Univariate analysis là gì

Nghiên cứu xã hội học Phần cuối

caphesach
8 năm trước
X

Bảo mật & Cookie

This site uses cookies. By continuing, you agree to their use. Learn more, including how to control cookies.

Đã hiểu!
Quảng cáo

6. 6. Quan sát [Observation]

Giai đoạn quan sát được dùng để thu thập dữ liệu [data collection].Người làm nghiên cứu có thể tự thu thập dữ liệu chính thức [primarydata] cho nghiên cứu của mình bằng cách sử dụng các mô hình quan sát[modes of observations] như đã trình bày ở trên, hay sử dụng dữ liệu thứcấp [secondary data] đã được thu thập bởi các công trình nghiên cứutrước đây.

6. 7. Xử lý dữ liệu và phân tích dữ liệu [Data processing anddata analysis]

Dữ liêu cần được xử lý trước khi phân tích. Trong nghiên cứu địnhtính, việc xử lý dữ liệu bao gồm việc thiết lập các cơ sở dữ liệu[database] từ các biên bản phỏng vấn [interview transcript] hay từ các tàiliệu văn học [literature] để dùng trong phân tích định tính [qualitativeanalysis]. Ngày nay, việc thiết lập cơ sở dữ liệu thường được làm quaviệc nhập các dữ liệu [data entry] vào các phần mềm dùng để phân tíchnghiên cứu định tính [qualitative analysis software]. Trong nghiên cứuđịnh lượng, xử lý dữ liệu bao gồm việc chuyển đổi dữ liệu thô [raw data]thu thập được bằng quan sát thành các con số để thành lập các tập dữ liệu[data file] có thể dùng để phân tích [nếu dùng dữ liệu thứ cấp thì có thểkhông cần phải qua giai đoạn này vì dữ liệu thứ cấp thường đã được xửlý]. Tiếp sau đó là việc thiết lập các biến số [creating variables] cần thiếtđể dùng cho kiểm chứng giả thuyết. Ngày nay việc phân tích dữ liệuthường được thực hiện với sự trợ giúp của của các phần mềm phân tích[quantitative analysis software] được thiết kế để xử dụng với máy vi tính[computer]. Việc phân tích thường bao gồm việc mô tả [describe] và giảithích [explain] sự kiện liên quan đến câu hỏi nghiên cứu dựa vào kết quảkiểm chứng giả thuyết cũng như lý thuyết được dùng để hướng dẫn phântích.

6. 8. Trình bày và diễn giải kết quả [Presentation andinterpretation of findings]

Trong nghiên cứu định tính, kết quả quan sát và phân tích thườngđược trình bày bằng cách tường thuật và giải thích bằng văn viết[narrative] với sự chú trọng đến việc trình bày ý nghĩa của sự kiện dựatrên quan điểm của đối tượng nghiên cứu trong khuôn khổ lý thuyết[theoretical framework] hay hệ qui chiếu quan điểm [research paradigm]dùng để huớng dẫn phân tích. Trong nghiên cứu định lượng, kết quảquan sát và phân tích được trình bày bằng nhiều cách khác nhau, tùy theođối tượng khán giả hay độc giả. Đơn giản nhất là mô tả [describe] sựkiện bằng con số dựa vào kết quả phân tích từng biến số [univariateanalysis]. Thí dụ, trong nghiên cứu về thái độ đối với hôn nhân đồngtính, việc trình bày kết quả đơn giản bao gồm tỷ lệ [rate, proportion],phần trăm [percentage], tần số [frequency] liên quan đến quan điểmchống hay ủng hộ hôn nhân đồng tính, cùng với tuổi tác, giới tính, vàtrình độ học vấn của mẫu nghiên cứu. Đồ hoạ [graphic presentation] vàbảng tóm tắt kết quả bằng số [tables] thường được dùng kèm theo phầntường thuật [narrative] để giúp khán giả/độc giả nắm bắt kết quả mộtcách nhanh gọn. Phức tạp hơn là việc khám phá mối liên hệ giữa hai biếnsố, hay biến số nào có thể dùng để tiên đoán kết quả. Cách giải thích[explain] phức tạp liên quan đến kết quả phân tích hai hay nhiều biến sốcùng một lúc [bivariate analysis multivariate analysis] và có thể đượctrình bày bằng cách tường thuật [narrative] cùng với các bảng tóm tắtbằng số [tables].

