Vấn de cơ bản của triết học có mấy vấn de

Triết học luôn là nỗi ám ảnh của sinh viên, học viên cao học, nhưng liệu triết học có thực sự khó đến vậy không? Thật ra triết học rất dễ hiểu nếu như bạn nắm được bản chất và các vấn đề xoay quanh triết học. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn nắm được thông tin triết học là gì, nguồn gốc của triết học, những vấn đề và vai trò của triết học trong đời sống xã hội ngày nay.

Triết học là gì?

Khái niệm Triết học

Về khái niệm, Triết học được định nghĩa là một bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, quy luật, giá trị, ý thức, kiến thức và ngôn ngữ. 

Thuật ngữ Triết học được đặt ra bởi Pythagoras of Samos - một triết gia Hy Lạp đầu tiên được biết đến với việc sáng lập phong trào tín ngưỡng có tên học thuyết Pythagoras.


Triết học là gì?

Triết học là ngành học duy nhất khám phá, nghiên cứu tất cả mọi thứ. Nó cũng là ngành học duy nhất thách thức mọi thứ, ngay cả chính nó. Chính vì thế, triết học được tách riêng khỏi khoa học, lịch sử, văn học và nghệ thuật. Mặc dù triết học và các ngành học khác có chung một số mục tiêu [cùng với các nhà khoa học, các nhà triết học muốn khám phá bản chất của thực tế; cùng với các nhà sử học, các triết gia muốn hiểu chúng ta đến từ đâu; cùng với các nhà nghệ thuật, các triết gia muốn kích thích những câu hỏi mới lạ về trải nghiệm của con người…]

Nguồn gốc của Triết học

Theo ghi chép của các tài liệu lịch sử, hình thái ý thức xã hội Triết học ra đời vào khoảng thứ VII đến thế kỷ thứ VI trước Công nguyên [TCN]. Triết học Triết học ra đời ở cả Phương Đông và Phương Tây, trong đó nổi bật nhất là tại  Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại - ba trung tâm văn hóa lớn thời kỳ cổ đại. Cụ thể:

- Ở Ấn Độ: Triết học Ấn độ cổ đại có tên gọi là “darshana”, có nghĩa là “chiêm ngưỡng”. Được hiểu là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ và nhân sinh.

- Ở Trung Quốc: Triết học hướng đến các vấn đề chính trị - xã hội nên được xem là  sự truy tìm bản chất, thấu hiểu căn nguyên sự việc.

- Ở Hy Lạp: Triết học hướng về con người và khoa học tự nhiên, hay còn gọi là “triết học tự nhiên”. Đây được xem như “người mẹ” của các khoa học, triết học ở Hy Lạp còn được gọi là “philosophia” - “tình yêu đối với sự thông thái”. 


Sokrates - một triết gia người Hy Lạp cổ đại

Ở mỗi quốc gia, Triết học sẽ mang một màu sắc khác nhau. Tuy nhiên, dù là ở phương Đông hay phương Tây, triết học đều được coi là đỉnh cao của trí thức nhân loại, sử dụng trí óc để khám phá vạn vật.

Đối tượng của Triết học là gì?

Quá trình xác định đối tượng của triết học sẽ tùy vào thời kỳ trong lịch sử:

  • Thời cổ đại [Thế kỷ V TCN - IV]: triết học cổ đại được xem là đỉnh cao của nền văn minh Hy Lạp, được xem là “khoa học của các khoa học”. Các triết gia cổ đại quan tâm đến 2 vấn đề chính: mối liên hệ giữa nguyên nhân - hệ quả và bản chất, khởi thủy của thế giới tồn tại. Triết học cổ đại cũng quan tâm đến con người.
  • Thời Trung cổ [Thế kỷ V - XV]: đời sống tinh thần của con người chịu sự thống trị của thần học Kitô giáo, nên triết học bị ảnh hưởng nặng nề. Một trong những mâu thuẫn đáng chú ý của triết học trong thời kỳ này chính là giữa đức tin và lý trí.
  • Thời phục hưng [Thế kỷ XIV -XVI]: đối tượng của triết học không còn chỉ là tự nhiên mà đã được mở rộng ra thêm con người và xã hội.
  • Thời cận đại [Thế kỷ XVII - XVIII]: đây là thời kỳ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật, mang hình thức của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc. Trí thức của con người ngày càng phát triển, các ngành khoa học khác dần dần độc lập tách ra khỏi triết học. Các quy luật tự nhiên, tư duy, xã hội trở thành đối tượng nghiên cứu của triết học.
  •  Triết học cổ điển Đức: Đỉnh cao của quan niệm “Triết học là khoa học của mọi khoa học” 
  • Triết học Mác: Trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng để nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

>>>Xem thêm:

Tiểu luận Triết học là gì? Cách viết một bài tiểu luận Triết học cao học

Vấn đề cơ bản của triết học là gì?

