Vẻ đẹp chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài Nhàn

Chào em, em tham khảo gợi ý:

Nhàn là một chủ đề lớn trong thơ chữ Hán và rất đậm nét trong thơ chữ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hội tụ đầy đủ những nội dung phong phú, đa dạng của chữ nhàn: “rỗi nhàn”, “thân nhàn”, “phận nhàn”, “thanh nhàn”. Nhàn là sống thuận theo tự nhiên: “Dẫu nhẫn chê khen dầu miệng thế - Cơ cầu tạo hóa mặc tự nhiên”. Nhàn là đối lập với danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”. Nhàn là triết lí, là thái độ sống, là tâm trạng. Qua chữ nhàn mà thấy được chân dung triết gia Trạng Trình, chân dung người thầy Tuyết Giang Phu tử, chân dung bậc đại ẩn Bạch Vân cư sĩ. Dẫu chưa phải là tất cả những qua chữ “nhàn” mà thấy được chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ Nôm số 73 nói trên là bài thơ “Nhàn”, là bức chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm chụp từ 3 góc độ: cuộc sống, tâm hồn, trí tuệ.

Góc độ thứ nhất, Nhàn là bức chân dung cuộc sống Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có thể đề  dưới bức chân dung này ba chữ: thuận, đạm, thanh.

Cuộc sống thuần hậu thể hiện ngay trong hai câu thơ đầu:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như một “lão nông tri điền”, với những công cụ lao động: mai để đào, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá. Cách dùng số từ tính đếm rành rọt: “Một…, một …, một …” cho thấy tất cả đã sẵn sàng, chu đáo.

Câu thơ như đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền” [nước đào giếng, cơm cày ruộng]. Cụ Trạng mà lại về với đời sống tự cung tự cấp thì cũng là một sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà không ngang mà cứ thuần hậu, nguyên thủy: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Ai thơ thẩn? Ai ung dung? Cụ Trạng chứ còn ai? Chữ “ai” vốn để nói về người, ở đây lại nói về mình? Đọc lên nghe thật thú vị.

Cuộc sống bậc đại ẩn am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Sự đạm bạc là ở những thức ăn quê mùa, dân dã như măng trúc, giá đỗ. Các món ăn đạm bạc cây nhà lá vườn này là mình tự lo, là công sức của chính mình. Ăn đã vậy còn ở, còn sinh hoạt? Cũng tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác. 

Đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm đi với thanh. Cuộc sống thanh cao trong sự trở về với tự nhiên, mùa nào thức ấy. Hai câu thơ có một bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Có mùi vị, có hương sắc. Không nặng nề, không ảm đạm. “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá” nói như Xuân Diệu là có cảm giác “ăn giá tuyết, uống băng đông”. “Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” thì vừa có nước trong, vừa có hương thơm thanh quý.

Góc độ thứ hai, Nhàn là bức chân dung tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có hai chữ đề dưới bức chân dung này: đẹp và vui.

Đẹp trong yêu và ghét. Yêu thiên nhiên nên trở về sống với tự nhiên. Yêu đến độ hòa hợp, đến độ giữa con người và thiên nhiên không còn khoảng cách. Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào thiên nhiên cũng là môi trường sống thanh tao. 

Tuyết Giang Phu tử yêu và trọng nhân cách. Về với thiên nhiên, sống hòa thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên khoáng đạt. 

Nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa: 

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao

“Vắng vẻ” đối lập với “lao xao”, “ta” đối lập với “người”. Ta tìm nơi vắng vẻ là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. Người đến chốn lao xao là đến chốn cửa quyền, là đường làm quan. Chốn lao xao, sang trọng thì có ngựa xe tấp nập, kẻ hầu người hạ, thủ đoạn thì có bon chen, luồn lọt, sát phạt. Thơ nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự phủ nhận danh lợi:

Để rẻ công danh đổi lấy nhàn

[Thơ Nôm - Bài 13]

Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, Bạch Vân cư sĩ vui, niềm vui thốt lên thành lời: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. 

Niềm vui như hiện lên trong bước đi ung dung, “thơ thẩn”. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ “thanh thản, thoải mái một cách kì lạ. Đau khổ ư? Lo toan ư? Mệt mỏi ư? Trút sạch sành sanh”. 

