Cách nghị luận xã hội 123 văn học tuổi trẻ năm 2024
Học sinh cần đọc kỹ, xác định yêu cầu đề bài để trả lời câu hỏi đây là dạng đề nào và có những vấn đề gì cần giải quyết. Show
Dạng văn nghị luận xã hội luôn xuất hiện trong đề thi vào lớp 10 và chiếm 2 đến 3 điểm. Trong đó, nghị luận về một tư tưởng, đạo lý hay gặp hơn cả. Theo cô Vũ Hà, Giáo viên bộ môn Ngữ văn Hệ thống Giáo dục Hocmai.vn, dạng bài này không khó nhưng học sinh ít khi đạt điểm cao vì hay mắc những sai lầm như không xác định được dạng đề; bố cục xây dựng chưa hợp lý; chưa biết cách mở bài, kết bài; viết lan man, lặp ý, thiếu ý hoặc thiếu dẫn chứng, liên hệ. Theo cô Vũ Hà (ngoài cùng bên trái), văn nghị luận xã hội là dạng bài không khó nhưng học sinh ít khi đạt điểm cao. Kỹ năng phân tích đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lý Phân tích đề là bước quan trọng đầu tiên nhằm chỉ ra những yêu cầu về nội dung, thao tác lập luận và phạm vi dẫn chứng của đề bài. Học sinh cần đọc kỹ, gạch chân các từ then chốt, xác định yêu cầu đề bài để trả lời hai câu hỏi: Đây là dạng đề nào và có những vấn đề gì cần giải quyết. Có hai dạng đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lý là đề nổi và đề chìm. Đề nổi (đề trực tiếp) - học sinh dễ dàng nhận ra và xác định yêu cầu ngay trong đề bài. Ví dụ: Bàn về lòng tự hào dân tộc, bàn về sự tự ti, bàn về lòng dũng cảm... Đề chìm (đề gián tiếp) - học sinh cần đọc kỹ đề bài, dựa vào ý nghĩa câu nói, câu chuyện, văn bản được trích dẫn để xác định vấn đề nghị luận. Trong quá trình xác định và làm bài, học sinh phải hiểu đúng, sâu, nắm được bản chất tư tưởng, đạo lý. Đồng thời, các em cũng phải thể hiện quan điểm, thái độ của mình trước tư tưởng, đạo lý mà đề bài yêu cầu nghị luận: chỉ ra đúng - sai, lợi - hại, cái được - cái chưa được... Bên cạnh đó, học sinh phải giữ lập trường, quan điểm vững vàng trong suốt quá trình viết; diễn đạt trong sáng, có thể sử dụng các biện pháp tu từ, yếu tố biểu cảm và nêu cảm nghĩ riêng trong bài viết. 4 bước cơ bản làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý Bước 1: Giải thích tư tưởng, đạo lý Đầu tiên, học sinh cần giải thích nghĩa của những từ ngữ trọng tâm có tính then chốt, sau đó giải thích nghĩa cả câu nói: giải thích các từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có); rút ra ý nghĩa chung của tư tưởng, đạo lý; quan điểm của tác giả được thể hiện như thế nào qua câu nói (đối với đề bài có tư tưởng, đạo lý thể hiện gián tiếp qua câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ,...). Phần giải thích thường trả lời cho các câu hỏi: Là gì? như thế nào? biểu hiện cụ thể ra sao ? Bước 2: Bàn luận Người viết phải phân tích và chứng minh các mặt đúng của tư tưởng, đạo lý (thường trả lời cho câu hỏi tại sao nói như thế? dùng dẫn chứng cuộc sống xã hội để chứng minh. Từ đó, chỉ ra tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lý đối với đời sống xã hội). Bác bỏ những biểu hiện sai lệch vì có những tư tưởng, đạo lý đúng trong thời đại này nhưng có thể chưa đúng trong thời đại khác, đúng trong hoàn cảnh này nhưng chưa thích hợp trong hoàn cảnh khác; để phần bàn luận sâu sắc, người viết phải đưa các dẫn chứng minh họa. Bước 3: Mở rộng Có nhiều cách mở rộng vấn đề: Mở rộng bằng cách giải thích và chứng minh; đào sâu thêm vấn đề; lật ngược vấn đề. Người viết đưa ra mặt trái của vấn đề, phủ nhận nó là công nhận cái đúng. Ngược lại, nếu vấn đề bình luận là sai hãy lật ngược bằng cách đưa ra vấn đề đúng, bảo vệ cái đúng cũng có nghĩa là phủ định cái sai. Bước 4: Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động Mục đích của nghị luận là rút ra những kết luận đúng