Bánh tày là bánh gì

Mẹ bảo bánh tầy là biểu tượng của tình thân, con đi mang theo bánh tầy do chính nhà mình làm là đem theo cả gia đình bên mình…

Người dân quê tôi không có thói quen làm bánh tét, bánh chưng vào ngày Tết như những vùng quê khác. Ở ngôi làng nhỏ nằm khép mình bên dòng sông Bồ [Thừa Thiên - Huế] này, người ta chọn những chiếc bánh tầy nhỏ xinh để cúng gia tiên, mời bạn bè đến thăm nhà và làm món quà quê cho khách phương xa vào ngày Tết.

Điều đặc biệt của bánh tầy quê tôi là không có nhân đậu xanh, thịt heo ở giữa như bánh bánh chưng, bánh tét. Bánh tầy chỉ làm từ hai chất liệu chính là nếp dẻo thơm và đậu huyết [nhiều nơi gọi là đậu đỏ] hoặc đậu phộng, được bọc ngoài bằng lá chuối hoặc lá dong và luôn được cột thành từng cặp đôi. Trước khi gói bánh, nếp dẻo và đậu huyết thường được ngâm trước vài giờ cho mềm dẻo, sau đó xóc đều nếp và đậu, trộn vào thêm chút muối. Bấy giờ, các bác các anh các chị khéo tay sẽ trổ tài làm nên những cặp bánh tầy được bẻ gãy gọn và cột chặt thành đôi. Một cặp bánh tầy ngon là mở ra thơm ngát, ăn mãi không ngán bởi vị ngòn ngọt, mằn mặn của bánh.

Một năm rong ruổi trên khắp đường đời, buồn vui xen lẫn những ấm ức, bực dọc phải nuốt vội. Ngày cận Tết trở về với gia đình cùng nụ cười trên môi cho mẹ cha an lòng nhưng trái tim nhiệt huyết của tuổi trẻ, tâm hồn trong sáng của cô gái trẻ trong tôi lại vơi bớt đi một phần theo những va vấp của cuộc đời. Cũng bắt đầu nhiễm thói quen cuộc sống công nghiệp, tôi mua về cho gia đình đủ các thứ bánh mứt và khệnh khạng chở về nhà. Cha mẹ tôi không nói gì, ngày cận Tết bánh tầy vẫn được làm.

Năm nay quê tôi hạn nặng, không có lũ đem phù sa về. Cha mẹ thở dài vậy là sang năm sẽ thất thu mùa lúa nếp, chiếc bánh tầy sang năm có lẽ sẽ không ngon bằng năm này. Tôi nhủ thầm cha mẹ lo hão. Năm này mà lo đến sang năm. Em gái tôi nói nhỏ: Mỗi năm chị chỉ quày quả về nhà một lần rồi lại gấp gáp ra đi, chị có biết bánh tầy nhà mình làm ngày một xấu, một dở đi không bởi không còn ai hứng thú làm, chỉ có mẹ cha gầy yếu lom khom ngồi làm, ruộng nếp nhà mình cũng không còn ai trông khi anh Hai cũng quyết lên thành phố. Bánh tầy nhà mình ít dẻo hơn rồi chị ơi…

Tóc cha đã bạc trắng, lưng mẹ đã khòm, lũ con lớn khôn mỗi năm luôn hứa sẽ tề tựu đông đủ vào ngày Tết nhưng đã vài năm nay có đứa này thì thiếu đứa kia bởi đủ lý do, và lý do mới phát sinh nhất của em út tôi là Tết không về thì dịp khác trong năm lại về. Nhìn bánh tầy buồn chỏng chơ.

Tiếng em út giọng lạc hẳn trên máy. Chị ơi thương mẹ cha quá. Tết năm đến chị em mình không làm thêm gì hết, về nhà chỉ để gói bánh tầy thôi chị nhé...

MINH HẠNH

Trong tiết trời sang thu, được ngắm nhìn làn khói bếp ấm bay và thưởng thức món bánh tày thơm dẻo nồng vị quê chắc chẳng gì sánh bằng. Xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh [Hà Tĩnh] là một trong những nơi hiếm hoi còn sót lại vẫn còn lưu giữ cách làm bánh tày truyền thống - “bánh tày Voi” nức tiếng xa gần.

