Trước phật thích ca là ai

Theo kinh điển, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã hai lần hạ thế từ cung trời Đâu Suất. Lần đầu tiên, trong sắc tướng một con voi trắng, Ngài nhập mẫu thai ở thành Ca-tì-la-vệ. Nhiều năm sau, trải qua ba tháng an trú ở cõi Thiên, Ngài đã hạ thế trở lại ở Sanchi trong sự cung tiễn của vô số Thiên tử và Thiên nữ. Ngày nay, cả hai địa danh này đều trở thành Thánh địa hành hương thu hút hàng triệu Phật tử từ khắp nơi trên thế giới tới triều bái.

Trước khi hạ sinh cõi Ta bà này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni an trụ ở cung trời Đâu Suất [Gadhen Lhayul, cõi Trời Hỷ Lạc], sống trong cảnh giới vô cùng an vui, thanh tịnh. Ở đây, Ngài có Hồng danh là Bồ tát Hộ Minh [tiếng Tạng là Lhayi DampaTogkarpo] và Ngài thường giảng pháp giáo hóa chư Thiên. Ngài được tôn vinh là bậc Nhiếp Chính của Đức Phật Ca Diếp đời trước, sau khi Đức Phật Ca Diếp hạ sinh vào cõi Người, trong thời thọ mạng của con người còn kéo dài khoảng hai mươi nghìn năm.

Đâu Suất là cõi Tịnh độ nơi Đức Phật tương lai, Phật Di Lặc, hiện là bậc Thiên chủ đang thuyết Pháp. Đó là một trong sáu cõi Dục giới của chư Thiên, cũng là nơi an trú của chư vị Bồ Tát chỉ còn phải tái sinh một lần cuối cùng trước khi thành tựu Phật quả.


Đức Phật thuyết giảng Vi Diệu pháp độ cho mẫu thân là hoàng hậu Ma Da

Bảy năm sau khi thành tựu Giác ngộ, khi Đức Phật 42 tuổi, Ngài đã trở lại cõi trời Đâu Suất – nơi mẫu thân Ma Da của Ngài tái sinh, để giảng khai thị giáo pháp cho mẹ. Để đền đáp lòng từ ái và giải thoát mẹ khỏi vòng luân hồi, Đức Phật đã dành cả ba tháng hè ở cõi trời Đâu Suất để ban trải giáo pháp giải thoát. Trong suốt ba tháng này, Đức Phật hoàn toàn biến mất khỏi cõi người, khiến cho các thí chủ, các vị vua cũng như chúng đệ tử của Ngài cảm thấy vô cùng trống rỗng, cạn kiệt nguồn cảm hứng và ân phúc gia trì. Họ nôn nóng muốn biết Đức Phật đã đi đâu nên thỉnh cầu Ngài Mục Kiền Liên dùng phép thần thông của mình đi tìm Đức Phật ở tất cả các cõi.

Ngài Mục Kiền Liên đã đi khắp các cõi và cuối cùng tìm thấy Đức Phật đang giảng Pháp cho mẫu thân ở cung trời Đâu Suất. Ngài Mục Kiền Liên thỉnh cầu Đức Phật quay lại cõi người. Cho tới nay, ngày 20 tháng 9 âm lịch luôn được coi là một ngày cát tường [gọi là ngày Lhabab Duechen] nhằm tưởng niệm ngày vía Đức Phật hạ thế từ cõi trời Đâu Suất.

Giấc mơ của Hoàng hậu Ma Da

Trên thực tế, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã hai lần hạ thế. Lần đầu tiên, trong sắc tướng một con voi trắng, Ngài nhập vào mẫu thai ở thành Ca-tì-la-vệ. Nhiều năm sau, trải qua ba tháng an trú ở cõi Thiên, Ngài đã hạ thế trở lại ở Sanchi trong sự cung tiễn của vô số Thiên tử và Thiên nữ. Ngày nay, cả hai địa danh này đều trở thành Thánh địa hành hương thu hút hàng triệu Phật tử từ khắp nơi trên thế giới tới triều bái.

