Với sự ra đời của khối quân sự Bắc Đại Tây Dương tình hình châu Âu như thế nào

Khi Mĩ thành lập Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương [NATO], Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Vácsava, những sự kiện đó đánh dấu

A. sự khởi đầu tình trạng Chiến tranh lạnh.


B. sự khởi đầu cho Chiến lược toàn cầu.


C. Chiến tranh lạnh đã bao trùm cả thế giới.


D. sự khởi đầu cho cuộc chạy đua vũ trang Xô - Mĩ.

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương [tiếng Anh: North Atlantic Treaty Organization, NATO; tiếng Pháp: Organisation du traité de l'Atlantique nord, OTAN] là một liên minh quân sự dựa trên Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được ký kết vào ngày 4 tháng 4 năm 1949 bao gồm Mỹ, Canada và một số nước ở châu Âu [các nước 2 bên bờ Đại Tây Dương].

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương

Tây Đức gia nhập NATO vào năm 1955, dẫn đến sự hình thành Hiệp ước Warsaw, đối thủ của NATO trong Chiến tranh Lạnh.

Bộ chỉ huy đồng minh châu Âu [Tổng hành dinh tối cao của NATO]

Hiệp ước Brussels là một hiệp ước bảo vệ lẫn nhau giữa các nước Tây Âu để chống lại mối đe dọa ngày càng tăng từ Liên Xô vào đầu Chiến tranh Lạnh. Nó được ký kết vào ngày 17 tháng 3 năm 1948 bởi Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Pháp và Vương quốc Anh. Đó là tiền thân của NATO. Mối đe dọa từ Liên Xô trở nên thực sự đáng lo ngại sau vụ phong tỏa Berlin năm 1948, dẫn đến việc thành lập một tổ chức quốc phòng đa quốc gia giữa các nước Tây Âu, Tổ chức Quốc phòng Liên hiệp Phương Tây, vào tháng 9 năm 1948. Tuy nhiên, các nước thành viên của tổ chức lúc đó quá yếu về quân sự để có thể chống lại Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Bên cạnh đó, tại Tiệp Khắc vào năm 1948 một cuộc đảo chính của những người cộng sản đã diễn ra thành công và Ngoại trưởng Anh Ernest Bevin tin rằng cách tốt nhất để ngăn chặn các quốc gia khác rơi vào tình trạng như Tiệp Khắc đó là phát triển một chiến lược quân sự giữa các nước phương Tây. Ông có một buổi điều trần tiếp nhận tại Hoa Kỳ, đặc biệt là xem xét sự lo lắng của Mỹ đối với Ý [và Đảng Cộng sản Ý][5]

Năm 1948, các nhà lãnh đạo châu Âu đã gặp các quan chức quốc phòng, quân sự và ngoại giao Mỹ tại Lầu Năm Góc, dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ George C. Marshall để đàm phán về một liên minh quân sự mới giữa các nước Phương Tây. Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, được ký bởi Tổng thống Mỹ Harry S. Truman tại Washington vào ngày 4 tháng 4 năm 1949, đánh dấu sự thành lập của NATO. Vào ngày mới được thành lập, NATO bao gồm năm quốc gia thuộc Hiệp ước Brussels cộng với Hoa Kỳ, Canada, Bồ Đào Nha, Ý, Na Uy, Đan Mạch và Iceland [6].

Các thành viên tham gia Hiệp ước cam kết rằng bất cứ cuộc tấn công vũ trang nào chống lại một trong số họ ở châu Âu hoặc Bắc Mỹ sẽ được coi là một cuộc tấn công chống lại tất cả các thành viên còn lại trong khối. Do đó, họ thỏa thuận với nhau rằng, nếu một cuộc tấn công vũ trang xảy ra, tất cả các nước thành viên còn lại, sẽ có trách nhiệm giúp đỡ thành viên bị tấn công, bao gồm cả việc sử dụng vũ trang, để khôi phục và duy trì an ninh của khu vực Bắc Đại Tây Dương.