Câu chuyện của những người bán bánh đầu ngã ba chợ Voi [xã Kỳ Phong, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh] giúp chúng tôi hiểu thêm cái tên loại bánh gắn liền với ngôi chợ lâu nay. Bà Nguyễn Thị Huân [thôn Tân Phong, Kỳ Phong], người có thâm niên bán bánh tày ở chợ Voi gần 30 năm nay chia sẻ: "Sở dĩ có cái tên "bánh tày chợ Voi" vì bao nhiêu đời người làm bánh tày ở xã Kỳ Bắc đều đưa bánh lên chợ Voi để bán, như thành nếp quen, du khách xa gần cứ gọi theo cái tên "bánh tày chợ Voi" để dễ nhớ, dễ quen..."

“Bánh tày chợ Voi” vốn là món ăn dân dã của người dân lao động, cho nên các nguyên liệu làm bánh cũng xuất phát từ những nguồn nguyên liệu giản đơn, gần gũi đó là đậu xanh và thịt lợn, mỡ hành...

... và gạo nếp trắng...

Lá chuối rừng dùng để gói

Theo kinh nghiệm của nhiều hộ dân gói bánh cho biết, sở dĩ lá gói bánh được dùng bằng lá chuối rừng thay cho lá chuối thông thường bởi mùi thơm đặc trưng từ lá, màu sắc đẹp mắt cho bánh khi đã nấu chín và đặc biệt bánh gói bằng loại lá này không bị chát, đắng...

Hơn 20 năm gắn với nghề gói bánh tày truyền thống, anh Nguyễn Văn Lợi [thôn Hợp Tiến, xã Kỳ Bắc] chia sẻ: "Tôi không nhớ rõ bánh tày có tự bao giờ nhưng riêng với gia đình tôi, thì tới tôi là đời thứu 3 được truyền nghề. Hiện gia đình cả 4 anh em trai đều theo nghề này. Hồi trước nghề gói bánh tày chỉ được xem là nghề phụ lúc nông nhàn nhưng giờ đây nó trở thành nghề chính giúp gia đình chúng tôi trang trải cuộc sống. Hiện, ở xã Kỳ Bắc chỉ còn trên dưới 10 hộ còn theo nghề này"

Chia sẻ kinh nghiệm làm bánh tày ngon, anh Lợi nói: "Bánh tày muốn ngon ngoài những nguyên liệu phải được chọn lựa kĩ lưỡng thì quá trình gói bánh cũng đòi hỏi người thợ phải có kỹ thuật. Khi gói bánh phải chèn lá, gói chặt tay nhưng không để rách lá để bánh có khuôn đẹp và tránh bánh bị vỡ khi luộc"

Để nấu bánh, bánh phải được đổ ngập nước....

... và được đun trong vòng 4 tiếng, khi nước hơi cạn thì tiếp tục thêm nước vào

Bánh được luộc đúng độ sẽ cho mẻ bánh chuẩn chất lượng

Bánh chín, nhìn bên ngoài lá sẽ ngả vàng úa nhẹ

Nhân bánh đậm đà, dậy vị, đặc biệt khi thưởng thức món bánh này người làng bánh “bật mí” cách ăn đúng điệu thì nên ăn cùng với mật mía

Thu Trang

Thu Trang

BÀN LẠI TÊN GỌI BÁNH CHƯNG - BÁNH GIÀY - BÁNH TÀY - BÁNH TÉT

VIÊN NHƯ

 

Nói đến bánh chưng, bánh giày ở nước ta ai mà chẳng biết, bên cạnh là một thực phẩm, nó còn là vật phẩm biểu tượng có tính thiêng liêng dùng để cúng hiến tổ tiên trong ngày tết. Chuyện bánh chưng, bánh giày được ghi lại trong sách “Lĩnh Nam chích quái” [LNCQ], tương truyền do Trần Thế Pháp sưu tập ghi lại từ thế kỷ XV. Tuy nhiên gần đây, có lẽ do nghi ngờ nguồn gốc mà LNCQ đưa ra, các nhà nghiên cứu văn hóa còn đi xa hơn trong việc tìm về cội nguồn của việc ra đời cái bánh ấy. Có thể nói những nghiên cứu ấy cung cấp cho người đọc một cái nhìn đa dạng hơn về ý nghĩa cũng như thời điểm và nơi ra đời của nó, tựu trung người ta nghiên cứu về:

1 – Nguồn gốc bánh.

