc đầu ở trẻ em.

Bài 2: Rắn tiềm thuốc bắc: Rắn bỏ đầu, lột da, mổ bỏ nội tạng cho vào nồi cùng chín vị thuốc bắc đun to lửa cho sôi rồi hạ nhỏ lửa, sôi liu riu. Hương thuốc bắc tỏa nghi ngút, vị hơi ngọt, thịt rắn đủ mềm. Ăn thịt và uống nước. Tác dụng chống đau nhức xương khớp.

Rắn hầm thuốc bắc

Bài 3: Thịt rắn xào hoàng kỳ: Thịt rắn 200g, hoàng kỳ 50g, gừng tươi 3 lát. Cho vào nồi xào chín, ăn nóng. Tác dụng chữa đau lưng mạn tính.

Bài 4: Chả rắn chiên trứng gà:Thịt rắn xay nhuyễn, ướp tiêu hột, bột ngọt, đường, muối, trộn đều. Trứng gà đánh đều, nhúng viên thịt rắn đã chiên vào trứng, nhúng tiếp vào chảo dầu đang sôi để tạo độ dính. Ăn khi còn nóng, chấm với muối tiêu chanh.

Rượu rắn: Theo y học cổ truyền, rượu rắn còn gọi xà tửu.

Rượu tam xà: Lấy 3 loại rắn hổ mang, cạp nong hay cạp nia và rắn ráo. Nếu ngũ xà thì thêm rắn lục, rắn nước.

Cách ngâm: Bỏ rắn sống vào lọ, đổ ngập cồn 90 độ ngâm 3 ngày rắn chết và tiết giảm bớt một số chất độc, sau đó lấy rắn ra chặt đầu, đuôi, lột da, bỏ phủ tạng, chỉ để lại mật, dùng rượu 45 độ đổ ngập ngâm sau 100 ngày là dùng được. Rượu rắn có màu vàng hơi xanh là loại tốt. Khi uống có thể pha với rượu ngâm với các vị thuốc đông dược. Ngoài ra, để tăng cường sinh lực, mạnh gân xương có thể phối hợp với dược liệu như: hải sâm, chim bìm bịp.

Rượu tam xà hải sâm: Ngâm 3 loại rắn [hổ mang, cạp nong, rắn ráo] với sâm biển. Cách ngâm như trên. Sau 3 tháng là dùng được.

Rượu ngũ xà bìm bịp: Dùng 5 loại rắn [hổ mang, cạp nong, cạp nia, rắn ráo, rắn nước] ngâm với chim bìm bịp. Ngâm thời gian 3 tháng thì dùng được. Tác dụng: tăng cường sinh lực, mạnh gân xương.

Nói chung, thịt rắn hay rượu rắn, xương rắn, da rắn, mỡ rắn, mật rắn... chỉ mới là một vị thuốc trong một bài thuốc. Nếu là chế phẩm để trị chứng phong thấp thì phải kết hợp với các vị thuốc khu phong, tán hà, trừ thấp, hành khí, bổ huyết thì mới có công hiệu. Nếu để trị các chứng bệnh ngoài da thì cần dùng phối hợp với các vị thuốc kiện tỳ, bổ phế, thanh nhiệt, giải độc. Như vậy, rắn là vị thuốc quý của y học phương Đông nếu dùng đúng thì âm cũng bổ và dương cũng lợi.


Rắn là loài bò sát di chuyển nhanh, vận động nhiều, có hệ cơ săn chắc, khớp xương lưng mềm mại, dẻo dai; dân gian từ lâu đã lưu truyền tác dụng của rắn trong chữa trị các bệnh về xương khớp, suy giảm sinh lý...

Trong các loài rắn, rắn độc chiếm khoảng 25% tổng số, có thể kể đến như hổ mang bành, mai gầm, cạp nia, rắn lục, hổ trâu, hổ lửa, rắn biển… Rắn thường không có nọc độc như rắn ráo, rắn dọc dưa, rắn nước... Các bộ phận cơ thể rắn đều được sử dụng để làm thuốc.

Nọc độc của rắn có ở móc độc là hai răng cửa nhọn hơi quặt vào nơi hàm trên, tuyến tiết nọc ở phía trước móc độc sau môi trên, nhìn từ phía ngoài sau hai u mắt. Khi rắn cắn, răng phập vào, môi trên ép xuống, nọc chứa sẵn trong tuyến bị ép ra. Chất độc nọc rắn gọi chung là zootoxin, có các độc tố crotelotoxin, ophyotoxin, các alcaloid, protein, enzym…, gây độc chủ yếu là những hợp chất chứa N, có tính kiềm và hoạt tính sinh học mạnh hơn cả so với các chất tự nhiên. Tây y dùng nọc rắn với liều lượng thích hợp dưới dạng thuốc bôi, xoa gây tê, giảm đau nhức, chống viêm trong các bệnh viêm dây thần kinh, sưng khớp, viêm cơ. Nọc rắn dùng sản xuất huyết thanh kháng độc khi bị rắn cắn. Nọc còn có tác dụng dung giải tế bào ung thư và giảm đau giai đoạn cuối của bệnh này.