Việc mô tả [describe] kết quả phân tích bằng ngôn ngữ, con số hayđồ hoạ chưa đủ để hiểu được hiện tượng quan sát. Một trong những mụctiêu chính của nghiên cứu xã hội là tìm hiểu ý nghĩa [making sense] cácsự kiện thực tế. Kết quả quan sát và phân tích thể hiện bằng các con sốnhiều khi hàm chứa rất nhiều thông tin, nhưng cũng có khi không nói lênđược điều gì có ý nghĩa. Do đó, diễn giải [interpret] kết quả của nghiêncứu là việc làm quan trọng để giúp hiểu được một cách hợp lý các kếtquả bằng con số. Việc diễn giải còn giúp hiểu được sự hợp lý của các kếtquả mà thoạt nhìn tưởng như vô lý,và các kiến thức đã có sẵn [literature]được dùng vào việc diễn giải [interpret] kết quả phân tích.

Thí dụ, kết quả nghiên cứu về thích nghi [adaptation] và hội nhập[acculturation assimilation] ở một vài nhóm di dân ở Hoa Kỳ cho thấythanh thiếu niên ở thế hệ di dân thứ nhất thích nghi tốt hơn các thanhthiếu niên ở thế hệ di dân thứ hai trở lên [có kết quả học vấn tốt hơn, và íttham gia tội phạm hay các hành vi tiêu cực như uống ruợu hay dùng matúy]. Hiện tượng này được gọi là nghịch lý di dân[immigrant paradox]bởi vì thế hệ di dân thứ nhất thường có điều kiện sống không thuận lợibằng thế hệ thứ hai với những yếu tố thường liên hệ [associated] với mứcđộ tham gia hành vi phạm pháp và tiêu cực cao [sống trong những khunghèo khổ và có lợi tức gia đình và học vấn thấp hơn]. Tuy nhiên, dùngcác kiến thức về đời sống hội nhập của các di dân sẽ giải thích nghịchlýnày một cách hợp lý. Một trong các giải thích hiện tượng coi lànghịch lýnày là thế hệ di dân thứ nhất thường có khát vọng cao về họcvấn của con cái nên thường chú tâm vào việc đốc thúc con cái học hành,
đưa đến kết quả học vấn tốt của con em họ. Cách giải thích thứ hai là tácdụng tiêu cực của việc hội nhập văn hoá Mỹ ở thế hệ thứ hai làm suy yếumối liên hệ gia đình cùng quyền lực của cha mẹ trong việc dạy dỗ concái, khiến việc giám sát hành vi của các thanh thiếu niên ở thế hệ thứ haitrở nên lỏng lẻo, và do đó không ngăn cản được các hành vi tiêu cực củathanh thiếu niên ở thế hệ này. Đối với những nhóm di dân phải sống quanhiều thế hệ ở những khu vực có nhiều tệ nạn xã hội, hội nhập vào đờisống trong khu vực này [từ thế hệ thứ hai trở lên] cũng đưa đến các hànhvi tiêu cực.

6. 9. Chỉ ra các hạn chế [Acknowledgement of limitations]

Có thể nói không một nghiên cứu nào có thể được coi là hoàn hảo vềmọi phương diện, gồm cả phương pháp nghiên cứu, việc sử dụng lýthuyết một cách thích hợp, cũng như phương pháp và kỹ thuật dùng đểphân tích dữ liệu. Bởi vì phương pháp nghiên cứu cũng như lý thuyếtdùng để hướng dẫn phân tích dữ liệu ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu,một phần quan trọng sau khi tường trình kết quả nghiên cứu là công nhậnnhững khuyết điểm của phương pháp nghiên cứu để kết quả nghiên cứuđược hiểu trong khung cảnh giới hạn đó. Ngoài ra, vì việc khám phá rakiến thức là một sự kế thừa với việc bổ sung không ngừng vào kho tàngkiến thức bằng các kết quả nghiên cứu để sự hiểu biết càng ngày càngđược nâng cao, việc công nhận các khuyết điểm sẽ gợi ý cho các dự ánnghiên cứu trong tương lai để bổ sung vào kho tàng kiến thức.

