Tiêu chuẩn của chân lý là gì

Các tiêu chí để kiểm tra sự thật là gì? Đây là vấn đề đã được các nhà cách mạng của giai cấp vô sản giải quyết từ lâu. Nhưng mấy năm trở lại đây, trước sự phá hoại của “Bộ tứ băng đảng” và sự tuyên truyền xuyên tạc của quần chúng của các công cụ dư luận do chúng kiểm soát, vấn đề này đã bị lẫn lộn. Để phê phán sâu sắc “Bộ tứ băng đảng” và loại bỏ đầu độc và ảnh hưởng của nó, cần phải làm cho đúng vấn đề này.

Tiêu chí kiểm nghiệm chân lý chỉ có thể là thực tiễn xã hội

Làm thế nào để phân biệt sự thật với sự giả dối? Năm 1845, Mác đặt vấn đề về tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý: "Tư duy của con người có chân lý khách quan hay không, không phải là vấn đề lý luận, mà là vấn đề thực tiễn. Mọi người hãy chứng minh tư duy của mình bằng thực tiễn. Tư duy của mình là chân lý, tức là tính hiện thực và sức mạnh của tư duy của chính mình, tức là tính bên này của tư duy của chính mình. Cuộc tranh luận về việc liệu tư duy tách rời khỏi thực tiễn có thực tế hay không là một vấn đề kinh viện thuần túy." [Selected Works of Marx and Engels, No. 1 Tập 16] Điều này nói lên rất rõ rằng một lý luận có phản ánh đúng hiện thực khách quan hay không, có phải là chân lý hay không thì chỉ có thực tiễn xã hội mới kiểm nghiệm được. Đây là một nguyên tắc cơ bản của nhận thức luận mácxít.

Thực tiễn không chỉ là tiêu chí để kiểm nghiệm chân lý, mà còn là tiêu chí duy nhất. Mao Chủ tịch nói: "Chỉ có một sự thật, và việc ai phát hiện ra sự thật không phụ thuộc vào sự phóng đại chủ quan, mà phụ thuộc vào thực tiễn khách quan. Chỉ có thực tiễn cách mạng của hàng triệu người mới là thước đo của sự thật." ] “Tiêu chuẩn của chân lý chỉ có thể là thực tiễn của xã hội.” [“On Practice”] ở đây nói: “Duy nhất”, “là”, tức là chỉ có một tiêu chuẩn, không có tiêu chuẩn thứ hai. Sở dĩ như vậy vì chân lý mà chủ nghĩa duy vật biện chứng đề cập là chân lý khách quan, là sự phản ánh đúng đắn của tư duy con người về thế giới khách quan và các quy luật của nó. Vì vậy, với tư cách là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý, không thể tra cứu nó trong lĩnh vực chủ quan, càng không thể tra cứu trong lĩnh vực lý luận, tư tưởng, lý thuyết và bản thân nó không thể trở thành tiêu chuẩn để kiểm tra xem chúng có phù hợp với thực tế khách quan hay không. nguyên đơn là đúng theo luật không thể Theo tiêu chuẩn giống như công tố của chính mình. Là tiêu chí để kiểm nghiệm chân lý, nó phải có đặc tính nối tư duy của con người với thế giới khách quan, nếu không thì không thể kiểm nghiệm được. Thực tiễn xã hội của con người là hoạt động cải tạo thế giới khách quan, là cái mà chủ thể nhận thức được từ khách quan. Thực tiễn có đặc điểm là gắn liền tư tưởng với hiện thực khách quan. Vì vậy, chính thực tiễn và chỉ có thực tiễn mới làm tròn nhiệm vụ kiểm nghiệm chân lý. Nhiều sự kiện trong lịch sử khoa học minh họa đầy đủ vấn đề này.