Cách tốt nhất để hiểu rõ về triết học chính là tìm hiểu về những vấn đề liên quan đến nó và những gì các nhà triết học [hoặc bất kỳ người nào khác] đang làm về triết học.

Vấn đề cơ bản của triết học

Sự đối lập trong tư duy giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm là vấn đề cơ bản của triết học. Hai mặt của vấn đề triết học:

  • Mặt thứ nhất: Giải quyết vấn đề vật chất và ý thức, cái nào có trước cái nào? Cái nào quyết định cái nào?

Các nhà triết học chia làm 2 phe chính:

+ Chủ nghĩa nhất nguyên: cho rằng một yếu tố có trước và quyết định một yếu tố còn lại, gồm có 2 nhóm: chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. 

+ Chủ nghĩa nhị nguyên: cho rằng cả 2 yếu tố đều có trước và tồn tại song song, độc lập.

  • Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới xung quanh không?

+ Khả tri luận: thừa nhận khả năng nhận thức của con người.

+ Bất khả tri luận: phủ nhận khả năng nhận thức của con người.

Trong quá trình phát triển của triết học, ngày càng tồn tại sự đối lập giữa 2 hình thức tư duy: biện chứng và siêu hình. 


Các vấn đề cơ bản của Triết học

Tại sao nói đó là vấn đề cơ bản của triết học?

Triết học ra đời từ rất sớm, đã tồn tại sự mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. Vấn đề cơ bản của triết học chính là chuẩn mực để phân biệt chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. Sự đấu tranh để chứng tỏ quan điểm của mình là đúng giữa 2 phe [chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật]  xuyên suốt lịch sử của triết học đã tạo nên sự phát triển cho triết học. Lịch sử triết học cũng như lịch sử cuộc đấu tranh giữa 2 phe, nhưng chúng không loại bỏ lẫn nhau mà là càng lúc càng bổ sung, hoàn thiện cho nhau. 

Xem thêm các đề tài tiểu luận triết học cao học, truy cập: //luanvan99.com/tieu-luan-triet-hoc-cao-hoc-bid54.html

Vai trò của triết học trong đời sống xã hội

Vai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng của triết học. Triết học có nhiều chức năng, nhưng quan trọng nhất chính là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.

Chức năng thế giới quan

Thế giới quan có vai trò quan trọng đối với đời sống mỗi con người, mỗi giai cấp, mỗi cộng đồng. Nó giúp con người nhận thức đúng được sự vật, sự việc. Hoạt động của con người luôn bị chi phối bởi một thế giới quan nhất định.

Nếu được thế giới quan khoa học hướng dẫn, con người sẽ xác định đúng mối quan hệ giữa con người và đối tượng, từ cơ sở đó mà nhận thức đúng quy luật vận động của đối tượng, từ đó có thể xác định đúng phương hướng, mục tiêu và cách thức hoạt động của con người. Ngược lại, nếu được một thế giới quan không khoa học hướng dẫn, con người sẽ không thể xác định đúng mối quan hệ giữa con người và đối tượng, không nhận thức đúng quy luật của đối tượng thì con người sẽ không xác định đúng mục tiêu, phương hướng và cách thức hoạt động, từ đỏ hoạt động không đạt kết quả như mong muốn.

Chức năng phương pháp luận

Phương pháp luận là hệ thống những quy tắc được rút ra từ quy luật thế giới khách quan. Phương pháp luận chính là cơ sở vô cùng quan trọng cho phương pháp nghiên cứu khoa học. Việc hoàn thiện phương pháp luận sẽ giúp cho các nhà khoa học nghiên cứu tìm ra những cách tiếp cận mới trong những lĩnh vực mới, từ đó xác định được hướng đi đúng đắn, giúp nâng cấp và cải cách thế giới.

Phương pháp luận được chia làm 3 cấp bậc chính:

- Phương pháp luận ngành: được sử dụng cho những ngành khoa học cụ thể [sinh học, vật lý, hóa học,...].

- Phương pháp luận chung: được sử dụng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có chung đối tượng nghiên cứu.

- Phương pháp luận chung nhất: dùng để khái quát các nguyên tắc, quan điểm chung nhất. Phương pháp luận này chính là cơ sở để xác định các phương pháp luận ngành, chung và các hoạt động thực tiễn.

Trên đây, Luận Văn 99 đã chia sẻ đến bạn những kiến thức xoay quanh khái niệm "Triết học là gì?". Hy vọng với những thông tin này sẽ giúp bạn phần nào hiểu hơn về Triết học cũng như hoàn thành tốt bài tập, tiểu luận Triết học của mình.

Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Vấn đề cơ bản của triết học tiếng Anh là gì? Cách giải quyết như thế nào?

Vấn đề cơ bản của triết học xác định với nền tảng thực hiện nghiên cứu. Với nội dung khởi điểm và tác động lên các nhận thức về sau. Các vấn đề này mang đến tiếp cận hiệu quả khi nghiên cứu triết học. Ở đó, có sự hình thành, phản ánh tác động qua lại giữa vật chất và ý thức. Khi đó, nguồn gốc, thời điểm ra đời mang đến ý nghĩa nghiên cứu. Cũng như trả lời vật chất hay ý thức có trước. Trong mối quan hệ đó thì cái nào tác động đến đối tượng còn lại, tác động như thế nào. Đây là vấn đề cơ bản, bởi xuyên suốt quá trình nghiên cứu, đều xem xét các mối quan hệ tác động xung quanh vật chất và ý thức.

Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Vấn đề cơ bản của triết học là gì? 

Với các ngành hay lĩnh vực nói chung, vấn đề cơ bản đều mang đến nền tảng trong thực hiện nghiên cứu. Qua đó phản ánh với đặc điểm, tính chất xung quanh đối tượng. Triết học cũng như những khoa học khác với thực hiện các nghiên cứu. Khi phải giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau. Trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng tạo ra nền tảng phải được xem xét đầu tiên. Và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại xuyên suốt. Tính chất này được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.

Trong các nghiên cứu của mình, Ăng ghen cũng chỉ ra đối tượng trở thành vấn đề cơ bản này. Theo đó: “ Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.

Có thể nói, càng nghiên cứu sâu, càng thấy được các nghiên cứu phải xoay quanh tư duy và tồn tại. Nói cách khác là vật chất và ý thức trong mối quan hệ tác động qua lại.

Đưa ra khái niệm như sau:

Vấn đề cơ bản của triết học là những vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức. Qua đó, thấy được khía cạnh cần nghiên cứu. Các tồn tại đều mang đến tác động nhất định với tính chất cơ bản này. Giải thích cho tất cả các hiện tượng vận động, hình thành và phát triển xung quanh con người. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Với các nghiên cứu thực hiện làm rõ. Mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn.

– Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất trong tính chất tác động qua lại. Thì cái nào có trước, cái nào có sau? Gắn với các tác động và thể hiện như thế nào? Các chứng minh cho thấy đối với thời điểm xuất hiện và tồn tại. Cái nào quyết định cái nào? Mang đến các tác động một chiều hay tác động qua lại. Đều phải được nghiên cứu để mang đến cái nhìn chính xác. Bởi vì hoạt động được thực hiện là các nghiên cứu khoa học.

– Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Trong tính chất vận động và phát triển. Các biến đổi có được dự đoán không. Dựa trên các cơ sở nào trong nghiên cứu, phân tích. Từ đó cũng có thể làm chủ được thế giới. Với sự tác động và điều khiển. Mang đến lợi ích đối với tiếp cận, thực hiện nhu cầu của con người. Tất cả nghiên cứu phải thực hiện trong tư duy của con người. Và tác động vào vật chất tồn tại.

Xem thêm: Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học:

Trả lời cho hai câu hỏi trên với hoạt động nghiên cứu khoa học. Mang đến cơ sở và thực hiện các phân tích. Từ đó cho thấy câu trả lời cho hai mặt trên. Liên quan mật thiết đến việc hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học. Cũng như gắn với tất cả các vận động và phát triển được xác định với triết học. Khi nó là cơ sở, nền tảng cho các phản ánh của thế giới.

Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định được nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Trong ý nghĩa tìm kiến hay xác định yếu tố xuất phát. Mà nó còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ. Khi định hướng với quan điểm nghiên cứu của các chủ thể. Họ thực hiện lập luận và nghiên cứu chứng ming cho lập luận của mình. Qua đó mà con người thấy được các phân tích thuyết phục nhất.

Học thuyết được thực hiện bởi các nhà triết học mang đến tiếp cận với thế giới. Trong hình thành, vận động và phát triển. Các lập trường khác nhau giúp nhiều quan điểm được đưa ra. Cũng như các nhóm có cùng quan điểm tập hơn lại. Tất cả các nghiên cứu nhằm mang đến cái nhìn chân thực của con người về thế giới. Qua đó tiếp cận hay tác động hiệu quả trong nhu cầu.

Vì sao đây là vấn đề cơ bản của triết học:

Vì việc giải quyết nó sẽ quyết định được cơ sở, tiền đề trong nghiên cứu. Thông qua đó để giải quyết những vấn đề của triết học khác. Làm rõ với các phân tích về thế giới. Điều này đã được chứng minh rất rõ ràng trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học. Phản ánh chân thực nhất trong vận động, phát triển của thế giới. Cũng như nhìn nhận thế giới với các tiếp cận vật chất và ý thức.