2 – Ý nghĩa từ “Chưng” và các tên liên quan như Giầy – Giày - Dày – Tày - Tét.

3 – Ý nghĩa của bánh thông qua hình thức mà nó thể hiện.

Cùng trong hướng tìm hiểu các tiêu chí đó, tôi xin bàn lại như sau:

1 – Nguồn gốc.

Theo LNCQ thì nguồn gốc Bánh chưng – Bánh giày có từ thời Vua Hùng được ghi lại như sau:

Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: “Đứa nào làm vừa lòng ta, cuối năm đem trân cam mỹ vị đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”.

...

“Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi dân khỏe mạnh, ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, hoặc lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý”.

... lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh dày.

[Nguyễn Hữu Vinh dịch]

Theo sách thì câu chuyện này là một trong những câu chuyện của xứ Lĩnh Nam, như vậy không gian của nó có thể rộng khắp xứ Lĩnh Nam, mà xứ Lĩnh Nam xưa kia ở tận phía Nam sông Dương Tử nơi cộng đồng dân cư Bách Việt sinh sống, do đó nó có thể là văn hóa của cả vùng này. Tuy nhiên, nhất định thuở ban đầu nó phải xuất phát từ một dân tộc nào đó rồi sau mới lan rộng ra. Vậy dân tộc đó là dân tộc nào? Theo tôi, thì dân tộc nào đã sáng tạo ra Dịch học chính là dân tộc đã làm nên văn hóa này.

2 – Về tên gọi bánh Chưng – Bánh Giày – Bánh Tày – Bánh Tét.

Theo sách LNCQ, bánh Chưng vuông, tượng trưng cho Đất, bánh Giày tròn, tượng trưng cho Trời, khái niệm âm dương này cũng liên hệ với các tên gọi về sau như Tày, Tét. Do đó, theo tôi cần phải giải thích các cặp từ ấy phù hợp với triết lí âm dương [siêu hình], đồng thời vẫn phải nói lên được tính phồn thực của nó [hữu hình], nếu không hội đủ hai tiêu chí ấy thì khó mà thuyết phục.

Nghĩa từ “CHƯNG”.

Trong Đại Nam quốc ấm tự vị [1895-1896] tác giả Huỳnh Tịnh Của viết:

1- Bánh chưng: Bánh gói bằng nếp hình vuông, còn có tên là địa bính tức bánh tượng trưng cho đất vuông. Bánh được chưng hấp nên gọi là bánh chưng.

2- Bánh chưng: Bánh vuông giẹp giống cái bàn chưn, cũng gọi là địa bính.

Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là “đun, nấu cách thủy”

Vương Lực cổ Hán ngữ tự điển [Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 2002] đã ghi cho chữ chưng 烝

 một trong các nghĩa là “dụng hỏa hồng khảo” 用火烘烤, nghĩa là dùng lửa mà nung.