Góc độ thứ ba, Nhàn là bức chân dung trí tuệ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có hai từ đề dưới bức chân dung này: sáng suốt và uyên thâm.

Trạng Trình là một bậc thức giả với trí tuệ vô cùng tỉnh táo. Tỉnh táo trong sự chọn lựa: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho “Người khôn, người đến chốn lao xao”. Tỉnh táo trong cách nói đùa vui, ngược nghĩa, dại mà thực chất là khôn còn khôn mà hóa dại. Phải lấy câu thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm để giải thích câu thơ Nôm của ông. Trong bài “Trung Tân ngụ hứng” [Ngụ hứng ở quán Trung Tân], Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

Nhân xảo ngã giả chuyết,

Thùy tri chuyết giả đức.

Ngã chuyết, nhân giả xảo,

Thùy tri xảo giả tặc.

[Người xảo ta thì vụng,

Ấy vụng thế mà hay.

Ta vụng người thì xảo,

Ấy xảo thế mà gay]

“Vụng” và “xảo” không theo nghĩa vụng về và khéo léo. “Vụng” có nghĩa là vụng dại. “Xảo” có nghĩa là khôn ngoan. Nhưng khi tác giả khẳng định “vụng là đức tính tốt” [chuyết giả đức] thì phải hiểu vụng đây là sự ngay thẳng chân thật. “Xảo là giặc” [xảo giả tặc] thì phải hiểu “xảo” chính là sự giả dối, nham hiểm. Ở một bài thơ khác Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

Khôn mà hiểm độc là khôn dại,

Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.

[Thơ Nôm - Bài 94]

Như vậy thì dại, khôn, vụng xảo ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”. 

Trạng Trình là bậc triết gia với trí tuệ uyên thâm. Người đời đã từng dệt nên huyền thoại sấm Trạng Trình biết năm trăm năm về trước, biết năm trăm năm về sau. Thực ra bậc đại trí này nắm vững lẽ biến dịch, hiểu thấu quy luật họa/ phúc, bĩ/ thái, cùng/ thông, đắc/ táng,... Vì vậy mà có nhãn quan tỏ tường. Với cái nhìn thông tuệ thì tìm đến “say” chỉ là để “tỉnh”:

Rượu đến cội cây ta sẽ nhấp,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Cuộc sống nhàn dật này là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ. Trí tuệ nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Trí tuệ nâng cao nhân cách để nhà thơ từ bỏ chốn lao xao quyền quý tìm đến nơi vắng vẻ đạm bạc mà thanh cao.

Chữ nhàn trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là cùng dòng với chữ nhàn của Chu Văn An, Nguyễn Trãi. Những bậc đại hiền này nhàn thân mà không nhàn tâm. Nó khác xa lối sống nhàn “độc thiện kì thân” [làm tốt cho riêng mình]. Ở thơ chữ Hán bài “Tự thuật”, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

Lão lai vị ngải tiên ưu chí,

Đắc, táng, cùng, thông khởi ngã ưu.

[Tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi,

Cùng, thông, được, mất ta đâu có lo cho riêng mình]

Đọc thơ nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm là phải đọc trong mối “tiên ưu” ấy mới có thể hiểu sâu sắc bức chân dung Nhàn của nhà thơ. 

Home - Học tập - Dàn ý cảm nhận về cuộc sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn [3 mẫu]

Để hỗ trợ các em học sinh dễ dàng hơn trong việc xây dựng dàn ý nêu cảm nhận về cuộc sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn, chúng tôi giới thiệu đến các em học sinh bài viết mẫu dưới đây để em tham khảo.

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Cảm nhận vẻ đẹp chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

  • Cảm nhận về vẻ đẹp chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

  • Dàn ý cảm nhận về bài thơ Nhàn ngắn gọn

  • Cảm nhận 4 câu thơ đầu trong bài thơ Nhàn

  • Trình bày suy nghĩ của anh chị về thái độ của tác giả thể hiện trong bài thơ Thói đời 1

  • Cảm nhận nhàn học sinh giỏi

  • Quan điểm sống nhàn của nhân vật trữ tình trong bài thơ gợi cho anh chị suy nghĩ gì

  • Vẻ đẹp lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
cảm nhận vẻ đẹp nhân cách của nguyễn bỉnh khiêm qua bài thơ nhàn

Mục Lục bài viết:
I. Dàn ý chi tiết
II. Bài văn mẫu

Dàn ý cảm nhận về cuộc sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

1. Mở bài

Giới thiệu bài thơ “ Nhàn ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm .

2. Thân bài

– Cuộc sống được Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện qua bài thơ là cuộc sống giản dị, đạm bạc: + Ông giống như một lão nông sống cuộc sống tự cung tự cấp với các dụng cụ mai, cuốc, cần câu. + Dù cho mọi người xung quanh có những thú vui khác thì ông vẫn kiên định với lối sống của mình. + Những bữa ăn đạm bạc với măng trúc, giá đỗ và nếp sinh hoạt nhịp nhàng của bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. – Nhân cách cao quý của tác giả: + Ông chủ động tìm đến cuộc sống “nơi vắng vẻ” để rời xa nơi quan trường thị phi luôn ẩn chứa những lọc lừa, thủ đoạn. + Tự cho mình là kẻ ngu dại nhưng thực chất đó là cái dại của con người có bản lĩnh.

+ Ông quan niệm phú quý giống như một giấc chiêm bao và lên tiếng cảnh tỉnh con người hãy đủ tỉnh táo để không bị danh lợi cám dỗ.

3. Kết bài

Xem thêm: Hướng dẫn cách làm cửa nhôm Việt Pháp chi tiết tỷ mỷ nhất

Khẳng định cuộc sống giản dị và nhân cách cao đẹp của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện trong bài thơ đã làm nên sự thành công của tác phẩm.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho uyên thâm nổi tiếng trong thời kì phân tranh Trịnh – Nguyễn. Sống trong thời loạn lạc, ông không ủng hộ thế lực phong kiến nào mà tìm đường lui về quê ẩn dật theo đúng lối sống của đạo Nho. Bài thơ Nhàn là một trong những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, rút trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập của ông. Bài thơ cho thấy một phần cuộc sống và quan niệm sống của tác giả trong xã hội loạn lạc hiện thời.Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên trong bài thơ là cuộc sống giản dị, đạm bạc [đơn giản] nhưng thanh cao, trong sạch. Mở đầu bài thơ là hai câu thơ:

“Một mai một quốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Với cách sử dụng số đếm:” một” rất linh hoạt, nhịp thơ ngắt nhịp đều đặn 2/2/3 kết hợp với hình ảnh những dụng cụ lao động nơi làng quê: mai, cuộc, cần câu cho ta thấy những công cụ cần thiết của cuộc sống thôn quê . Chính những cái mộc mạc chân chất của những vật liệu lao động thô sơ ấy cho ta thấy được một cuộc sống giản dị không lo toan vướng bận của một danh sĩ ẩn cư nơi ruộng vườn, ngày ngày vui thú với cảnh nông thôn.Không những thế nhwungx câu thơ tiếp theo tiếp tục cho ta thấy được cái bình dị trong cuộc sống thôn quê qua những bữa ăn thường ngày của ông:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

Món ăn của ông là những thức có sẵn ở ruộng vườn, mùa nào thức nấy: măng, trúc, giá,…. những món rất giản dị đời thường. Cuộc sống sinh hoạt của cụ giống như một người nông dân thực thụ, cũng tắm hồ, tắm ao. Hai câu thơ vẽ nên cảnh sinh hoạt bốn mùa của tác giả, mùa nào cũng thong dong, thảnh thơi. Qua đó ta thấy được một cách sống thanh cao, nhẹ nhàng, tránh xa những lo toan đời thường.Ngoài thể hiện cuộc sống đời thường tác giả còn thể hiện triết lí sống, nhân cách của ông:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao ”

Tìm nơi “vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái, hoà nhập với thiên nhiên, lánh xa chốn quan trường, lợi lộc để tìm chốn thanh cao.”Chốn lao xao” là chốn vụ lợi, chạy theo vinh hoa, lợi ích vật chất, giành giật hãm hại lẫn nhau. Rõ ràng Nguyễn Bỉnh Khiêm cho cách sống nhàn nhã là xa lánh không quan tâm tới danh lợi. Tác giả mượn lời nói của đòi thường để diễn đạt quan niệm sống của mình mặc người đời cho là khôn hay dại. Đó cũng chính là quan niệm của Nho sĩ thời loạn vẫn tìm về nơi yên tĩnh để ở ẩn.Nghệ thuật đối: “ta” đối với “người”, “dại” đối với “khôn”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao” tạo sự so sánh giữa hai cách sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả. Không những thế hình ảnh thơ cuối như lần nữa khẳng định triết lí sống của tác giả:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Trong hơi men nồng nàn cùng sự bình yên của làng quê nhà thơ nhận ra phú quý quả thật chỉ là một giấc chiêm bao. Nó cũng sẽ mau chóng tan thành mây khói.