Mendeletev đã xây dựng bảng tuần hoàn các nguyên tố dựa trên sự thay đổi trọng lượng nguyên tử, có người đồng ý, có người nghi ngờ, tranh luận không dứt. Sau đó, một số nguyên tố đã được phát hiện theo bảng tuần hoàn và tính chất hóa học của chúng phù hợp với dự đoán của bảng tuần hoàn. Bằng cách này, bảng tuần hoàn các nguyên tố đã được chứng minh là đúng. Lý thuyết hệ mặt trời của Copernicus đã là một giả thuyết trong ba trăm năm và khi Leverrier suy luận từ dữ liệu do lý thuyết hệ mặt trời này cung cấp, ông không chỉ suy luận rằng nhất định phải có một hành tinh chưa biết, mà còn suy luận rằng hành tinh này phải tồn tại khi nào. Galle thực sự phát hiện ra hành tinh Neptune vào năm 1846, lý thuyết về hệ mặt trời của Copernicus đã được xác nhận và trở thành một sự thật được chấp nhận rộng rãi.

Sở dĩ chủ nghĩa Mác được công nhận là chân lý là kết quả thực hành lâu dài của hàng triệu người. Mao Chủ tịch nói: “Lý do tại sao chủ nghĩa Mác-Lênin được gọi là chân lý không chỉ bởi vì Marx, Engels, Lenin, Stalin và những người khác đã đưa ra những lý thuyết này một cách khoa học, mà còn bởi vì chúng đã được chứng minh bằng thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp cách mạng sau đó và cuộc đấu tranh dân tộc." thực tiễn cách mạng lâu dài đã chứng minh chủ nghĩa Mác là chân lý, cuối cùng trở thành hệ tư tưởng chỉ đạo của phong trào cộng sản quốc tế.

Điều này cũng đúng đối với việc kiểm tra tính đúng đắn của dòng. Đảng mác-xít khi xây dựng đường lối của mình, tất nhiên, phải xuất phát từ mối quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp trên thực tế, theo sự chỉ đạo của lý luận cách mạng và chứng minh lý luận đó. Tuy nhiên, đường lối của phong trào cộng sản quốc tế và của các đảng cách mạng có đúng đắn hay không thì còn phải được thực tiễn xã hội kiểm nghiệm. Đầu thế kỷ XX, phong trào cộng sản quốc tế và phong trào công nhân Nga diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa đường lối chủ nghĩa Mác của Lênin và đường lối xét lại của Quốc tế thứ 2. Lúc bấy giờ, lãnh tụ của Quốc tế thứ hai là Kautsky, một người theo chủ nghĩa Lênin. là thiểu số, và cuộc đấu tranh kéo dài trong một thời gian dài. Thực tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga và các cuộc cách mạng vô sản ở các nước đã chứng minh chủ nghĩa Lênin là chân lý, tuyên bố làm phá sản đường lối xét lại của Quốc tế thứ hai.

Tư tưởng Mao Trạch Đông là sản phẩm của sự kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng cụ thể. Đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch đã tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài với các đường lối cơ hội "Cánh tả" và Cánh hữu. Trong một thời gian, đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch không thống trị. Cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, kinh nghiệm thành công và bài học thất bại, đã chứng minh đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch là đúng đắn, trong khi đường lối cơ hội "Tả" và Hữu là sai. Tiêu chuẩn là gì? Chỉ có một: tập quán xã hội của hàng triệu người.

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác

Có đồng chí lo lắng lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý sẽ làm giảm ý nghĩa của lý luận. Lo lắng này là không cần thiết. Tất cả các lý thuyết khoa học không sợ kiểm tra thực hành. Ngược lại, chỉ bằng cách coi thực tiễn là tiêu chí duy nhất để kiểm tra sự thật, khoa học giả và lý thuyết giả mới có thể được tiết lộ ở dạng ban đầu, từ đó bảo vệ khoa học và lý thuyết thực sự. Điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà “Bộ tứ băng đảng” đã rất nhầm lẫn.

