Tranh Hàng Trống bán ở đâu

Tranh Hàng Trống một trong những dòng tranh dân gian Việt Nam được làm chủ yếu tại phố Hàng Nón, Hàng Trống của Hà Nội xưa. Hàng Trống xưa kia thuộc đất cũ của thôn Tự Tháp, tổng Tiền Túc [sau đổi thành Thuận Mỹ], huyện Thọ Xương, nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phố Hàng Trống nằm kề các phố Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt... là nơi chuyên sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ nhất là đồ thờ như: tranh thờ, trống, quạt, lọng, cờ... Dòng tranh này hiện nay gần như đã bị mai một hết, chỉ còn lưu giữ trong các viện bảo tàng. Chính vì vậy, những nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống giảm hẳn. Hiện, chỉ còn duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên còn gắn bó với nghệ thuật tranh Hàng Trống và những nét tinh hoa của dòng tranh đó

Tranh thờ Ngũ Hổ

Dòng tranh này cũng như các dòng tranh phổ biến khác đều có hai dòng tranh chính là tranh thờ và tranh Tết. Nhưng chủ yếu là tranh thờ dùng trong sinh hoạt tín ngưỡng phục vụ đền phủ của Đạo giáo nhất là tranh thờ của Đạo Mẫu [Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy, Nam Định], như tranh Tứ Phủ cộng đồng, Bà chúa thượng ngàn, Mẫu Thoải, Ngũ Hổ, Ông Hoàng cưỡi cá, cưỡi ngựa, cưỡi rắn, Ông Hoàng Mười, Bà Chúa Ba, Đức Thánh Trần... rất đẹp. Loại tranh này thường được các cụ chạm bằng vàng hay bạc thật dát mỏng. Tranh Tết thì Chúc phúc, Tứ quý,...

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có lẽ dòng tranh Hàng Trống xuất hiện từ khoảng thế kỷ 16 và thịnh nhất vào khoảng cuối thế 19, đầu thế kỷ 20 và sau đó dần suy tàn. Và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn hoá, tôn giáo, của vùng miền, các dân. Là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo, Nho giáo; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình chùa với những nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá hằng ngày.

Dòng tranh Hàng Trống thực sự phát triển cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhưng tới thế kỷ 20 dòng tranh này bắt đầu suy tàn, nhất là kể từ sau kết thúc kháng chiến chống Mỹ hầu như các nhà làm tranh đều giải nghệ. Nhiều nhà làm tranh còn đốt bỏ hết những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc, một phần do thú chơi tranh của người Hà Nội đã đổi khác, một phần do việc làm tranh không có thu nhập cao nên nhiều người đã chuyển nghề.

 

Tứ bình tranh tố nữ

Tranh Hàng Trống sử dụng kỹ thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in ván nét lấy hình, còn màu là thuốc nước, tô bằng bút lông mềm rộng bản, một nửa ngọn bút chấm màu, còn nửa ngọn bút kia chấm nước lã, tô tranh theo kỹ thuật vờn màu.

Tranh chỉ có một bản đen đầu tiên, sau khi in thì tranh được tô màu lại bằng tay. Từ các bản khắc gốc, những bức tranh đã được in ra, bằng mực Tàu mài nguyên chất. Sau đó là công đoạn bồi giấy. Tùy thuộc từng tranh cụ thể mà có tranh chỉ bồi một lớp, có tranh lại phải bồi đến 2 hay 3 lớp giấy. Khi hồ đã khô thì mới có thể vẽ màu lại. Có khi phải mất đến 3, 4 ngày mới hoàn thành một bức tranh.

Tranh được in trên giấy dó bồi dày hay giấy báo khổ rộng. Có những tranh bộ khổ to và dài, thường bồi dày, hai đầu trên dưới lồng suốt trục để tiện treo, phù hợp với kiểu kiến trúc nhà cao, cửa rộng nơi thành thị.

Ván khắc được làm bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống dùng bằng những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác.

Màu sắc và cách tạo màu

 

Tranh thờ Hoàng Hổ [Hổ vàng]

Tranh dùng các gam màu chủ yếu là lam, hồng đôi khi có thêm lục, đỏ, da cam, vàng... Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ để cho thật thuận mắt và ưa nhìn.

Tranh Hàng Trống được tô màu bằng bút lông và phẩm nhuộm nên màu sắc đậm đà hơn tranh Đông Hồ.

Đề tài nội dung và thể thức tranh

Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếu là tranh thờ như: Hương chủ, Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông Hoàng Bảy, Phật Bà Quan Âm... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như các bộ Tứ Bình [4 bức] hoặc Nhị bình [2 bức]. Tứ bình thì có thể là tranh Tố nữ, Tứ dân [ngư, tiều, canh, mục] hoặc Tứ quý [Bốn mùa]. Tứ bình còn có thể trình bày theo thể liên hoàn rút từ các truyện tích như Nhị độ mai, Thạch Sanh, Truyện Kiều. Nhị bình thì vẽ những đề tài như "Lý ngư vọng nguyệt" [Cá chép trông trăng] hoặc "Chim công múa" có tính cách cầu phúc, thái bình. Những bức về đề tài dân dã như cảnh "Chợ quê" hay "Canh nông chi đồ" cũng thuộc loại tranh Hàng Trống.