Thời kỳ đầu, khi mới giáng thế vào cõi Trời Đâu Suất, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luôn trăn trở vì lý do gì Ngài nên trụ thế ở Thiên giới và trong bao lâu, bởi lẽ ở cõi này mọi thứ đều vô cùng đầy đủ và sung túc, cuộc sống nơi đó chỉ mang lại niềm an vui và hỷ lạc cho riêng Ngài hoặc cho chư Thiên vốn đã được thụ hưởng đời sống an lạc và trường thọ. Sau một thời gian, Ngài quyết định từ bỏ ngôi vị Thiên chủ cũng như vai trò bậc Thầy thuyết Pháp tại cõi Thiên, trao lại ngôi vị và sứ mệnh này cho Bồ Tát Di Lặc. Đức Phật quyết định hạ thế để chỉ bày cho loài người giáo pháp giải thoát khỏi Bát khổ, tích lũy công đức nhờ thực hành Thập thiện, dạy cho chúng sinh biết trì giữ những giới căn bản để có thể chuyển hóa bản thân và hướng họ trở thành những Phật tử chân chính trên con đường Chính Pháp.

Đấng Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương và các chư thiên ở cung trời Đâu Suất thỉnh cầu Đức Phật tái thế để giáo hoá và cứu độ chúng sinh ở cõi Ta Bà

Vẫn khắc ghi lời nguyện rằng Ngài sẽ đản sinh khi thọ mạng loài người giảm xuống khoảng một trăm tuổi, Đức Phật quyết định chuyển bánh xe Pháp vì lợi ích của tất thảy hữu tình. Khi nhân duyên hội đủ, chư thiên đã cúng dường vô số diệu âm nhã nhạc để nhắc Đức Phật về lời huyền ký của Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ đản sinh vào cõi người để ban trải giáo Pháp về con đường giải thoát khỏi vòng luân hồi đau khổ.

 

Sanchi, nơi Đức Phật hạ thế lần thứ 2 từ cung trời Đâu Suất
Đại bảo tháp ở Sanchi được xây dựng vào thế kỷ 3 TCN, dưới thời kỳ trị vì của vua A Dục

Nhìn chung, so với chúng sinh trong sáu đạo luân hồi, cõi người có thuận duyên nhất để đón nhận và thực hành giáo pháp. Chính vì vậy nên được tái sinh trong thân người được coi là Thân Quý Giá Nhất [Milue Rinpoche]. Cũng vì lẽ này nên một nghìn Đức Phật sẽ đản sinh vào cõi Người và đạt thành tựu Giác Ngộ Tối Thượng tại Bồ Đề Đạo Tràng [Dorjedhen], còn được gọi là Kim Cương Pháp Tòa.

Đức Phật dạy rằng có vô số cách để đạt thành giác ngộ, chính Ngài đã trải qua vô số kiếp trong vô số hình tướng khác nhau, đã tu tập tịnh hóa tất cả bất thiện nghiệp và vô minh ám chướng.

Nhờ vậy, Ngài đã thành tựu giác ngộ toàn tri và trí tuệ siêu việt, trở thành bậc Giác ngộ Tối thượng, có thể nhận ra được tự tính chân thật của hết thảy vạn pháp. Theo những chuyện kể trong bộ kinh Bản Sinh, tiền thân Đức Phật đã trải qua năm trăm kiếp bất thiện và năm trăm kiếp tịnh hóa. Cuối cùng, khi trở thành Đức Phật thứ tư, Ngài đã thị hiện mười hai công hạnh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tạo nguồn cảm hứng cho con người về hành trình chuyển hóa tâm để thành tựu giác ngộ.
Nguồn:
//daibaothapmandalataythien.org

Theo lịch Kim Cương Thừa, ngày vía Đức Phật Thích Ca hạ thế từ cung trời Đâu Suất là một trong những ngày cát tường nhất trong năm. Ngày vía này nhằm vào ngày 22 tháng 9 tính theo âm lịch của Kim Cương Thừa [tức ngày dương lịch 27 tháng 10 năm 2021].