7. Lĩnh vực và đề tài nghiên cứu xã hội học ở Hoa Kỳ

Mặc dù tất cả các vấn đề liên quan đến đời sống xã hội đều có thể làđề tài nghiên cứu xã hội học, sự phân cấp trong xã hội [socialstratification] là một trong những trọng tâm và có chỗ đứng vững chắc vàlâu dài trong nghiên cứu xã hội học [focus of sociological research] ởHoa Kỳ. Vấn đề giai cấp xã hội từng là đề tài của các nghiên cứu xã hộitừ đầu thế kỷ thứ hai mươi còn các nghiên cứu về phân cấp giới và chủngtộc chỉ được phát triển sau khi có phong trào đấu tranh cho dân quyền[civil rights movments] trong thập kỷ 1960s và 1970s. Các nghiên cứuliên quan đến phân tầng giai cấp xã hội [class stratification], phân tầnggiới [gender stratification], và phân tầng chủng tộc [race stratification]chú trọng đến ảnh hưởng của phân tầng xã hội đến sự phân chia phúc lợivà bình đẳng trong các lãnh vực của đời sống như giáo dục, sức khỏe,việc làm, lương bổng và lợi tức, quyền lực kinh tế và chính trị, cũng nhưtội phạm và hình phạt. Trong khoảng hai mươi năm vừa qua, vấn đề tộiphạm và hình phạt, môi sinh [environment], tình dục [sexuality] và chínhsách công [public policy] cùng ảnh hưởng của phân tầng xã hội đối vớicác vấn đề kể trên chiếm một mảng lớn trong nghiên cứu xã hội học.

Về phương diện quan điểm, học thuyết chức năng cấu trúc xã hội[structural functionalism] thống lĩnh các nghiên cứu xã hội trong thờigian đầu thế kỷ hai mươi. Sau thập kỷ 1970s các quan điểm nữ quyền[feminist perspective] và quan đểm về mâu thuẫn xã hội [conflictperspective] bắt đầu trở nên phổ biến và có một chỗ đứng quan trọng.Thời gian gần đây, quan điểm hậu hiện đại bắt đầu phát triển đồng thờivới học thuyết tân tự do [neo-liberalism] để giải thích các chính sách vềtội phạm và hình phạt cũng như các chính sách công về kinh tế và xã hội.

8. Nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam

Qua việc xem xét [review] các báo cáo khoa học xã hội xuất bảntrong các tạp chí chuyên ngành khoa học xã hội ở Viêt Nam [Tạp chíKhoa học Xã hội Viêt Nam, Vietnam Social Science Review, Thông tinKhoa học Xã hội, Tạp chí Khoa học Xã hội, v.v.] và trong các tạp chíchuyên ngành xuất bản ở ngoài Việt Nam, có thể nhận định rằng hoạtđộng nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam còn chưa được nối liền vớinghiên cứu xã hội học thế giới. Mặc dù ở Việt Nam các nghiên cứu xãhội chiếm gần một nửa tổng số nghiên cứu các loại, nghiên cứu xã hội ởViệt Nam rất hiếm thấy xuất hiện trên các tạp chí chuyên ngành quốctế.[23]

Nhiều nguyên nhân có thể đưa đến việc thiếu sự liên kết của xã hộihọc ở Viêt Nam với với xã hội học thế giới. Trước hết, phần lớn cácnghiên cứu xã hội học ở Việt Nam chưa được thực hiện trên quan điểmcoi kiến thức [knowledge] là sự tích lũy các hiểu biết [understandings]
đuợc khám phá ra bằng nghiên cứu để giải đáp các câu hỏi về thực tế xãhội. Phần lớn các báo cáo khoa học xã hội xuất bản ở Việt Nam thườngthiếu phần xem xét tổng quan tài liệu [literature review] vốn đuợc dùnglàm nền tảng cho đề tài nghiên cứu. Các đề tài nghiên cứu thường là cácvấn đề cá biệt của xã hội Việt Nam nhưng ít khi được đặt trong khungcảnh kiến thức chung của xã hội học. Các nghiên cứu xã hội ở Việt Namcũng thường ít sử dụng lý thuyết [theory] hay các hệ qui chiếu quan điểm[research paradigm] trong quan sát và phân tích nên thường không đi xahơn việc mô tả [description] sự kiện thực tế, nhưng chưa đi đến trình độgiải thích [explain] thực tế bằng kiểm chứng giả thuyết [hypothesistesting] hay bằng lý thuyết. Do đó, kết quả nghiên cứu thường chỉ có giátrị thông tin [information] chứ không đưa ra các hiểu biết[understandings] mới để đóng góp vào kiến thức xã hội học nói chung[trường hợp ngoại lệ là các báo cáo khoa học xã hội xuất bản trong cáctập san chuyên ngành quốc tế].