Sự ổn định chính trị đã dần dần khôi phục nền kinh tế Tây Âu và sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ sau chiến tranh đã bắt đầu. Những năm tiếp theo, NATO đã có thêm những thành viên mới: Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1952, và Tây Đức vào năm 1955. Để phản ứng trước sự gia nhập NATO của Tây Đức, Liên bang Xô viết và các quốc gia Đông Âu vệ tinh đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Warsaw năm 1955. Chiến tranh Lạnh bao trùm toàn châu Âu.

Các thành viên NATOSửa đổi

Thành viên sáng lậpSửa đổi

  • Mỹ
  • Anh
  • Pháp
  • Bỉ
  • Bồ Đào Nha
  • Canada
  • Đan Mạch
  • Hà Lan
  • Iceland
  • Luxembourg
  • Na Uy
  • Ý

Ba thành viên của NATO là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc với quyền phủ quyết và là các nước sở hữu vũ khí hạt nhân: Mỹ, Pháp và Anh. Trụ sở chính của NATO đặt tại Brussels, Bỉ,[7], nơi Supreme Allied Commander tọa lạc. Bỉ là một trong 29 quốc gia thành viên NATO tại Bắc Mỹ và châu Âu, và mới nhất trong số các thành viên là các nước Albania và Croatia, tham gia vào tháng 4 năm 2009. Một 22 quốc gia khác tham gia với tư cách đối tác quan hệ của NATO trong chương trình Hòa bình, và 15 quốc gia khác tham gia vào các chương trình đối thoại thể chế hóa. Chi phí quân sự của NATO chiếm 70% chi phí quân sự thế giới, riêng Mỹ chiếm khoảng 50%, Anh, Pháp, Đức và Ý gộp lại chiếm 15% chi phí quân sự thế giới.[8] Chi phí của các thành viên NATO dự tính là 2% GDP.[9]

Thành viên trong Chiến tranh LạnhSửa đổi

  • Thổ Nhĩ Kỳ [18 tháng 2 năm 1952]
  • Hy Lạp [18 tháng 2 năm 1952]
  • CHLB Đức [9 tháng 5 năm 1955]
  • Tây Ban Nha [30 tháng 5 năm 1982]

Thành viên Đông Âu sau Chiến tranh LạnhSửa đổi

  • Ba Lan [12 tháng 3 năm 1999]
  • Cộng hoà Séc [12 tháng 3 năm 1999]
  • Hungary [12 tháng 3 năm 1999]
  • Bulgaria [29 tháng 3 năm 2004]
  • Estonia [29 tháng 3 năm 2004]
  • Latvia [29 tháng 3 năm 2004]
  • Litva [29 tháng 3 năm 2004]
  • România [29 tháng 3 năm 2004]
  • Slovakia [29 tháng 3 năm 2004]
  • Slovenia [29 tháng 3 năm 2004]
  • Croatia [1 tháng 4 năm 2009]
  • Albania [1 tháng 4 năm 2009]
  • Montenegro [5 tháng 6 năm 2017]
  • Bắc Macedonia [27 tháng 3 năm 2020]

Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập tổ chức vào tháng 2 năm 1952. Năm 1955, Cộng hoà Liên bang Đức [lúc đó chỉ có phần Tây Đức] gia nhập, năm 1990 nước Đức thống nhất mở rộng tư cách thành viên cho vùng lãnh thổ Đông Đức tức Cộng hoà Dân chủ Đức cũ. Tây Ban Nha gia nhập ngày 30 tháng 5 năm 1982. Năm 1999, 3 nước thành viên khối Warszawa cũ gia nhập NATO là Ba Lan, Cộng hoà Séc và Hungary.