Bài thơ thể hiện được quan niệm của nhà thơ về cuộc đời, đồng thời ta thấy được cuộc sống an nhàn của nhà thơ nơi thôn dã. Đó là một cuộc sống vô cùng giản dị và bình an, đạm bạc nhưng lại rất thanh cao. Nguyên Bỉnh Khiêm đẫ thể hiện lên một tâm hồn một nhân cách sống rất bình dị đời thường, một cốt cách cao đẹp.

Nguyễn Bỉnh Khiêm [1491 – 1585] sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.

Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một mình ta say” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm “độc thiện kỳ thân” của các nhà nho. đồng thời có nét gần gũi với triết lí “vô vi” của đạo Lão, “thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:

Ở thế mới hay người bạc ác Giàu thì tìm đến, khó thì lui

[Thói đời]

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử [Ghét chuột] của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

Để “ lánh đục về trong ”, rời xa chốn quan trường rối ren, tham tàn, những nhà nho xưa thường chọn cho mình đời sống ẩn dật. Bên cạnh Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến …, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một trong số những nhà nho nổi tiếng với lối sống thoát tục này. Bài thơ “ Nhàn ” đã biểu lộ được đời sống đạm bạc và nhân cách cao quý của Bạch Vân Cư Sĩ .Khác với đời sống lúc làm quan trong triều đình, đời sống khi về ở ẩn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thật đơn giản và giản dị :

“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Chỉ với hai dòng thơ trên, bạn đọc có thể hình dung ra được một lão ông đang ung dung, thảnh thơi với cuộc sống của mình. “Mai” là dụng cụ lao động được con người sử dụng vào công việc đào đất, đào giếng. “Cuốc” dùng để lật xới đất, làm tơi xốp đất. Nhờ có cuốc mà những người nông dân có thể trồng rau, lúa, ngô, khoai, sắn phục vụ cho đời sống. Cần câu dùng để câu cá, cải thiện bữa ăn hàng ngày hoặc cũng có thể đó là một thú vui tao nhã của nhà thơ nhằm mục đích thư giãn. Mai, cuốc, cần câu đều là những vật dụng không thể thiếu của nhà nông và dường như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trở thành một lão nông dân thực thụ khi có những vật dụng ấy trong tay…[Còn tiếp]

>> Xem bài mẫu: Cảm nhận về cuộc sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

— — — — — — — HẾT — — — — — — — —

Nhàn là bài thơ đặc sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm viết khi đã cáo quan về ở ẩn, bên cạnh bài cảm nhận về cuộc sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn, các em có thể tìm hiểu thêm về bài thơ thông qua việc tham khảo một số Bài văn hay lớp 10 như: Triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn, Quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên, Cái nhàn của người cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn, Bình giảng bài thơ Nhàn.

Source: //camnangbep.com
Category: Học tập

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Cảm nhận vẻ đẹp chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

  • Cảm nhận về vẻ đẹp chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn

  • Dàn ý cảm nhận về bài thơ Nhàn ngắn gọn

  • Cảm nhận 4 câu thơ đầu trong bài thơ Nhàn

  • Trình bày suy nghĩ của anh chị về thái độ của tác giả thể hiện trong bài thơ Thói đời 1

  • Cảm nhận nhàn học sinh giỏi

  • Quan điểm sống nhàn của nhân vật trữ tình trong bài thơ gợi cho anh chị suy nghĩ gì

  • Vẻ đẹp lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài viết mới nhất

Camnangbep.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây: Viết đoạn văn về vai trò của gia đình đối với mỗi người Viết đoạn văn về vai trò của gia đình đối với mỗi người lớp 6 Viết đoạn văn về vai trò …

Video liên quan

Chủ Đề