Xuất phát từ nhu cầu phản cách mạng để cướp đảng và nắm chính quyền, "Bè lũ bốn tên" chủ trương đủ loại chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm và phản đối thực tiễn là tiêu chí để kiểm nghiệm chân lý. Ví dụ, họ bịa ra “thuyết thiên tài”, bịa đặt thuyết “độc tài đường đen” về văn học, nghệ thuật, giáo dục và các mặt trận khác, bịa đặt “quy tắc” cán bộ lão thành là dân chủ, dân chủ nhất định sẽ trở thành kẻ lót đường cho tư bản chủ nghĩa, vô nghĩa. "quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa" Là sự ngụy biện về cơ sở kinh tế để sản sinh ra những phần tử tư sản mới", sự phi lý của những cuộc đấu tranh Nho giáo - Pháp gia hư cấu vẫn tiếp tục cho đến nay, v.v. Tất cả những thứ này từng được coi là cái gọi là “lý thuyết” thiêng liêng bất khả xâm phạm, ai chống lại chúng sẽ bị coi là chống chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, những ngụy biện đủ loại này hoàn toàn không thể đứng vững trước thử thách của thực tiễn cách mạng, cùng với “tiêu chuẩn của sự thật” do “Bộ tứ băng đảng” thiết lập, chúng từng cái một vỡ tung như bong bóng xà phòng. Sự thật này chứng tỏ một cách hùng hồn rằng sự khoác lác của họ không thể chứng minh sự thật, tuyên truyền đại trà không thể chứng minh sự thật, và quyền lực không thể chứng minh sự thật. Họ tự xưng là “chính quyền” của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Mao Trạch Đông, nhưng thực tiễn đã chứng minh họ là những kẻ dối trá chính trị, chống lại Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Mao Trạch Đông.

Sở dĩ Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Mao Trạch Đông có sức mạnh chính là vì chúng là chân lý khách quan đã được thực tiễn kiểm nghiệm, chính là vì chúng đã tổng kết cao độ kinh nghiệm thực tiễn, biến nó thành lý luận, lấy nó làm chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy, chúng ta phải hết sức coi trọng lý luận cách mạng. Lênin chỉ rõ: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng” [Tuyển tập của Lênin, tập 1, tr. 241] Sở dĩ lý luận có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó xuất phát từ thực tiễn và có thể hướng dẫn thực tiễn một cách đúng đắn hay không. tập luyện được hướng dẫn đúng và cách hướng dẫn tập luyện đúng không thể tách rời kiểm tra thực hành. Không nắm được bản chất tinh thần này thì không thể thực sự đóng vai trò của lý thuyết.

Có đồng chí nói phê bình chủ nghĩa xét lại không phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông để đo lường, để chứng minh chủ nghĩa xét lại là sai sao? Chúng tôi nói đúng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông là vũ khí sắc bén của chúng tôi để phê phán chủ nghĩa xét lại, đồng thời cũng là cơ sở lập luận của chúng tôi. Chúng ta lấy những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông để phê phán chủ nghĩa xét lại, những nguyên lý cơ bản này đã được Mác, Ăngghen, Lênin, Xri Lanca, Mao Chủ tịch đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh cách mạng, đã được chứng minh từ lâu - thực tiễn là những sự thật phũ phàng; nhưng đồng thời khi sử dụng những nguyên tắc này để phê phán chủ nghĩa xét lại, chúng ta vẫn không thể xa rời thực tiễn hiện tại [và quá khứ], chỉ có xuất phát từ kinh nghiệm thực tế thì những nguyên tắc này mới có sức sống mãnh liệt; những lời chỉ trích của chúng tôi chỉ có thể được kết hợp với một số lượng lớn các phân tích thực tế, để có sức thuyết phục. Chủ nghĩa xét lại không thể bị bác bỏ một cách dứt khoát nếu không nghiên cứu kinh nghiệm thực tế và rút ra từ kinh nghiệm thực tế.