Pháp là một thành viên NATO, nhưng năm 1966 đã rút khỏi bộ chỉ huy quân sự. Sau đó tổng hành dinh NATO chuyển từ Paris đến Bruxelles. Tháng 4 năm 2009, Pháp quay trở lại bộ chỉ huy quân sự NATO, trở thành thành viên đầy đủ, chấm dứt 43 năm vắng bóng. Iceland là thành viên duy nhất của NATO không có quân đội riêng vì thế lực lượng Quân đội Hoa Kỳ thường trực tại Iceland đảm nhiệm vai trò Lực lượng Phòng vệ Iceland.

Ngày 29 tháng 3 năm 2004, Slovenia, Slovakia, các nước khối Warszawa cũ gồm Bulgaria, Romania, các nước vùng Baltic thuộc Liên Xô trước đây là Estonia, Latvia và Litva chính thức gia nhập NATO. Tháng 4 cùng năm, các nước này lần đầu tiên dự họp hội đồng NATO.

Ngày 1 tháng 4 năm 2009, Croatia và Albania chính thức được kết nạp vào NATO sau 1 năm nộp đơn xin gia nhập. Montenegro trở thành thành viên thứ 29 của NATO vào năm 2017.

Ngày 27 tháng 3 năm 2020, Bắc Macedonia trở thành thành viên thứ 30 của NATO.

Ngoài ra, NATO còn có chương trình hành động thành viên [MAP]. Hiện tại MAP gồm Gruzia, Ukraina và Bosnia-Herzegovina.

Bản đồ lớnSửa đổi

NATO ở châu Âu Đối tác NATO toàn cầu

Thành viên NATO

Đã nộp đơn gia nhập

Chương trình hành động cộng tác riêng lẻ

Đối tác hòa bình

Đối thoại Địa Trung Hải

Sáng kiến Hợp tác Istanbul

Đối tác toàn cầu
Albania
Bắc Macedonia
Bỉ
Bulgaria
Canada
Croatia
Cộng hòa Séc
Đan Mạch
Estonia
Pháp
Đức
Hy Lạp
Hungary
Iceland
Italia
Latvia
Litva
Luxembourg
Montenegro
Hà Lan
Na Uy
Ba Lan
Bồ Đào Nha
România
Slovakia
Slovenia
Tây Ban Nha
Thổ Nhĩ Kỳ
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Mỹ
Bosnia-Herzegovina Armenia
Azerbaijan
Bosnia-Herzegovina
Gruzia
Kazakhstan
Moldova
Montenegro
Ukraina
Armenia
Áo
Azerbaijan
Belarus
Bosnia
Phần Lan
Gruzia
Ireland
Kazakhstan
Kyrgyzstan
Macedonia
Malta
Moldova
Montenegro

Serbia
Thụy Điển
Thụy Sĩ
Tajikistan
Turkmenistan
Ukraina
Uzbekistan
Algérie
Ai Cập
Israel
Jordan
Mauritanie
Maroc
Tunisia
Bahrain
Kuwait
Qatar
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Afghanistan
Australia
Colombia
Iraq
Nhật Bản
Mông Cổ
Pakistan
New Zealand
Hàn Quốc

Quan hệ Nga-NATOSửa đổi

Theo NATO, trong hơn hai thập kỷ, NATO đã cố gắng xây dựng quan hệ đối tác với Nga, đối thoại và hợp tác với Nga trong các lĩnh vực hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên quan hệ này bị rạn nứt khi NATO cáo buộc Nga can thiệp quân sự vào Ukraina nhưng NATO vẫn giữ các kênh đối thoại chính trị và quân sự với Nga. NATO tiếp tục quan tâm đến các hoạt động quân sự của Nga sau sự kiện Ukraina.[10] Về phần mình, Nga cũng đổ lỗi khủng hoảng tại Ukraina năm 2014 là do NATO gây ra khi không giữ vững các cam kết trước đó với Nga cũng như đã tiến hành lật đổ chính quyền hợp pháp tại đây bằng đảo chính.[11] Trên thực tế, Nga và NATO luôn tồn tại rất nhiều bất đồng.