Như thế, nghĩa chữ chưng trong bánh chưng không thích hợp với các nghĩa như đã nêu, trừ nghĩa 2 nhưng không phải với giải thích ấy. Thông thường, người ta hiểu chưng có nghĩa là làm chín bằng hơi nước, nhưng trong LNCQ viết “Chử nhi thục chi” có nghĩa là nấu [Chử] chứ không phải chưng. Đồng thời, trên thực tế, ai cũng biết là luộc hay nấu bánh chứ chưa hề có chuyện chưng bánh chưng, ngay cả người viết LNCQ cũng hiểu thế nên mới viết là nấu. Như thế, từ chưng này có thể đã có trước khi người ta mô tả về chuyện chế biến nó. Ta có thể phân tích quá trình bằng cách chiết tự chữ chưng 烝. Theo tôi chữ chưng này là một chữ tượng hình mô tả hình ảnh nấu bánh, người ta đã dùng phép hội ý để ghi lại. Trước hết bên dưới là lửa = Hỏa, rồi mới đến một gạch ngang tượng trưng cho đáy nồi = Kim, bên trên là nước = Thủy và trên cùng là một gạch ngang nữa tượng trưng cho nắp đậy. Tất nhiên, đã là nấu bánh thì phải có bánh, cho dù con chữ không thể hiện điều đó, bánh có lá màu xanh = Mộc, bên trong có nếp và ở giữa là nhụy sau khi nấu chín thường có màu đất = Thổ. Như vậy con chữ đã nói lên ngũ hành, một trong những thành phần của dịch học. Vậy tại sao gọi là “chưng”? Nếu không phải nghĩa là chưng cất thì từ chưng này có nghĩa là gì? Có liên quan gì đến đất? Theo tôi, từ Chưng này có nghĩa là cái Chưn [cái chân]. Ta thường nói “Đầu đội trời chân đạp đất” vì cái bánh tên là chưng, hình vuông tượng trưng cho đất thì nhất định khi đặt tên cho cái bánh ấy cũng phải có nét nghĩa liên quan đến đất. Cần thấy là triết lí âm dương ban đầu con người nghiệm từ bản thân mà ra sau đó mới tìm thấy tính phổ quát của nó trong vũ trụ, cho nên tín ngưỡng phồn thực là tôn giáo đầu tiên của con người. Chính vì chưng có nghĩa là chưn = Vuông = Âm nên các từ theo nó như giày, tày, tét phải là biểu tượng cho dương; đồng thời phải tròn.

Nghĩa từ GIÀY [Giầy – dày].

Như LNCQ mô tả “Lại lấy nếp nấu xôi đem giã cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh giày” Như vậy, để làm được bánh giày ta phải qua công đoạn giã, mà giã thì phải dùng chày = Dương, tất nhiên là phải để xôi trong cối = Âm. Hình ảnh và khái niệm chày cối là tượng trưng cho âm dương, hình ảnh này cũng được ghi lại trên trống đồng. Sau khi làm thành chiếc bánh rồi người ta cần một cái tên cho nó, vậy phải đặt tên như thế nào. Tất nhiên, cái tên ấy phải nói lên được tính Dương và tất nhiên không thoát khỏi khái niệm phồn thực trong hình thể, cụ thể là cái chày họ đang sử dụng. Từ suy nghĩ đó, họ cần có một cái tên mà nội tại cái tên ấy phải nó liên quan đến khái niệm chày, không gì hơn là gộp cả hai việc giã và chày lại thành một âm để đặt tên cho cái bánh và chữ Giày ra đời theo cách sau đây:

GIÃ – CHÀY đọc phản thành GIÀY chã [Có lẽ từ  CHÃ cũng từ đây mà có]. Như vậy, từ Giày có liên quan đến quá trình chế biến cái bánh tượng trưng cho Trời. Chính vì vậy, từ Giày cũng mang nét nghĩa của sự giày xéo, chà đạp, làm cho nát và khi được sử dụng là danh từ này để chỉ cái thứ mà người ta mang dưới chân gọi là giày cũng mang nét nghĩa này. Giày thì phải ôm lấy chân chứ như âm với dương vậy.

Nghĩa từ TÀY.

Ngoài tên bánh chưng – Bánh giày còn có bánh Chưng – Bánh Tày. Vậy chữ Tày nghĩa là gì mà đi liền với từ Chưng? Ở vùng Phú Thọ và một vài vùng ven Hà Nội hiện nay vẫn còn gói bánh này gọi là bánh chưng tày hay bánh tày, còn có tên khác là bánh đòn giống với bánh tét miền Trung và miền Nam. Vậy Tày nghĩa là gì? Theo tôi, từ Tày là một từ phái sinh từ từ Tay [cánh tay]. Vì từ chưng trong bánh chưng có nghĩa là chưn thì việc nó đi liền với tay là chuyện bình thường, chỉ sự liên kết chặt chẽ như “Anh em như thể tay chưn” cũng như âm luôn luôn đi liền với dương vậy. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng nó bị trầm hóa, từ tay thành tày và cũng có thể do ảnh hưởng bởi từ giày trước đó. Chuyện này rất phổ biến đối với người Việt khi đọc các âm cuối không dấu như Uber = U bờ, Viber = Vai bờ, Toyota = Tô dô đà. Ngoài ra, sở dĩ tôi cho tày là tay là vì câu chuyện bánh chưng bánh giày mang ý nghĩa âm dương, dịch lí. Như ta biết căn bản của dịch lí là Thái cực [lí số = 10] sinh nhị nghi – tứ tượng – Bát quái – 64 quẻ [6+4=10]. Ta có thể liên tưởng 10 ngón chân trên hai bàn chân và 10 ngón tay. Tay chân là một cặp đối đãi như trên dưới, trong ngoài, phải trái, âm dương.