để thuyết phục mọi người áp dụng và hành động trong thực tiễn đời sống. Trước những sai lầm hay mắc phải khi làm dạng bài này, cô Hà lưu ý, học sinh cần xác định đúng yêu cầu của đề bài, thực hiện đúng phương pháp và chọn lựa đúng kiến thức cần huy động. Hệ thống dẫn chứng chọn lọc, thuyết phục và vừa đủ (khoảng 2-3 dẫn chứng). Cùng với đó, thiết lập một hệ thống lập luận chặt chẽ và thể hiện rõ quan điểm vững vàng của người viết, đồng thời, diễn đạt ngắn gọn, súc tích. "Các em nên thường xuyên đọc sách báo, xem các chương trình truyền hình để có thêm vốn hiểu biết. Đặc biệt, với dạng bài này, việc thể hiện sự sáng tạo, quan điểm mang dấu ấn cá nhân... sẽ là yếu tố quan trọng giúp học sinh đạt điểm cao", cô Vũ Hà chia sẻ thêm. Trong trương trình ngữ văn bậc thpt hiện nay gồm có 3 phân môn : Tiếng việt,đọc văn và làm vănỗi phân môn đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau. Trong đó làm văn là phân môn mang tính thực hànhỗi bài làm văn của học sinh thể hiện khá rõ những nhận thức,kĩ năng,tình cảm của học sinh,là cơ hội để học sinh bộc lộ rõ nhất vốn hiểu biết cũng như năng lực của mình. Trong làm văn, thể văn nghị luận giữ vị trí quan trọng. Gồm : nghị luận văn học ( Bàn bạc những vấn đề thuộc lĩnh vực văn học) và nghị luận xã hội( Bàn bạc những vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội). Tuy nhiên trong hai kiểu bài này nghị luận văn học được chú trọng nhiều,còn nghị luận xã hội ít được chú ý đếnản thân các em học sinh cũng có tâm lí e ngại ,không mấy hứng thú với kiểu bài nàyẫn đến kĩ năng làm bài còn yếu. Thời gian gần đây, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội,nghị luận xã hội ngày càng có vai trò thiết thực trong đời sốngấu trúc đề thi môn ngữ văn trong các đề thi ( Học kì,Tốt nghiệp,Đại học,Cao đẳng) có một câu 3 điểm dành cho một bài nghị luận ngắn. Ưu điểm của văn nghị luận, trước hết là học sinh không nhất thiết phải thuộc làu một khối lượng lớn tri thức đọc hiểu. Người viết có thể tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm của mình một cách khách quan mà không bị một giới hạn, quy định nào ràng buộc. Mặt khác, ta có thể thể hiện sự hiểu biết phong phú của mình cho bài viết sinh động hơn. Dạng văn nghị luận xã hội thực chất là một dạng đề "mở" vì thế nó rất phù hợp cho mọi đối tượng học sinh, đặc biệt là các bạn học khối khoa học tự nhiên vốn “sợ" học thuộc văn. Tuy vậy viết một bài nghị luận xã hội không phải là "thích viết gì thì viết" hay áp đặt ý kiến chủ quan của cá nhân. Bài viết vẫn phải đảm bảo tính khách quan khoa học và hướng về vấn đề cần bàn luận. Người viết phải là người có vốn sống phong phú, tầm hiểu biết rộng và có óc tư duy sắc sảo. Đây là "thách thức" lớn cho học sinh vốn xưa nay chỉ quen cách làm bài thụ động. Nghị luận xã hội là một yêu cầu cần thiết trong đời sống. Viết văn nghị luận xã hội là một yêu cầu cần thiết cho học sinh. Qua đó, có thể kiểm tra chính xác năng lực tư duy, óc sáng tạo, sự hiểu biết của học sinh; bồi dưỡng kĩ năng sống đồng thới còn tránh tình trạng "đạo văn" hay lệ thuộc nhiều vào sách vở của hoc sinh hiện nay. Xuất phát từ những lớ do cơ bản trên, tôi viết bài : “Cách làm bài nghị luậnxã hội .” nhằm đưa ra một quy trình cụ thể cho việc giải quyết dạng bài này. Tôi đã thực hiện và thu được một số kết quả đáng kể. Dưới đây là một vài kinh nghiệm nhỏ, tôi muốn cùng trao đổi cùng các thày,các cô. Rất mong nhận được sự đồng tình,góp ý của các thày,các cô. IIục đích nghiên cứu-giúp các em học sinh có một định hướng cụ thể,rõ ràng về cách làm một bài văn nghị luận xã hội,xoá bỏ tâm lí e ngại,tạo hứng thú cho các em khi tiếp xúc với kiểu bài này.