Theo Học thuyết quân sự Liên bang Nga, Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga được tổ chức theo nguyên tắc phòng thủ, không đe dọa sử dụng vũ lực và ngăn chặn xung đột nhằm bảo vệ hòa bình và các lợi ích quốc gia của Nga, các đồng minh [bao gồm các lợi ích của công dân, xã hội và nhà nước] khi các biện pháp chính trị, kinh tế, ngoại giao, pháp lý và các biện pháp phi bạo lực khác không có tác dụng. Trong Học thuyết quân sự, Nga coi việc NATO sử dụng năng lực tiềm tàng của mình để vi phạm luật pháp quốc tế thông qua quá trình bành trướng là một mối đe dọa quân sự đối với Nga ngang hàng với các nguy cơ về gây mất ổn định nội bộ của các quốc gia, khu vực, thế giới; triển khai quân đột xuất ở các quốc gia có biên giới tiếp giáp với Nga hoặc biên giới tiếp giáp với đồng minh của Nga; các hệ thống phòng thủ và tấn công gây mất cân bằng hạt nhân chiến lược toàn cầu; sự phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; sử dụng lực lượng vũ trang không theo luật pháp quốc tế và hiến chương Liên Hợp Quốc; thành lập những chính phủ chống Nga và đồng minh mà không thông qua bầu cử hợp pháp tại các quốc gia láng giềng của Nga và đồng minh; chủ nghĩa khủng bố và lợi dụng chống khủng bố để gây phương hại cho Nga và đồng minh...Chính sách đối ngoại của Nga với NATO là đối thoại trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau nhằm xây dựng nền an ninh với nền tảng không liên kết và có tính tập thể [collective non-aligned], Nga và NATO cùng nhau củng cố vai trò của Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu [OSCE].[12]

Chính sách Đông tiến [bành trướng] của NATO và sự lo ngại của NgaSửa đổi

Chính sách kết nạp các thành viên cũ trong khối Xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu và các nước thuộc không gian hậu Xô viết bị Nga lên án là hành động vi phạm Hiệp ước Các Lực lượng Vũ trang Thông thường ở châu Âu [CFE] khi Hiệp định này nghiêm cấm các thành viên cũ trong khối Xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu và các nước thuộc không gian hậu Xô viết gia nhập NATO[13]. Bên cạnh đó Nga cũng cáo buộc NATO không giữ đúng cam kết về duy trì mức trần về số lượng vũ khí thông thường. Việc NATO mở rộng về phía Đông là một trong các nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng chính trị tại Ukraina. Về cơ bản, NATO mở rộng về phía Đông đã tái khẳng định địa vị lãnh đạo toàn cầu của Mỹ, không gian an ninh và không gian sinh tồn của Nga dần bị thu hẹp, bố cục an ninh địa chính trị của châu Âu thay đổi đáng kể[14].

Hoa Kỳ chủ trương duy trì NATO và thúc đẩy chính sách Đông tiến của NATO, biến đây trở thành lý do để NATO tồn tại sau Chiến tranh Lạnh. Nga tuy thừa kế vị thế pháp lý của Liên Xô nhưng không thể hùng mạnh một cách toàn diện như Liên Xô trước kia. Tuy nhiên, Nga vẫn là một cường quốc ở châu Âu và chính sách Đông tiến của NATO là để kiềm chế Nga[14].

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, NATO tiến hành 3 đợt Đông tiến. Ngay trong lần mở rộng đầu tiên, biên giới NATO đã được mở về phía Đông thêm 900km, quân số tăng thêm 13 Sư đoàn, tiếp nhận toàn bộ vũ khí-khí tài các thành viên mới và Đông Đức. Điều này khiến cho cán cân Nga-NATO mất cân bằng nghiêm trọng. Tổng quân số NATO gần 5 triệu quân [chưa tính quân số của Hoa Kỳ và các nước ngoài châu Âu], trong khi đó Nga có 3,2 triệu. ngày 27/5/1997 đã ký kết "Văn kiện cơ bản về quan hệ, hợp tác và an ninh giữa Nga với NATO". Trong văn kiện, NATO cam kết sẽ để Nga có quyền phát ngôn ở mức độ nhất định đối với các sự vụ của NATO. Hơn nữa NATO bảo đảm không bố trí vũ khí hạt nhân trong lãnh thổ các nước thành viên mới.[14].