  • Tranh Đông Hồ
  • Tranh Kim Hoàng

  • Bao giờ Tranh Hàng Trống mới về với phố Hàng Trống

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tranh_Hàng_Trống&oldid=68129812”

Tranh Hàng Trống

Thy Vân

14:20 15/11/2016

Cùng với tranh Đông Hồ [Bắc Ninh], tranh Hàng Trống [Hà Nội] đã góp phần quan trọng tạo nên nét độc đáo của tranh dân gian Việt Nam.

Nghệ nhân Lê Đình Nghiên.

1. Ông Lê Đình Nghiên hiện là nghệ nhân duy nhất đang làm tranh Hàng Trống. Ông sinh ra trong dòng họ Lê Đình có nhiều người làm tranh nổi tiếng của đất Kinh kỳ Thăng Long. Ông nội của ông Nghiên còn có tiếng và có một cửa hàng tranh rất lớn ở phố Hàng Hòm [Hà Nội]. Sau khi ông cụ mất, nghề làm tranh được truyền lại cho bố ông Nghiên, rồi bây giờ ông Nghiên đang tiếp bước.

Hiện nghệ nhân Lê Đình Nghiên tuổi đã cao, nhưng vẫn cặm cụi bồi giấy, vẽ tranh Hàng Trống tại nhà riêng ở số 22 Cửa Đông, Hà Nội. Ông Nghiên cho biết, ngày xưa, phố Hàng Trống bán rất nhiều tranh, đồng thời trên phố này trước đây cũng có nhiều người làm tranh. Bên cạnh đó, tranh Hàng Trống cũng được làm ở các phố Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt [Hà Nội].

Tìm hiểu về nguồn gốc tranh Hàng Trống, PGSTS Trương Quốc Bình- Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia cho rằng, có nhiều ý kiến khác nhau về thời điểm ra đời của dòng tranh dân gian Hàng Trống.

Nhưng nhìn chung những thông tin này cho thấy dòng tranh này ra đời vào thế kỉ XVI, chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn hoá, tôn giáo của các vùng miền, các dân tộc.

Tranh Hàng Trống chủ yếu có 2 loại: đó là tranh treo Tết và tranh thờ với những đề tài phong phú, nội dung nói về cảnh sinh hoạt, chúc tụng, hay kể lại những tích truyện nổi tiếng...

Vào những năm 1970, khi đất nước có chiến tranh, cuộc sống khó khăn cũng là lúc tranh Hàng Trống đi vào chỗ bế tắc. Tranh làm ra không bán được, rất nhiều gia đình làm tranh bỏ nghề.

Nghệ nhân Lê Đình Nghiên từng chứng kiến việc người ta bán đi những bản khắc tranh quý với giá rẻ mạt, thậm chí làm củi đun. Lúc ấy, tuy rất khó khăn, nhưng ông cùng gia đình đã giữ lại được tới vài trăm bức tranh mẫu và khá nhiều ván khắc của ông nội để lại.

Ông xót xa vì có nhiều mẫu tranh quý đã không còn vì với những bức tranh Hàng Trống để thờ, sau khi thờ cúng xong, gia chủ thường hóa [đốt] tranh cũ đi cho đúng với tín ngưỡng của người Việt Nam.

Bán tranh Hàng Trống trên phố Hà Nội thuở trước - Ảnh: Hữu Cấy.

2.Khác tranh dân gian Đông Hồ dùng lối in sấp, bức tranh bao nhiêu màu thì bấy nhiêu lượt in là hoàn thành bức tranh; tranh dân gian Hàng Trống vừa in vừa vẽ.

Cụ thể, ván khắc tranh Hàng Trống chỉ có bản nét, còn màu thì phải vẽ tay toàn bộ. Chính vì thế mà ván khắc phải làm cẩn thận hơn. Để có ván khắc thì phải có mẫu tranh, các mẫu tranh do nghệ nhân đảm nhiệm, gọi là “ra mẫu”.

Người “ra mẫu” tranh thường là người giỏi nhất của từng nhóm thợ, có sự tinh tế, giàu kinh nghiệm. Người vẽ mẫu cũng là người đặt lời trên tranh. Chữ trên tranh phải đạt mức: làm rõ nghĩa của tranh, làm cân đối thêm bố cục tác phẩm, mà không bị rườm rà.