Thế giới khách quan không ngừng phát triển, và thực tiễn không ngừng phát triển. Sự vật mới, vấn đề mới lần lượt xuất hiện, đòi hỏi phải nghiên cứu sự vật mới, vấn đề mới dưới sự chỉ đạo của những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác, không ngừng đưa ra những khái quát mới, phát triển lý luận. Kiểm tra xem những khái quát lý thuyết mới này có đúng không? Nó chỉ có thể được thử nghiệm trong thực tế. Ví dụ, học thuyết của Lênin cho rằng từng nước hoặc một số ít nước có thể giành thắng lợi trong cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại chủ nghĩa đế quốc là một kết luận mới, kết luận này có đúng hay không thì lý luận chung của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa tư bản không thể kiểm chứng được. của chủ nghĩa đế quốc Thực tiễn Chiến tranh thế giới thứ nhất và Cách mạng Tháng Mười có thể chứng minh học thuyết của Lênin là đúng.

Mao Chủ tịch nói: “Lý luận và thực tiễn thống nhất là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác”. [Tác phẩm chọn lọc của Mao Trạch Đông, Tập 5, trang 297] Tuân thủ thực tiễn là tiêu chí duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, có nghĩa là tuân thủ chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Người thầy cách mạng là tấm gương kiên định lấy thực tiễn kiểm nghiệm chân lý

Người thầy cách mạng không chỉ đề xuất lấy thực tiễn là tiêu chí duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, mà còn nêu gương sáng về việc lấy thực tiễn để kiểm nghiệm mọi lý thuyết, kể cả lý luận do mình đề xuất. Thái độ của Mác và Ăng-ghen đối với văn kiện khoa học nổi tiếng của chủ nghĩa Mác mà họ cùng soạn thảo, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, là một ví dụ sinh động trong nhiều trường hợp. Bốn mươi lăm năm sau khi Tuyên ngôn được xuất bản năm 1848, Marx và Engels đã thử nghiệm nó trong thực tế. Bảy lời mở đầu của Tuyên ngôn ghi lại sự kiện này một cách chi tiết. Trước hết, Mác và Ăng-ghen chỉ rõ: “Hai mươi lăm năm qua, dù tình hình có thay đổi đến đâu, thì những nguyên tắc cơ bản chung được nêu trong “Tuyên ngôn” này cho đến nay vẫn hoàn toàn đúng đắn”. thời gian, họ cũng chỉ ra rằng, "Việc áp dụng thực tế những nguyên tắc cơ bản này, như đã nêu trong "Tuyên ngôn", phải được thay đổi bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào theo điều kiện lịch sử lúc bấy giờ" ["Những tác phẩm chọn lọc của Các Mác" và Engels", Tập 1, tr. 228] Marx và Engels dựa trên thực tiễn mới Việc liên tục kiểm tra Tuyên ngôn, bao gồm cả việc phát hiện ra những sự thật lịch sử mới, đã sửa đổi những điểm riêng lẻ của Tuyên ngôn. Ví dụ, câu đầu tiên của Chương 1 của Tuyên ngôn viết: "Lịch sử của tất cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp". Engels đã thêm một ghi chú vào bản tiếng Anh của "Tuyên ngôn" năm 1888, "Nói chính xác, điều này đề cập đến lịch sử có ghi chép." Tuyên ngôn được công bố, người ta hiểu rõ hơn về tiền sử của xã hội, nhất là sự điều tra, nghiên cứu của Morgan chứng minh rằng trước khi có xã hội có giai cấp, đã có một xã hội phi giai cấp rất lâu, sản phẩm của giai cấp không phải lúc nào cũng có. Có thể thấy, nói “lịch sử của mọi xã hội là lịch sử đấu tranh giai cấp” là không chính xác. Engels đã đưa ra lời giải thích này dựa trên những sự thật lịch sử mới được phát hiện và sửa đổi cách trình bày cũ trong Tuyên ngôn. Có một tuyên bố khác trong "Tuyên ngôn" rằng giai cấp vô sản sẽ sử dụng cách mạng bạo lực để giành chính quyền và lật đổ giai cấp tư sản. Năm 1872, trong lời nói đầu cuối cùng do hai nhà cách mạng đồng ký tên, họ đã nêu rõ: “Vì đại công nghiệp đã phát triển vượt bậc trong hai mươi lăm năm qua và các tổ chức đảng chính trị của giai cấp công nhân cũng phát triển tương ứng, vì Trước hết với kinh nghiệm thực tiễn của Cách mạng Tháng Hai, sau đó nhất là với kinh nghiệm thực tế của Công xã Pa-ri, trong đó giai cấp vô sản mới lên cầm quyền được hai tháng, cương lĩnh ấy hiện nay đã có phần lạc hậu. : 'Giai cấp công nhân không thể chỉ nắm lấy bộ máy nhà nước đã làm sẵn và sử dụng nó để đạt được những mục đích riêng của mình.'" [Tuyển tập của Mác và Ăng-ghen, Tập 1, tr. 229] Lênin rất coi trọng cách giải thích này của Mác và Ăng-ghen. Engels.Nó được coi là một "sửa đổi quan trọng" đối với "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". ["Những tác phẩm chọn lọc của Lênin", Tập III, trang 201]