Chính sách Đông tiến đã xâm phạm đến sân sau của Nga và đe dọa đến lợi ích chiến lược cốt lõi của nước này, một điều mà Tổng thống Nga Vladimir Putin đã nhấn mạnh và lặp lại nhiều lần. Tổng thống Boris Yeltsin đã nói: "Đây là dấu hiệu đầu tiên về điều có thể xảy ra khi NATO tiến gần đến biên giới của Liên bang Nga. … Ngọn lửa chiến tranh có thể bùng cháy và trải khắp châu Âu" khi NATO mở rộng lần thứ nhất sau chiến tranh Lạnh[13]. Ngoại trưởng Nga Lavrov đã công bố các tài liệu chứng minh rằng NATO từng hứa với Liên Xô và Nga rằng NATO không bao giờ mở rộng về phía Đông[15].

Hệ thống phòng thủ tên lửa của NATO tại Đông Âu và sự lo ngại của NgaSửa đổi

Bên cạnh chính sách Đông tiến, hệ thống phòng thủ tên lửa của NATO tại Đông Âu cũng bị Nga coi là một mối đe dọa khác. Mặc dù NATO tuyên bố hệ thống này làm nhằm chống lại các mối đe dọa từ Iran nhưng Nga cho rằng sự thiếu cân bằng trong việc triển khai lực lượng giữa Đông Âu-Địa Trung Hải là minh chứng cho sự bao vây Nga[16]. Bên cạnh đó, việc Iran không có khả năng tấn công châu Âu nên thực tế hệ thống này là để kiềm chế Nga[17]. Năm 2001, Chính quyền của Tổng thống Mỹ G. W. Bush đã đơn phương tuyên bố rút khỏi Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo [ABM], mà Mỹ và Liên Xô đã ký kết năm 1972 để xây dựng hệ thống này khiến Nga cực kỳ lo ngại khi Hiệp ước này là nền tảng để hai bên duy trì thế cân bằng lực lượng.[18].

Để đáp trả, Nga đã lên kế hoạch việc nâng cấp khả năng tấn công bằng tên lửa của mình, trong đó có kế hoạch triển khai tên lửa đạn đạo chiến thuật 9K720 Iskander tại Kaliningrad, Krashnodar [Nga] và Belarus[19].

Ngày 13/05/2015, Nga đã phản ứng gay gắt khi Hoa Kỳ đưa hệ thống phòng thủ tên lửa ở Đông Âu chính thức đi vào hoạt động. Hệ thống này trị giá 800 triệu USD. Ngoài ra Nga cũng thành lập 3 sư đoàn mới tại miền Tây nước này để làm đối trọng với NATO[20]

Phát ngôn viên điện Kremlin Dmitri S. Peskov nói rằng: "Ngay từ đầu, các chuyên gia quân sự của Nga đã bị thuyết phục rằng hệ thống tên lửa này tạo ra một mối đe dọa lớn với Liên bang Nga"[21]