Rượu rắn mạnh gân cốt, chữa đau nhức xương.

Mật rắn [thường gọi đởm xà] được chế biến bằng cách dùng một ít trần bì tẩm mật rắn đem sấy, làm đi làm lại nhiều lần, cuối cùng sấy khô, tán bột. Có thể chế bằng cách buộc chặt túi mật rồi tẩm rượu, phơi âm can cho khô, làm 3 lần trong 3 ngày, rồi treo lên cho đến khi khô kiệt để dùng. Mật rắn vị ngọt, cay, không đắng, tác dụng hạ sốt, giảm đau, tiêu đờm giảm ho, nhất là trị hen suyễn ở trẻ em rất tốt.

Huyết rắn [huyết xà] có tác dụng tăng cường sinh lực, bổ thận làm mạnh gân cốt. Chữa lưng đau, gối mỏi, sinh lý yếu, thường dùng pha rượu uống.

Xương rắn: Đập chết rắn, đem chôn, sau 3 tháng lấy xương sống, rửa sạch sao vàng cho vào túi vải ngâm rượu, có thể ngâm chung với một số vị thuốc khác, dùng trị phong thấp hiệu quả.

Da rắn: Dùng xác lột con rắn [xà thoái], thành phần hóa học chứa kẽm oxide, titan oxide. Xà thoái vị ngọt, mặn, tính bình, quy kinh can, tỳ tác dụng khu phong, chỉ kinh, tiêu sưng, sát trùng, lui màng mộng. Điều trị các chứng co giật ở trẻ, phong ngứa ngoài da, mắt màng nội chướng, dùng ngoài [sao cháy] trị đinh nhọt, lở loét, trĩ rò, lở ngứa, ung sưng, loa lịch.

Mỡ rắn tác dụng bài độc, sinh cơ, làm chóng lên da non, điều trị các trường hợp bỏng lửa, chốc đầu, nứt nẻ da chân, thường dùng kết hợp với một số vị thuốc khác.

Thịt rắn được chế biến bằng cách chặt bỏ đầu đuôi, loại bỏ phủ tạng, thịt rắn giàu chất đạm, là nguồn cung cấp các acid amin, dinh dưỡng thiết yếu giúp nuôi dưỡng và bền vững các dây chằng, tăng cường hoạt dịch cho khớp và tái tạo sụn khớp. Thịt rắn chứa nhiều vitamin và các khoáng chất quý như kali, calci, sắt, kẽm, vitamin A, D, B1, B2, B6, B9… Theo Đông y, thịt rắn vị ngọt, tính ấm, quy kinh can, tỳ, có tác dụng bổ dưỡng, trừ phong thấp, đau nhức xương khớp, tê mỏi, gai đôi cột sống, thoái hóa khớp, chứng ngứa ngoài da, nhất là ngứa kinh niên như bệnh chàm [eczema].

Rượu rắn được sử dụng như một loại thuốc bổ dưỡng. Dùng rượu 400 ngâm kín với rắn khô hoặc tươi đều được, song phải chế biến chặt bỏ đầu đuôi, tạng phủ, giữ lại mật cho vào rượu ngâm cùng. Ngâm tươi thời gian tối thiểu phải 100 ngày. Ngâm khô: dùng rắn cắt khúc, nướng vàng, ngâm chừng 30 ngày có thể dùng được, tuy nhiên, tác dụng kém hơn so với ngâm tươi. Theo kinh nghiệm cổ truyền, rượu rắn thường được hạ thổ bằng cách chôn bình rượu xuống đất, lấp kín 3 tháng 10 ngày, đem lên sử dụng. Rượu sẽ có mùi thơm đặc biệt và tác dụng bổ dưỡng tăng lên nhiều. Đó là vì tác động của môi trường [nhiệt độ, độ ẩm] trong lòng đất làm gia tăng phản ứng ester hóa giữa rượu và các acid amin. Sản phẩm ester tạo ra mùi thơm cho rượu, lượng acid amin tham gia phản ứng càng nhiều, thúc đẩy mạnh sự phân cắt [thủy phân] protein làm tăng thành phần bổ dưỡng trong rượu. Rượu rắn thường được ngâm phối hợp với một số vị thuốc bổ khác như thục địa, nhân sâm, hà thủ ô, đương quy, xuyên khung, đỗ trọng, thỏ ty, kỷ tử, hoàng kỳ. Các dược liệu phải ngâm riêng rồi lấy dịch chiết pha chung rượu rắn để uống. Rượu rắn tác dụng tốt trong những trường hợp thận dương suy kém, đau xương khớp, viêm, đau dây thần kinh ngoại biên, suy giảm chức năng sinh lý, liệt dương, di tinh, tảo tiết, trí lực thần kinh suy giảm. Những người huyết hư sinh phong không nên dùng.

[ Theo suckhoedoisong.vn]

Chủ Đề