Như Chủ tịch Hứa đã chỉ ra: "Mao Chủ tịch luôn có thái độ cực kỳ nghiêm túc và thận trọng đối với các vấn đề tư tưởng và lý luận. Ông ấy luôn để các tác phẩm của mình vượt qua khảo nghiệm thực tiễn trong một thời gian trước khi biên soạn tuyển tập của mình." Mao Chủ tịch luôn yêu cầu nghiêm ngặt rằng lý luận và đường lối do ông đề xuất phải được thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm không ngừng. Khi Mao Chủ tịch biên tập cuốn sách "Sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội ở nông thôn Trung Quốc" vào năm 1955, ông đã viết 104 ghi chú. Khi đó, tình hình mới của cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong và ngoài nước sau năm 1956 không lường trước được. Do đó, khi in lại một số ghi chú vào năm 1958, Mao Chủ tịch đã viết một ghi chú đặc biệt, chỉ ra rằng những ghi chú này "một số ghi chú vẫn chưa mất đi ý nghĩa. Nói rằng năm 1955 là năm thắng lợi cơ bản trong trận chiến quyết định là không phù hợp." của chủ nghĩa cộng sản. Có thể nói, năm 1955 là năm giành được thắng lợi cơ bản về quan hệ sản xuất, trên các mặt khác của quan hệ sản xuất và một số mặt của kiến ​​trúc thượng tầng, cụ thể là trên mặt trận tư tưởng và chính trị, chưa có thắng lợi cơ bản nào đã đạt được, hoặc chưa đạt được thắng lợi hoàn toàn, và vẫn còn phải nỗ lực trong tương lai.” [Tác phẩm chọn lọc của Mao Trạch Đông, Tập V, trang 225]

Thái độ khoa học nghiêm túc của người thầy cách mạng tôn trọng thực tiễn đã đem lại cho chúng tôi một nền giáo dục tuyệt vời. Họ không cho rằng lý thuyết họ đưa ra là chân lý tuyệt đối hay “đỉnh cao” đã hoàn thiện và không thể kiểm chứng bằng thực tiễn; tùy từng trường hợp mà kết luận. Họ luôn lấy thực tiễn để kiểm nghiệm lý thuyết, kết luận và chỉ đạo của mình, kiên định với sự thật, sửa chữa sai lầm, tôn trọng thực tiễn, tôn trọng quần chúng và không có thành kiến. Họ không bao giờ cho phép người khác tôn thờ lời nói của họ như là "Kinh thánh". Rõ ràng, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác phải được giữ vững, không được lung lay; tuy nhiên, kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác không phải là một mớ giáo điều cứng nhắc, bất biến mà phải không ngừng được tăng cường trong thực tiễn. Quan điểm mới, kết luận mới, loại bỏ những quan điểm cũ cá nhân, những kết luận cũ không còn phù hợp với tình hình mới. Về triết học, Mao Chủ tịch từng nói: Hiện nay chúng ta đã bước vào thời đại chủ nghĩa xã hội, hàng loạt vấn đề mới nảy sinh, nếu chỉ có một số tác phẩm triết học nguyên bản không đáp ứng được nhu cầu mới thì sẽ viết ra những tác phẩm mới để hình thành. ý tưởng mới, lý thuyết, điều đó sẽ không hiệu quả. Quan điểm thực tiễn và đời sống là quan điểm chủ yếu và cơ bản của nhận thức luận. Cây tu tập và đời sống luôn xanh tốt. Chính quan điểm duy vật biện chứng của người thầy cách mạng đã khẳng định thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, bảo đảm cho chủ nghĩa Mác không ngừng phát triển và giữ mãi tuổi trẻ của nó.