NATO và kế hoạch thành lập quân đội riêng của Liên minh châu ÂuSửa đổi

Hiện tại, để khắc phục những nhược điểm của NATO cũng như để độc lập hơn với Hoa Kỳ trong chính sách đối ngoại và phòng thủ, Liên minh châu Âu đã đưa ra đề xuất thành lập một quân đội riêng của các nước trong khối. Cả ông Jean-Claude Juncker – Chủ tịch Ủy ban châu Âu – lẫn bà Federica Mogherini – Cao ủy Liên minh Châu Âu về Đối ngoại [tương đương Ngoại trưởng của khối] đều ủng hộ kế hoạch này.[22] Tiến trình này trước đây bị Anh phản đối do lo ngại lực lượng vũ trang này sẽ cạnh tranh với NATO. Theo Anh, kế hoạch này sẽ làm hỏng chính sách phòng thủ của EU.[23] Tuy nhiên, từ sau khi Anh rời EU, kế hoạch này lại được nối lại. Việc thành lập lực lượng vũ trang riêng của EU rất được Đức, Pháp, hai nước chủ chốt trong khối, ủng hộ.[24] Về phía Hoa Kỳ, việc thành lập quân quân đội EU sẽ khiến nước này giảm bớt chi phí dành cho các nước đồng minh ở châu Âu thông qua NATO, không phải can thiệp vào những công việc của riêng châu Âu, nhưng ít có ảnh hưởng tới lợi ích của Hoa Kỳ như những sự việc ở Balkan.[25] Việc bà Mogherini tuyên bố quân đội EU sẽ làm việc độc lập với NATO đã làm gia tăng lo ngại rằng quân đội EU sẽ thay thế vai trò của NATO ở châu Âu. Hungary, Italia và Séc đều ủng hộ kế hoạch này.[26] Tờ Người Bảo vệ của Anh cho rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ việc thành lập quân đội này nếu nó giải quyết được vấn đề "năng lực quân sự các nước châu Âu ngày càng xuống dốc". Tờ báo này cũng nhấn mạnh rằng hiện tại châu Âu không thiếu một quân đội mà thiếu một cam kết về phòng thủ giữa các nước Châu Âu và xuyên Đại Tây Dương.[27] Ngày 22 tháng 11 năm 2016, Liên minh châu Âu đã đưa ra cam kết quân đội riêng của khối sẽ đi vào hoạt động vào năm 2017.[28] Theo ông Sergey Rastoltsev thuộc Viện Kinh tế Thế giới và Quan hệ Quốc tế Primakov, thuộc Học viện Khoa học Liên bang Nga, quân đội EU có thể khiến quan hệ chính trị-quân sự giữa Nga–EU thêm căng thẳng nhưng trong trường hợp quan hệ Nga–EU được cải thiện, quân đội EU cũng có thể tạo ra nhiều cơ hội hợp tác hơn giữa Nga–EU nếu so với vai trò của NATO do NATO vốn dĩ là một vết tích từ thời Chiến tranh Lạnh và do sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ lên quan hệ Nga–EU cũng sẽ bị giảm bớt khi quân đội này không có Hoa Kỳ tham gia như NATO.[29]