III.Đối tượng và phạm vi áp dụng.1.Đối tượng sử dụng đề tài.
2ạm vi áp dụng.-Các bài học về nghị luận xã hội trong sách giáo khoa chương trình cơ bản và nâng cao lớp 11 và lớp 12.
IVương pháp nghiên cứu.
Bần nội dung.Iơ sở lí luận.1ải thích khái niệm nghị luận xã hội.
IIở sở thực tiễn.IIIách làm bài nghị luận xã hội.
Gồm các bước sau: Đề gián tiếp (đề chìm): “Sứ mạng của người mẹ không phải là làm chỗ dựa cho con mà phải làm cho chỗ dựa ấy trở nên không cân thiết”. Trình bày suy nghĩ của anh( chị) về câu nói trên.
*Kĩ năng lập dàn ý. Lập dàn ý là lựa chọn, sắp xếp ý đã tìm được ở bước tìm ý theo trật tự hợp lí và xác định mức độ trình bày sao cho vấn đề nghị luận được rõ ràng. Dàn ý chính là bộ khung của một bài vănệc lập dàn ý sẽ giúp người viết có thể bao quát được những nội dung chủ yếu, những luận điểm, luận cứ cần triển khai, nhờ lập dàn ý người viết cũng xác định đúng mức độ và phạm vi nghị luận vấn đề. Mặt khác, lập dàn ý trước khi viết sẽ giúp người viết có thể điều chỉnh hệ thống luận điểm, lược bớt các ý thừa, hoặc bổ sung để khắc phục các ý còn thiếu. Làm dàn ý còn giúp cho người viết chủ động phân phối thời gian cho từng ý trong bài một cách hợp lí. Một bài văn không được lập dàn ý trước khi viết thường mắc phải các lỗi như thiếu ý, thừa ý, ý lộn xộn, dung lượng viết cho các ý không phù hợp với yêu cầu của đề bài. Kết cấu chung của một dàn ý đều có 3 phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Mỗi phần có một nhiệm vụ riêng:
*Ví dụ minh họa. Đề bài: Truyện ngắn“Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu đề cập đến một vấn đề có tính chất nhức nhối trong xã hội hiện nay: nạn bạo hành gia đình. Em có hiểu biết gì về tệ nạn trên? Theo em, ta cần làm gì để góp phần chấm dứt tệ nạn đó? Mở bài: - Giới thiệu về xuất xứ của vấn đề.
Thân bài:
\> Do cuộc sống lao động quá cơ cực, thiếu thốn \>Do trình độ văn hóa thấp, sự cam chịu câm lặng của nạn nhân \>Do dấu ấn của quan niệm phong kiến còn nặng nề. \> Do coi thường pháp luật của nhà nước; bản chất độc ác, dã man.
\>Gây ra bao cuộc đời đau khổ, bất hạnh \>Làm tổn thương tâm hồn con cái. \>Làm cho nền văn minh xã hội trở nên chậm tiến
nhiên,không bị chi phối bởi vật chất, sống hết mình, làm việc hết mình. ( (Bài viết của học sinh) -Mở bài gián tiếp: Nhà văn Pháp Đ.Đi-đơ-rô từng quan niệm “ Nếu không có mục đích ,anh không làm được gì cả.Anh cũng không làm được gì vĩ đại nếu như mục đích bình thường.Đây là quan niệm đúng và rất phù hợp với chúng ta cuộc sống mỗi người đều có một lí tưởng sống riêng để tự vươn tới,tự hoàn thiện và phát triển bản thân. Bất kì ai cũng cần tự tạo cho mình một lí tưởng và có lòng quyết tâm theo lí tưởng ấy ”. (Bài viết của học sinh)
Thân bài là phần trọng tâm của bài văn. Nhiệm vụ của phần thân bài là triển khai đầy đủ, chi tiết hệ thống luận điểm, luận cứ để làm sáng tỏ luận đề. Khi viết phần này cần chia thành các đoạn, mỗi đoạn văn là sự triển khai hoàn chỉnh một luận điểm đã được xác định khi lập dàn ý, ngoài ra người viết còn cần phải biết cách viết câu, cách chuyển ý, chuyển đoạn, cách dùng từ, hành văn. Phần thân bài là phần phải dành nhiều thời gian thực hiện nhất trong ba phần. Học sinh nên chú ý phân phối thời gian cho hợp lí khi bố cục phần thân bài. *Ví dụ minh họa. Đề bài: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có viết: “Em ơi em đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời” (Mặt đường khát vọng) Ở đó tác giả muốn đưa ra một thông điệp gì cho tuổi trẻ? Hãy viết một bài văn nghị luận để trình bày suy nghĩ của mình về vấn trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước hiện nay. Thân bài: -Thông điệp mà Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa ra với tuổi trẻ qua 4 câu thơ:
Khi viết phần thân bài cho đề bài này cần chia tối thiểu 3 đoạn, mỗi đoạn ứng với 3 luận điểm (Thông điệp mà Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa ra với tuổi trẻ qua 4 câu thơ/ Suy nghĩ của bản thân / Bàn bạc, mở rộng vấn đề). Người viết cần phải vận dụng cách viết câu, cách chuyển ý, chuyển đoạn, cách dùng từ, hành văn để triển khai đày đủ các ý đã định ra ở dàn ý trên.
Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở mở bài và đã giải quyết ở thân bài. Phần này góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho bài văn. Tùy mục đích nghị luận, người viết có thể sử dụng một trong các cách kết bài sau đây:
3.2ột vài lưu ý.
3.3ác bước làm bài.Bước 1: Miêu tả hiện tượng được đề cập đến trong bài.
Bước 2: Phân tích các mặt đúng – sai, lợi – hại của vấn đề.
Bước 3: Chỉ ra nguyên nhân. Bước 4: Bày tỏ thái độ, ý kiến đánh giá của người viết về hiện tượng. 3.4ận dụng.
Bước 1: Miêu tả hiện tượng
Bước 2: Nêu nguyên nhân của hiện tượng.
Bước 3: Tác hại to lớn của hiện tượng.
Bước 4: Ý kiến, thái độ của bản thân, đề xuất giải pháp.
*Gợi ý với dạng bài bàn về một hiện tượng đời sống có tính chất tích cực. Đề bài: Đồng cảm và sẻ chia là một nếp sống đẹp trong xã hội hiện nay. Hãy viết một bài văn ngắn trình bày ý kiến của anh (chị) về nếp sống ấy. Bước 1: Miêu tả hiện tượng.
2ác bước cơ bản.Bươc 1 : giải thích tư tư tưởng , đạo lí. Bước 2 : Bàn luận
Bước 4 : Nêu ý nghĩa ,rút ra bài học nhận thức và hành động. 3í dụ minh họaĐề bài : Có ý kiến cho rằng :’’ học vấn không có quê hương nhưng người co họcvấn phải có tổ quốc”. Suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên. Gợi ý.B1: Giải thích.
B2 : Bàn luận :
B3: Mở rộng. - Không phải chỉ những người có học thức mới có tình yêu tổ quốc. Có nhiều cách thể hiện tình yêu tổ quốc : Tấm lòng luôn hướng về quê hương , ý thức giữ gìn nét đẹp truyền thống văn hóa dân tộc, cống hiến những thành tích thể thao , âm nhạc...
B4: Liên hệ bản thân.
4ận dụng các dạng đề bài cụ thể.aạng đề trong đó tư tương đạo lí được nói đến một cách trực tiếp.Ví dụ : bàn về sự tự tin, lòng tự trọng của con người trong cuộc sống, tinh thần tự hào dân tộc ... Cách làm bài dạng này cơ bản giống với hướng dẫn nói trên:
. Dẫn chứng cách dạy con của người Nhật.
B4: Liên hệ, rút ra bài học. + Bản thân luôn phải cố gắng không dựa dẫm vào sự giúp sức của bất kỳ ai. Tình thương của cha mẹ là nguồn động viên chứ không phải là vỏ bọc để lẩn tránh mọi trở ngại trên đường.