Trong các bài báo cáo về nghiên cứu khoa học xuất bản ở Việt Nam,phương pháp nghiên cứu thường được trình bày rất sơ sài và không đủ đểđộc giả thẩm định được chất lượng [quality] của việc lấy mẫu và dữ liệunghiên cứu, cũng như cách đo lường các khái niệm [conceptmeasurement] và quá trình phân tích [analytical procedure]. Các nghiêncứu định lượng thường sử dụng các mẫu nghiên cứu rất nhỏ [dưới 100trường hợp] và thường không mang tính đại diện và tiêu biểu cho dân sốnghiên cứu [ngoại lệ là các nghiên cứu thống kê dân số]. Kỹ thuật phântích dùng cho nghiên cứu định lượng còn đơn giản với kỹ thuật phân tíchtừng biến số một [univariate analysis] dùng cho thống kê mô tả[descriptive statistics] như phần trăm [percentage] hay tỷ lệ [rate]. Sựliên hệ giữa các yếu tố xã hội với hiện tượng quan sát vốn được dùng đểgiải thích các hiện tượng xã hội thường không được đề cập đến vì thiếucác kỹ thuật phân tích phức tạp dùng hai hay nhiều biến số một lúc[bivariate analysis và multivariate analysis].

Hơn một trăm năm trước đây, các thay đổi xã hội lớn ở Â Châu đãthúc đẩy sự ra đời của môn xã hội học để tìm hiểu sự liên hệ giữa xã hộivà con người. Mặc dù quan điểm của các nhà xã hội học tiên phong cũngnhư kiến thức do họ mang lại được coi là nền tảng [foundation] cho sựhiểu biết về xã hội học, các kiến thức này thường dựa vào kinh nghiệmcủa xã hội Âu Mỹ trong thời kỳ kỹ nghệ hoá, và không nhất thiết đại diệncho tất cả các xã hội trong mọi thời kỳ. Do đó, nghiên cứu từ những xãhội khác nhau sẽ đa dạng hoá [diversification] và làm phong phú kiếnthức xã hội học. Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, xã hội Việt Nam đã trảiqua rất nhiều thay đổi trong bối cảnh toàn cầu hóa, khác hẳn với bối cảnhcủa những thay đổi ở Âu Châu hơn một trăm năm trước đây. Nhữngthay đổi xã hội gần đây ở Việt Nam là cơ hội quý giá để xã hội học ViệtNam đóng góp vào kiến thức xã hội học nói chung qua việc xuất bản cácnghiên cứu xã hội và các khám phá mới từ nghiên cứu trong các tạp chíchuyên ngành quốc tế [tạp chí có độc giả trên thế giới]. Vì nghiên cứuđược coi là phương tiện để khám phá kiến thức, và vì phương phápnghiên cứu là tiêu chuẩn hết sức quan trọng để được chọn đăng ở các tạpchí chuyên ngành quốc tế, phẩm chất nghiên cứu xã hội học ở Viêt Namcần được nâng cao với sự chú trọng đặc biệt tới phương pháp nghiêncứu.[24]

-

[23]//www.thanhnien.com.vn/pages/20111215/vn-chi-co-2-bai-bao-vekhoa-hoc-xa-hoi-tren-tap-chi-the-gioi.aspx;

//www.nguyenvantuan.net/methods/1395-kham-pha-trong-nghien-cuukhoa-hoc-xa-hoi-qua-cac-phuong-phap-dinh-luong.

[24]//www.nguyenvantuan.net/methods/1395-kham-pha-trong-nghien-cuukhoa-hoc-xa-hoi-qua-cac-phuong-phap-dinh-luong

Tài liệu tham khảo:

1. Babbie, E. [1999]. The Basic of Social Research. Belmont, CA:Wadsworth.

2. Adler, S & Clark, R. [1999]. An Invitation to Social Research.Belmont, CA: Wadsworth.

3. Hagan, K. [1993]. Research Methods in Criminal Justice andCriminology [3rd Ed]. New York: Macmillan.

Quảng cáo

Share this:

Có liên quan

  • Thời đại thông tin tăng tốc PhầnIII
  • Tháng Chín 30, 2021
  • Trong "Các vấn đề chuyển đổi số"
  • Dữ liệu Phần I
  • Tháng Tám 21, 2021
  • Trong "Các vấn đề chuyển đổi số"
  • Dữ liệu: Nguyên liệu thô của thời đại thông tin Phần cuối
  • Tháng Tám 29, 2021
  • Trong "Các vấn đề chuyển đổi số"
Danh mục: Xã hội học
Để lại nhận xét

Video liên quan

Chủ Đề