2. Vấn đề cơ bản của triết học tiếng Anh là gì?

Vấn đề cơ bản của triết học tiếng Anh là Basic problem of philosophy.

3. Cách giải quyết như thế nào?

Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mặt, cụ thể:

Xem thêm: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

3.1. Mặt thứ nhất – Bản thể luận

Trả lời cho câu hỏi giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Và cái nào quyết định cái nào?

Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở phân định các trường phái triết học. Với các tiếp cận trong giả thuyết được đặt ra. Các nhà khoa học nhận định trong kết quả nghiên cứu của mình. Từ đó thực hiện các phân tích chứng minh cho giả thuyết đó.

Với hai đối tượng là vật chất và ý thức. Với mối quan hệ được phản ánh với thực tế vận động, phát triển của thế giới. Có ba cách giải quyết:

Một là, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Như vậy, mang đến sự xuất hiện ban đầu của vật chất. Các tồn tại chưa mang đến ý nghĩa trong tác động với sự vật. Nhưng khi có ý thức, con người bắt đầu nghiên nâng cao hiệu quả. Từ nền tảng có sẵn của vật chất để ứng dụng phù hợp.

Như vậy, với nền tảng của vật chất, ý thức mới có cơ sở để thực hiện các vận động. Từ đó với các nghiên cứu qua thời gian để mang đến ứng dụng ngày càng có ý nghĩa. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức.

Hai là, ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. Sự xuất hiện đầu tiên của ý thức. Và dựa vào các phát triển, tìm kiếm và phục vụ nhu cầu. Trên nền tảng ý thức để tạo ra vật chất. Khi đó, ý thức có trước để làm nền tảng cho vật chất ra đời.

Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thứ hai của vật chất. Cũng một nguyên thể ra đời trước. Quyết định với sự ra đời của yếu tố còn lại.

Ba là, vật chất và ý thức tồn tại độc lập. Chúng không nằm trong quan hệ sản sinh, khi không dựa trên tiền đề phát triển cái này để tạo ra cái kia. Cũng không nằm trong quan hệ quyết định nhau. Tức là không có mối liên hệ với tính chất vận động phát triển qua thời gian. Dù vật chất có vận động như thế nào thì cũng thể khẳng định với kéo theo của ý thức và ngược lại.

Xem thêm: Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng quan điểm toàn diện

Theo đó:

Cách giải quyết thứ nhất và thứ hai có sự đối lập về nội dung. Khi khẳng định với sự ra đời hay tác động của nguyên thể này nên nguyên thể còn lại. Nhưng giống nhau khi đều thừa nhận tính thứ nhất của một nguyên thể[hoặc vật chất, hoặc ý thức]. Hai cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên. Tức là chỉ thừa nhận với tính chất của nguyên thể này đối với nguyên thể kia. Không có chiều ngược lại.

Từ đó hình thành với trường phái nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm. Các nhà nghiên cứu chứng minh với giả thuyết của mình. Với các nhà triết học duy vật và duy tâm. Thực hiện với chứng minh các giả thuyết được đưa ra trong hoạt động nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học. Làm nền tảng với các nghiên cứu sâu hơn.

Cách thứ ba thuộc về triết học nhị nguyên. Với sự tồn tại của cả hai nguyên thể. Và tính chất độc lập, không phụ thuộc hay tác động lẫn nhau.

3.2. Mặt thứ hai – Nhận thức luận

Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?

Đại đa số các nhà triết học đều cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Dù họ theo chủ nghĩa nào. Với các chứng minh gắn với giả thuyết được đặt ra trong quan điểm của họ. Khi đó:

Với các nhà triết học duy vật. Do vật chất có trước và tác động lên ý thức. Nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Tất cả thực hiện với hình thành, vận động và phát triển của thế giới vật chất. Thể hiện với tiếp cận, ý nghĩa của vật chất. Không đến từ các phản ánh với nhận thức của ý thức con người.

Với một số các nhà triết học duy tâm. Nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy. Với các tác động trong nhu cầu của con người. Khi có nhận thức về tầm quan trọng và ý nghĩa trong phát triển thế giới. Tất cả đến từ ý thức tác động và điều chỉnh.

Xem thêm: Phát triển là gì? Nguyên lý về sự phát triển theo Triết học Mác – Lênin?

Một số nhà triết học duy tâm khác theo “Bất khả tri luận”. Họ phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Khi cho rằng các tính chất với nhận thức không được phản ánh.

Theo các cách giải quyết khác nhau, gắn với giả thuyết được thực hiện của các nhà triết học. Từ đó chứng minh với các vận động và phát triển thực tế. Cũng như qua đó mà kết quả của vận động được phản ánh trong thực tế.

Video liên quan

Chủ Đề