Ví dụ 2. Đề bài. Chiếc bình nứt. Một người có hai chiếc bình lớn để chuyển nướcột trong hai chiếc bình bị nứt nên khi gánh từ giếng về , nước trong bình chỉ còn một nửaếc bình lành rất hãnh diện về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc bình nứt luôn dằn vặt , cắn rứt vì không hoàn thành nhiệm vụ. Một hôm chiếc bình nứt nói với ông chủ : “ Tôi thực sự thấy xấu hổ về mình ... Tôi muốn xin lỗi ông... Chỉ vì tôi bị nứt mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức mà ông bỏ ra.” “ Không đâu – ông chủ trả lời – khi đi về ngươi có chú ý tới những luống hoa bên đường không? Ngươi không thấy hoa chỉ mọc bên này đường phía đường của nhà ngươi sao? Ta đã biết được vết nứt của nhà ngươi nên đã gieo hạt giống hoa bên ấy. Trong những năm qua , ta đã vun xới cho chúng và hái chúng về để trang hoàng căn nhà. Nếu không có ngươi nnhaf ta có ấm cúng và duyên dáng như thế này không?”. Cuộc sống của mỗi chúng ta đều có thể như chiếc bình nứt. Anh( Chị) có đồng ý với câu kết của văn bản trên không? Gợi ý:B1. Từ câu chuyện cần làm rõ vấn đề nghị luận. - tóm lược nội dung chính của câu chuyện. - Giải thích : “ vết nứt ”: tượng trưng cho những gì khiếm khuyết , không trọn vẹn trong bản thân mỗi con người. Mỗi chúng ta – dù không hoàn hảo như chiếc bình lành nhưng , ai cũng có giá trị riêng , những đóng góp riêng cho xã hội. Điều đó làm nên sự khác nhau của mỗi người trong cuộc đời. B2. Bàn luận. - Trong cuộc đời không mấy ai là người toàn thiện , toàn mĩ. Nhưng khiếm khuyết , hạn chế có thể làm ta mặc cảm, dằn vặt. - Nhưng đằng sau những khiếm khuyết ấy mỗi người luôn có già trị riêng. Dẫn chứng : + Tấm gương về Nguyễn Ngọc Kí. - Cần hiểu về bản thân , biết điểm mạnh , điểm yếu của chính mình để tự hoàn thiện. B3. Mở rộng. - cuộc sống không có gì là hoàn hảo , không có gì là tuyệt đối – như chiếc bình lành tưởng chừng rất hoàn hảo , nhưng hóa ra nó khuyết ở chỗ không thể làm những luống hoa bên đường mọc lên. Hai chiếc bình đã bổ khuyết cho nhau vừa giúp ông chủ có nước đầy vừa có những luống hoa xinh đẹp. - Con người cũng vậy , không ai là người hoàn hảo nên con người cần tìm đến nhau , bổ khuyết cho nhau. - Mỗi người khi đối diện với những khiếm khuyết của chính mình cần học cách chấp nhận , đồng thời cần biết hướng đến những điều tốt đẹp của bản thân. B4. Liên hệ bản thân.
CÁCH LÀM DẠNG BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘITRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC1ột vài lưu ý chung.
Thân bài:
Với cộng đồng: gần gũi, giúp đỡ những kẻ sống hèn nhát. Kết bài: - Đánh giá ý nghĩa của vấn đề
4ới thiệu một số đề làm văn nghị luận tự luyện về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học ở lớp 12: Trong khuôn khổ một bài viết, tôi xin đưa ra một số đề nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học, các đề văn này gắn với những tác phẩm nằm trong chương trình ôn tập thi tốt nghiệp và thi đại học của các em học sinh. Đề 1. Bài viết “ Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ của dân tộc” của tác giả Phạm Văn Đồng giúp em được chiêm ngưỡng ánh sáng khác thường từ nhân cách của ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu. Em có suy nghĩ gì về nhân cách ấy? Trong cuộc sống đầy cám dỗ hiện nay em học được điều gì cho nhân cách của bản thân từ tấm gương của cụ Đồ Chiểu? Qua bài thơ “Bên kia sống Đuống” của Hoàng Cầm, em có suy nghĩ như thế nào về việc gìn giữ bản sắc văn hóa xứ Kinh Bắc? Nhà thơ Chế Lan viên có viết: “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” (Tiếng hát con tàu) Em có suy nghĩ gì về quy luật tâm lí trên? Hãy viết một bài văn nghị luận để trình bày quan điểm của mình về quy luật tình cảm đó. Nguyễn Khoa Điềm có viết :“Em ơi em đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời” (Trích “Mặt đường khát vọng”) Ở những câu thơ trên em thấy Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa ra một thông điệp gì cho tuổi trẻ? Hãy viết một bài văn nghị luận để trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề trên? Từ lí tưởng sống cao quý của người lính Tây Tiến, em có suy nghĩ như thế nào về lí tưởng sống của thanh niên hiện nay? Tình thương bà và nỗi ân hận của người cháu được thể hiện trong bài thơ “Đò Lèn” của tác giả Nguyễn Duy đem đến cho em bài học gì về tình cảm gia đình? Theo em, trong cuộc sống cấp tập hiện nay, tình cảm gia đình có ý nghĩa như thế nào trong việc hình thành nhân cách, tình cảm của lớp trẻ? Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh giúp em hiểu gì về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam hiện đại? Tìm hiểu mối quan hệ kế thừa- phát triển giữa con người “kẻ sĩ hiện đại” với con người “nho sĩ truyền thống”. “Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? |