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ “The Official motto of NATO”. NATO [bằng tiếng Anh]. ngày 20 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2013.
  2. ^ "English and French shall be the official languages for the entire North Atlantic Treaty Organization.", Final Communiqué following the meeting of the North Atlantic Council on 17 tháng 9 năm 1949. "[..]the English and French texts [of the Treaty] are equally authentic[...]"The North Atlantic Treaty, Article 14
  3. ^ Albania, Croatia join NATO military alliance, AFP, 1 tháng 4 năm 2009
  4. ^ “Bắc Macedonia gia nhập NATO”. Báo Đồng Nai. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  5. ^ Pedaliu 2003, p. 97.
  6. ^ “A short history of NATO”. NATO. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2017.
  7. ^ Boulevard Leopold III-laan, B-1110 BRUSSELS, which is in Haren, part of the City of Brussels. “NATO homepage”. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2006.
  8. ^ “The SIPRI Military Expenditure Database”. Milexdata.sipri.org. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2010.
  9. ^ Erlanger, Steven [ngày 26 tháng 3 năm 2014]. “Europe Begins to Rethink Cuts to Military Spending”. nytimes.com. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2014. Last year, only a handful of NATO countries met the target, according to NATO figures, including the United States, at 4.1 percent, and Britain, at 2.4 percent.
  10. ^ Relations with Russia, NATO Website
  11. ^ Why the Ukraine Crisis Is the West’s Fault | Foreign Affairs
  12. ^ //www.offiziere.ch/wp-content/uploads-001/2015/08/Russia-s-2014-Military-Doctrine.pdf
  13. ^ a b #207 - Tại sao cuộc khủng hoảng Ukraine là do lỗi của phương TâyNghiên cứu quốc tế
  14. ^ a b c “NATO mở rộng về phía Đông từ cuộc khủng hoảng Ukraine”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2016.
  15. ^ Putin: 2 gọng kìm của NATO mưu bóp nghẹt nước Nga
  16. ^ Nga Mỹ và cuộc chạy đua lá chắn tên lửa tại châu Âu
  17. ^ Mỹ đưa hệ thống phòng thủ tên lửa châu Âu vào hoạt động: Nga phản ứng gay gắt
  18. ^ Hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ tại châu Âu - nhân tố gây mất ổn định khu vực và thế giới - Tạp chí Quốc phòng toàn dân
  19. ^ //www.vietnamplus.vn/nga-doa-trien-khai-ten-lua-chien-thuat-tai-belarus/116935.vnp
  20. ^ Nga thành lập 3 sư đoàn mới, đối trọng với NATO | Báo Giao thông
  21. ^ Russia Calls New U.S. Missile Defense System a ‘Direct Threat’ - The New York Times
  22. ^ //www.express.co.uk/news/world/684549/EU-cannot-rely-NATO-needs-new-defence-policy-chief
  23. ^ //www.reuters.com/article/us-eu-defence-idUSKCN11X00G
  24. ^ The European Union Wants an Army of Its Own | VICE News
  25. ^ Should the European Union Have Its Own Army?
  26. ^ Europe forges ahead with plans for 'EU army'
  27. ^ Is there a secret plan to create an EU army? | Politics | The Guardian
  28. ^ European Union Confirm EU Army Will Launch In 2017 - Your News Wire
  29. ^ “The pros and cons of a European Army | Russia Direct”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2016.

Tham khảoSửa đổi

  • David C. Isby & Charles Kamps Jr, Armies of NATO's Central Front, Jane's Publishing Company Ltd 1985

Đọc thêmSửa đổi

Đọc thêm – Giai đoạn đầu

  • Francis A. Beer. Integration and Disintegration in NATO: Processes of Alliance Cohesion and Prospects for Atlantic Community. [Columbus: Ohio State University Press, 1969], 330 pp.
  • Francis A. Beer. The Political Economy of Alliances: Benefits, Costs, and Institutions in NATO. [Beverly Hills: Sage, 1972], 40 pp.
  • Eisenhower, Dwight D. The Papers of Dwight David Eisenhower. Vols. 12 and 13: NATO and the Campaign of 1952: Louis Galambos et al., ed. Johns Hopkins University Press, 1989. 1707 pp. in 2 vol.
  • Gearson, John and Schake, Kori, ed. The Berlin Wall Crisis: Perspectives on Cold War Alliances Palgrave Macmillan, 2002. 209 pp.
  • John C. Milloy. North Atlantic Treaty Organisation, 1948–1957: Community or Alliance? [2006], focus on non-military issues
  • Smith, Joseph, ed. The Origins of NATO Exeter, UK University of Exeter Press, 1990. 173 pp.

Đọc thêm – Giai đoạn Chiến tranh Lạnh sắp kết thúc

  • Smith, Jean Edward, and Canby, Steven L.The Evolution of NATO with Four Plausible Threat Scenarios. Canada Department of Defence: Ottawa, 1987. 117 pp.