Nghĩa từ TÉT.

Bên cạnh các cặp từ Chưng – Giày, Chưng – Tày ta còn có cặp từ khác đó là Chưng – Tét. Vậy từ Tét trong trường hợp này nghĩa là gì?

Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ghi:

Tét: Tước ra, xé ra, tách ra ”; rồi “Tét bánh: Dụng dây nhợ mà siết đòn bánh ra từ lát, từ khoanh”.

Bánh tét là bánh có hình tròn dài như bánh Tày và có vai trò như từ Giày – Tày do đó nó cũng có nghĩa là dương – trời, đối lại với chưng có hình vuông biểu tượng cho âm – đất. Ta có các từ liên quan như: Tước- Tách – toát – toét đều chỉ việc dùng một cái gì đó làm cho một vật khác bể ra thành hai hay nhiều phần. Định nghĩa và ví dụ trên là chính xác nhưng người đọc dễ bị định hướng do cách hiểu từ tét phải là dùng sợi dây, vì vậy khó mà tìm ra ý nghĩa của nó trong trường hợp này – Bánh tét. Nếu vì bánh bị tét bởi sợi dây mà đặt tên là tét thì nó có liên quan gì đến từ chưng, mà như ta biết chưng tượng cho đất, giày, tày, tét cho trời, có nghĩa là cặp từ này phải có mối liên quan chặt chẽ như âm với dương. Theo tôi, nghĩa của từ này đơn giản đã nằm trong tên bánh - Bánh tét, có nghĩa là cái bánh dùng để tét, ở đây là tét cái bánh chưng. Như đã nói trên thuyết âm dương, phồn thực ban đầu xuất phát từ sự chiêm nghiệm bản thân về sau mới thăng hoa thành triết thuyết, nhưng cho dù có phát triển như thế nào thì khái niệm ban đầu vẫn là khái niệm căn bản.

Từ Tét này chỉ có ở miền Trung và miền Nam, có thể sau khi sử dụng Tét thay Tày, người ta lại sáng tạo nên một cặp từ khác đó là bánh Tày – Bánh Ú. Bánh tày miền Trung nhỏ chỉ độ bằng gang tay, thường thì hai cái úp vào nhau, có hình hơi tròn, còn bánh ú thì giống hình cái vú, có lẽ ú là cách nói trại tù vú mà ra, tượng trưng cho âm. Tày = Dương, Ú = Âm. Bánh ú này có hình dáng giống như bánh chưng Triệu Khánh – Quảng Đông – Trung Quốc.

3 - Ý Nghĩa.

Tóm lại, dù tên gọi và hình dáng khác nhau nhưng rõ ràng ý nghĩa của nó thống nhất. Đó là nói lên triết lí âm dương, nó không chỉ được biểu thị qua việc làm bánh để tưởng nhớ tổ tiên mà qua đó khẳng định rằng triết lí này, Dịch học, là sản phẩm của người Việt. Ngay cả các tên bánh: Chưng – Giày - Tày – Tét đều là Nôm cả và đều liên quan chặt chẽ đến tính phồn thực. Do tính tàn khốc của lịch sử, người Việt không thể nói ra điều đó trực tiếp được, nên họ tìm mọi cách để ghi lại nguồn gốc của triết thuyết đó thông qua các hình thức văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc mình như trống đồng, ông Táo, Cóc kiện Trời, Sơn Tinh - Thủy Tinh v.v. Truyện bánh Chưng và bánh Giày không ngoài mục đích ấy.

Tin tức khác

Video liên quan

Chủ Đề