Lý thuyết nào cũng phải thường xuyên được kiểm nghiệm bằng thực tiễn

Chúng ta không chỉ thừa nhận thực tiễn là tiêu chí của chân lý mà còn nhìn tiêu chí thực tiễn từ quan điểm của sự phát triển. Thực tiễn không ngừng phát triển nên với tư cách là một tiêu chí để kiểm nghiệm chân lý, nó vừa có ý nghĩa tuyệt đối vừa có ý nghĩa tương đối. Mọi tư tưởng và lý luận đều phải được thực tiễn kiểm nghiệm thì nó là tuyệt đối và vô điều kiện; còn chừng nào thực tiễn còn có những hạn chế ở một giai đoạn phát triển nhất định thì mọi tư tưởng và lý luận không thể hoàn toàn khẳng định hoặc bác bỏ hoàn toàn một cách vô điều kiện. về quan điểm, nó là tương đối và có điều kiện, tuy nhiên, thực tiễn trong tương lai cuối cùng sẽ trả lời những câu hỏi mà thực tiễn ngày nay không thể trả lời.Theo quan điểm này, nó là tuyệt đối. Lênin nói: "Tất nhiên, ở đây không được quên: tiêu chuẩn thực tiễn không bao giờ có thể hoàn toàn khẳng định hay bác bỏ hoàn toàn bất kỳ biểu hiện nào của con người về bản chất. Tiêu chuẩn này cũng rất 'bất định', để không làm cho tri thức của con người trở thành 'tuyệt đối'". , Đồng thời, nó quyết tâm tiến hành một cuộc đấu tranh tàn nhẫn chống lại tất cả các loại chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri.” [Tác phẩm chọn lọc của Lênin, Tập II, tr. 142]