Đọc thêm – Giai đoạn hậu Chiến tranh lạnh

  • Asmus, Ronald D. Opening NATO's Door: How the Alliance Remade Itself for a New Era Columbia University Press, 2002. 372 pp.
  • Bacevich, Andrew J. and Cohen, Eliot A. War over Kosovo: Politics and Strategy in a Global Age. Columbia University Press, 2002. 223 pp.
  • Daclon, Corrado Maria Security through Science: Interview with Jean Fournet, Assistant Secretary General of NATO, Analisi Difesa, 2004. no. 42
  • Gheciu, Alexandra. NATO in the 'New Europe' Stanford University Press, 2005. 345 pp.
  • Hendrickson, Ryan C. Diplomacy and War at NATO: The Secretary General and Military Action After the Cold War University of Missouri Press, 2006. 175 pp.
  • Lambeth, Benjamin S. NATO's Air War in Kosovo: A Strategic and Operational Assessment Santa Monica, Calif.: RAND, 2001. 250 pp.

Đọc thêm – Lịch sử chung

  • Alasdair, Roberts [2002/2003]. “NATO, Secrecy, and the Right to Information” [PDF]. East European Constitutional Review. New York University — School of Law. 11/12 [4/1]: 86–94. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2006. Chú thích có các tham số trống không rõ: |laydate=, |laysummary=, và |laysource= [trợ giúp]; Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |year= [trợ giúp]
  • Kaplan, Lawrence S. The Long Entanglement: NATO's First Fifty Years. Praeger, 1999. 262 pp.
  • Kaplan, Lawrence S. NATO Divided, NATO United: The Evolution of an Alliance. Praeger, 2004. 165 pp.
  • Létourneau, Paul. Le Canada et l'OTAN après 40 ans, 1949–1989 Quebec: Cen. Québécois de Relations Int., 1992. 217 pp.
  • Paquette, Laure. NATO and Eastern Europe After 2000 [New York: Nova Science, 2001].
  • Powaski, Ronald E. The Entangling Alliance: The United States and European Security, 1950–1993. Greenwood Publishing Group, 1994. 261 pp.
  • Telo, António José. Portugal e a NATO: O Reencontro da Tradiçoa Atlântica Lisbon: Cosmos, 1996. 374 pp.
  • Sandler, Todd and Hartley, Keith. The Political Economy of NATO: Past, Present, and into the 21st Century. Cambridge Uiversity Press, 1999. 292 pp.
  • Zorgbibe, Charles. Histoire de l'OTAN Brussels: Complexe, 2002. 283 pp.

Đọc thêm – Các vấn đề khác

  • Kaplan, Lawrence S., ed. American Historians and the Atlantic Alliance. Kent State University Press, 1991. 192 pp.

Liên kết ngoàiSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về NATO.
  • Website chính thức của NATO
  • History of NATO – the Atlantic Alliance - UK Government site
  • Basic NATO Documents
  • 'NATO force 'feeds Kosovo sex trade' [The Guardian]
  • NATO Maintenance and Supply Agency [NAMSA] Official Website
  • NATO Consultation, Command and Control Agency [NC3A] Official Website Lưu trữ 2009-01-14 tại Wayback Machine
  • Joint Warfare Centre
  • NATO Response Force Article Lưu trữ 2003-06-20 tại Wayback Machine
  • NATO searches for defining role
  • Official Article on NATO Response Force
  • World Map of NATO Member Countries
  • Congressional Research Service [CRS] Reports regarding NATO Lưu trữ 2008-05-12 tại Wayback Machine
  • Balkan Anti NATO Center, Greece
  • NATO Defense College
  • Atlantic Council of the United States Lưu trữ 2003-12-22 tại Wayback Machine
  • CBC Digital Archives - One for all: The North Atlantic Treaty Organization
  • NATO at Fifty: New Challenges, Future Uncertainties Lưu trữ 2008-05-14 tại Wayback Machine U.S. Institute of Peace Report, tháng 3 năm 1999
  • NATO at 50 Lưu trữ 2008-05-02 tại Wayback Machine
  • Ukraine shelves bid to join NATO[liên kết hỏng]

Video liên quan

Chủ Đề