Có mẫu tranh phải sáng tác hàng tháng mới xong. Cùng một mẫu nhưng có thể có nhiều khuôn khổ to, nhỏ khác hẳn. Tuy vậy, theo nghệ nhân trẻ Lê Hoàn- con trai nghệ nhân Lê Đình Nghiên, thường những bức tranh được nhiều người ưa chuộng mới có ván khắc.Vì ngày xưa làm ván khắc khá tốn kém, nên không phải gia đình làm tranh nào cũng có thể đầu tư làm.

Với những bức tranh ít người mua thì thường phải làm thủ công [thông qua bản can] hết sức cầu kỳ. Cũng bởi lý do ấy, tranh Hàng Trống khá đa dạng về kích thước.

Tiếp sau đó đến công đoạn bồi tranh. Đây là một khâu quan trọng, sự thành công, giúp bức tranh treo được lâu phụ thuộc khs nhiều ở công đoạn này.

PGSTS Trương Quốc Bình cho biết, tranh Hàng Trống được in trên giấy dó bồi dày hay giấy báo khổ rộng. Có những tranh khổ to và dài thường bồi dày, 2 đầu trên- dưới lồng suốt trục để tiện treo, phù hợp với kiến trúc kiểu nhà cao, cửa rộng nơi thành thị. Ván khắc gỗ được làm bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống được in bằng những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác.

Còn về màu sắc và cách tạo màu, tranh Hàng Trống ngày dùng chủ yếu là các gam màu: lam, lục, đỏ, da cam… Tỷ lệ tạo không theo công thức chuẩn mực nào mà chỉ để cho thuận mắt và ưa nhìn.

Ngày xưa, màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kĩ; màu vàng từ hoa hoè; màu chàm của các nguyên liệu từ núi rừng; màu son của sỏi đồi tán nhuyễn…

Những màu sắc ấy được pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh một vẻ óng ả và trong trẻo mà các màu hiện đại không thể nào có được.

Đặc biệt, tranh dân gian Hàng Trống độc đáo chủ yếu ở kỹ thuật tô màu, mà thuật ngữ chuyên môn gọi là “cản màu”. Chỉ với chiếc bút lông nhưng những nghệ nhân Hàng Trống đã tạo nên độ đậm nhạt khác nhau của từng nét vẽ, từng gam màu.

Mỗi bức tranh dù cùng thể hiện một đề tài nhưng chưa bao giờ giống hệt nhau cả. Điều này đã tạo nên bố cục, nhịp điệu tranh vô cùng sinh động và đa dạng, nhân vật trong tranh sống động, linh hoạt và không hề tẻ nhạt.

Các nghệ nhân Hàng Trống có kỹ thuật pha màu [vờn màu] hết sức đặc biệt, chủ yếu là dùng màu sắc tự nhiên thanh và nhẹ, phù hợp với thị hiếu của người Hà Nội.

Bên cạnh đó, các nghệ nhân tranh Hàng Trống còn tỉa thêm nhiều nét nhũ vàng hay bạc, tạo ra các nhấn nhá long lanh hay các hoa văn có vẻ quý phái. Nhiều ý kiến đánh giá: Lạ nhất là các mảng mây cuộn trong các tranh thờ của Hàng Trống.

Đó là các khối mây nhiều lớp được cản màu đến độ hoàn hảo, vẽ tay mà nét như in! Đặc biệt hơn, tất cả các nét mây đều được vờn: bên đậm, bên nhạt rồi xếp lớp liên tiếp, tạo ra các tầng mây đẹp diệu kỳ.

Một số họa sĩ đi trước từng kể lại: thời đầu thế kỷ XX, nghệ nhân Hàng Trống còn biểu diễn vẽ mây một lúc 2 tay bằng 2 miếng cau khô đập dập đầu cho tưa sợi ra, nhúng màu và nước sạch 2 góc đối lập rồi lần lượt “xoay” đều 2 bên góc trên tranh, chỉ loáng cái đã tạo ra 2 đám mây gần như đối xứng. Điều đó nói lên sự tài hoa, tinh tế của nghệ nhân tranh Hàng Trống thuở trước…

3 bức tranh dân gian Hàng Trống.

3. Có thể nói, tranh Hàng Trống đã góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển nghề làm tranh dân gian, làm cho nghề làm tranh truyền thống Việt Nam trở nên phong phú, đặc sắc và phồn thịnh một thời. Những sản phẩm nghệ thuật mang đậm bản sắc của các dòng tranh dân gian Việt Nam từ lâu đã rất nổi tiếng không chỉ ở trong nước, mà còn được nhiều nước trên thế giới biết đến.

Tranh dân gian Hàng Trống là dòng tranh nổi tiếng của người Hà Nội, hiện nay còn giữ được khá nhiều mẫu mã, trong đó có hàng trăm ván khắc. Công chúng có thể dễ dàng bắt gặp tranh Hàng Trống ở các đền, miếu, điện thờ, trong các bộ sưu tập tranh của các tư nhân và nhiều bảo tàng trong nước và trên thế giới.

Chủ đề: tranh hàng trống tranh cổ Lê Đình Nghiên

Video liên quan

Chủ Đề