Quan điểm nhận thức luận duy vật biện chứng về sự thống nhất biện chứng giữa tính tuyệt đối và tính tương đối của các tiêu chuẩn thực tiễn là quan điểm cho rằng bất kỳ tư tưởng, lý luận nào cũng phải được thực tiễn kiểm nghiệm không có ngoại lệ, mãi mãi, không ngừng, tức là quan điểm về sự phát triển của chân lý. Mọi tư tưởng, lý luận dù đã được thực tiễn chứng minh là đúng ở một giai đoạn nào đó thì cũng cần phải được thực tiễn kiểm nghiệm mới bổ sung, làm phong phú, sửa chữa trong quá trình phát triển. Mao Chủ tịch chỉ ra: "Lịch sử nhận thức của nhân loại cho chúng ta biết rằng sự thật của nhiều lý thuyết là không đầy đủ, và sự không hoàn chỉnh của chúng đã được sửa chữa thông qua kiểm tra thực tiễn. Nhiều lý thuyết sai, và sai lầm của chúng đã được sửa chữa thông qua kiểm tra thực tiễn Người cũng chỉ rõ: "Sự vận động biến đổi của thế giới hiện thực khách quan không bao giờ chấm dứt, sự hiểu biết của con người về chân lý trong thực tiễn cũng không bao giờ chấm dứt. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chấm dứt chân lý, mà không ngừng mở ra con đường nhận thức chân lý trong thực tiễn ." ["Về thực tiễn"] Chủ nghĩa Mác nhấn mạnh rằng thực tiễn là tiêu chí để kiểm tra chân lý, nhấn mạnh rằng sự hiểu biết về chân lý trong thực tiễn là không bao giờ đầy đủ, tức là thừa nhận rằng tri thức của chúng ta không thể hoàn thiện ngay một lúc hay cuối cùng, và nó là phải thừa nhận rằng do hạn chế về lịch sử và giai cấp, sự hiểu biết của chúng ta có thể có những sai lầm, điều này cần được kiểm chứng bằng thực tiễn và những gì đã được chứng minh là sai, không đúng với thực tế thì nên thay đổi, không nên cố chấp. Trong thực tế, những thay đổi như vậy là phổ biến. Mao Chủ tịch nói: “Lãnh đạo cách mạng chân chính không chỉ giỏi sửa chữa những sai lầm trong tư tưởng, lý luận, kế hoạch, chương trình của mình” mà còn phải biết sửa chữa khi một quá trình khách quan nhất định đã qua một giai đoạn. chuyển sang giai đoạn phát triển khác, phải làm tốt việc thay đổi nhận thức chủ quan của mình và của mọi cán bộ tham gia cách mạng, tức là phải đề ra những nhiệm vụ cách mạng mới, kế hoạch công tác mới phù hợp với tình hình mới" [ "Thực hành"] Lâm Bưu và "Bè lũ bốn tên" nhằm cướp đảng đoạt quyền, những điều vô nghĩa như "một câu đáng giá vạn câu" và "mỗi câu đều là sự thật". Thực tiễn đã chứng minh rằng những gì họ nói chắc chắn không phải là sự thật của Tư tưởng Mao Trạch Đông, mà là sự ngụy biện mà họ giả vờ là Tư tưởng Mao Trạch Đông.

Giờ đây, "Bộ tứ băng đảng" và hệ thống băng đảng tư sản của nó đã bị tiêu diệt, nhưng xiềng xích tinh thần do "Bộ tứ băng đảng" áp đặt lên người dân còn lâu mới bị đập tan hoàn toàn. Xu hướng mà Mao Chủ tịch từng chỉ trích trong Nội chiến Cách mạng lần thứ hai rằng "chỉ những gì được viết trong Kinh thánh là đúng" ["Về chiến thuật chống lại chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản"] vẫn còn tồn tại. Dù trên lý thuyết hay thực tế công việc, “Bộ tứ” đặt ra nhiều “vùng cấm” giam cầm tư duy con người, chúng ta phải dám đụng đến những “vùng cấm” này, dám làm rõ đúng sai. Khoa học biết không có giới hạn. Ở đâu có “vùng cấm” vượt lên trên thực tiễn và bị coi là tuyệt đối, ở đó không có khoa học, không có chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông thực sự, mà chỉ có chủ nghĩa ngu dân, duy tâm và chuyên quyền văn hóa.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đã xác định nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân cả nước trong thời kỳ phát triển mới của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với chúng ta, chủ nghĩa xã hội vẫn là một vương quốc tất yếu chưa được thừa nhận ở nhiều nơi. Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn này, chúng ta đứng trước nhiều vấn đề mới, đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu, nghiên cứu, dựa vào những quy định sẵn có của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, thậm chí vận dụng những công thức có sẵn để hạn chế, triệt hạ, và điều chỉnh sự giàu có vô hạn và sự phát triển nhanh chóng Thái độ này là sai lầm. Chúng ta phải có tinh thần trách nhiệm và dũng khí của người cộng sản, dũng cảm nghiên cứu thực tiễn sinh động, nghiên cứu đúng sự thật của thực tiễn, nghiên cứu những vấn đề mới đặt ra trong thực tiễn mới. Chỉ có như vậy mới có thái độ đúng đắn đối với chủ nghĩa Mác, chúng ta mới có thể từng bước chuyển từ địa hạt tất yếu sang địa hạt tự do, thực hiện thắng lợi cuộc trường chinh vĩ đại mới.

Chủ Đề