Nhân ngày lễ đầy cát tường thù thắng này, mọi nghiệp lành sẽ tăng trưởng gấp 10 triệu lần. Quý vị hãy phát tâm thực hành các thiện hạnh như tụng kinh tán thán 12 công hạnh của Đức Phật, trì tụng chân ngôn, thiền định, bố thí cúng dường, phóng sinh, ăn chay … để cùng tích lũy thiện nghiệp.

Thầy Thích Trúc Thái Minh

Nếu quan tâm đến các thông tin, bài giảng của Thầy Thích Trúc Thái Minh, quý vị hãy cài đặt và truy cập các ứng dụng

©2020 Thay Thich truc thai minh

Đức Phật Thích Ca

Các Phật tử mỗi khi chào nhau đều dùng câu “Nam mô A Di Đà Phật”. Trong các chùa cũng luôn có tượng Phật A Di Đà. Nhiều người thắc mắc không biết Phật A Di Đà là ai, có phải chính là Phật Thích Ca – người khai sinh Phật giáo?

Theo giáo lý nhà Phật, đức Thích Ca không phải vị Phật duy nhất. Trước ngài có nhiều vị Phật khác từng đến thế gian và sau ngài cũng sẽ như vậy. Phật Thích Ca là con người được ghi nhận trong sách sử, là thái tử Siddhartha của hoàng tộc Gautama [Cồ-Đàm] tại tiểu quốc Shakya [Thích Ca], được cho là sinh vào khoảng năm 624 trước Công nguyên.

Thái tử Siddhartha kết hôn và có một con trai trước khi xuất gia tu hành vào năm 29 tuổi. Ngài trải qua nhiều phương thức tu hành, có cả khổ tu, nhưng không tìm được con đường giải thoát, cho đến khi tự mình giác ngộ con đường trung đạo sau 49 ngày đêm thiền định dưới gốc bồ đề. Sau đó, toàn bộ cuộc đời ngài dành cho việc truyền bá con đường thoát khổ đó cho nhân loại.

Đức Phật Thích Ca thọ 80 tuổi.

Đức Phật A Di Đà là ai?

Đức Phật A-Di-Đà

Đây là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa. Tên của ngài có nghĩa là Vô lượng thọ, Vô lượng quang [hào quang trí tuệ chiếu khắp các thế giới], Vô lượng công đức. Ngài xuất hiện trước đức Thích Ca rất lâu.

Theo kinh Đại A Di Đà, thời rất xa xưa, có một vị quốc vương tên Kiều Thi Ca sau khi nghe một vị Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi xuất gia tu hành, lấy hiệu Pháp Tạng. Ông phát ra 48 lời nguyện cứu độ chúng sinh, trong đó có đại nguyện rằng sau khi tu thành Phật sẽ tịnh hoá một thế giới và biến nó thành một trong những vương quốc thanh tịnh và đẹp đẽ nhất, chúng sinh nào hướng niệm đến ngài sẽ được tiếp dẫn để vãng sinh ở đó. Sau này ngài hoàn thành đại nguyện và thành Phật A Di Đà. Thế giới tịnh hóa của ngài thường được Phật tử hình dung là chốn Tây phương cực lạc.

Trong các ngôi chùa, bạn có thể nhận ra tượng Phật A Di Đà qua các đặc điểm sau: Trên trên đầu có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, khoác trên người áo cà sa màu đỏ.

Phật A Di Đà có thể ở tư thế đứng, tay phải đưa ngang vai, chỉ lên, tay trái đưa ngang bụng, chỉ xuống, hai lòng bàn tay hướng về phía trước; trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau làm thành vòng tròn.

Một cách phân biệt rõ ràng nhất là Phật A Di Đà trước ngực có chữ Vạn.

Video liên quan

Chủ Đề