Cung cầu ảnh hưởng đến giá cả thị trường như thế nào

LỜI NÓI ĐẦUXã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng lên.Vì vậy để đáp ứng nhu cầu của con người thì đòi hỏi xã hội phải đáp ứng đủ nhữnggì mà con người cần. Song không phải nhu cầu của con người luôn ổn định trongmọi thời điểm. Ngược lại nó luôn biến động trong mọi thời điểm, và tăng lên hayhạ xuống trong một khoảng thời gian ngắn. Chính vì lẽ đó mà việc làm sao cho đủnhu cầu của con người là một vần đề nan giải. Mặt khác khi cầu cho con ngườicũng phải chú ý tới cung của nhà sản xuất tức là không dẫn đến dư thừa gây lên lỗvốn, đồng thời nó tác động tới giá cả hàng hoá. Và khi đó con người cũng chịu sựảnh hưởng của giá cả hàng hoá. Cung và cầu đảm bảo mối quan hệ về lợi ích giữangười sản xuất và người tiêu dùng, giữa người bán và người mua. Trong tình hìnhhiện nay việc cân bằng cung cầu là rất cần thiết. Vì vậy em chọn đề tài: “Quan hệcung cầu tác động đến sự lên xuống của giá cả trong một số mặt hàng tiêudùng trong thời gian gần đây.” để nghiên cứu. Trong bài tiểu luận này do trìnhđộ kiến thức còn chưa sâu và đây là bài tiểu luận khoa học đầu tiên nên sẽ có nhiềuvấn để thiếu sót, vì vậy em mong được sự chỉ bảo và giúp đỡ của các thày cô bộmôn.Em xin chân thành cảm ơn.1NỘI DUNGI. Quy luật giá trị1. Nội dung của quy luật giá trị. Quy luật gía trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của nền sản xuất vàlưu thông hàng hoá. Theo quy luật này:” Sản xuất và trao đổi phải dựa trên cơ sởthời gian lao động xã hội cần thiết.” Biểu hiện của quy luật giá trị:Trong sản xuất: +Thời gian hao phí cá biệt: Đại bộ phận là tương đương với thời gian laođộng cần thiết, một số ít nhỏ hơn thì lại có một số lớn hơn.+Trong toàn xã hội: Tổng thời gian hao phí cá biệt = tổng thời gian LĐXHcần thiết.Trong lưu thông: +Đối với một loại hàng hoá: Giá cả có thể lên xuống nhưng phải xoay quanhtrục giá trị của hàng hoá. Giá cả giá trị+Nguyên nhân: chịu tác động của quan hệ cung cầu+Đối với tổng hàng hoá trên phạm vi xã hội.Tổng giá cả HH =Tổng giá trị HH2. Tác dụng của quy luật giá trị.Trong nền kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị có những tác động sau đây:Thứ nhất: Điều tiết tự phát sản xuất và lưu thông qua sự biến động của gíacả thị trường. Điều tiết được biểu hiện như sau: Khi cung nhỏ hơn cầu, sản phẩmkhông đủ để thoả mãn nhu cầu xã hội, giá cả cao hơn giá trị của hàng hoá bán chạyvới lãi cao, người sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, những người trước đây sảnxuất hàng hoá khác nay chuyển sang sản xuất hàng hóa này. Như vậy, tư liệu sảnxuất và sức lao động được chuyển vào nghành này nhiều hơn ngày khác. Khi cunglớn hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều so với nhu cầu xã hội, giá cả thấp hơn giá trị,hàng hoá không bán chạy, có thể lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất ở ngành2này thu hẹp quy mô sản xuất hay chuyển sang ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất vàsức lao động giảm đi ở ngành này và tăng ở ngành khác mà họ thấy có lợi hơn. Thứ hai: Thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh lực lượng sản xuất xã hộiphát triển. Nếu người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động,giá trị cá biệt hàng hoá sẽ thấp hơn giá trị xã hội và như vậy người sản xuất sẽ cónhiều lãi hơn. Ngược lại, người sản xuất có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội: bịlỗ vốn, phá sản. Tình hình trên đã thúc đẩy người sản xuất hàng hoá không ngừngcải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động.Thứ ba: Phân hoá những người sản xuất hàng hoá. Quá trình cạnh tranh theođuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi,có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao độgn có biệt thấphơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họmua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại nhữngngười không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinhdoanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.Như vậy tác dụng của quy luật giá trị làm cho những người sản xuất hàng hoáphân hoấ thành một bên là những người sản xuất hàng hoá phân hoá thành một bên lànhững nhà tư bản hóc lột và một bên là những ngưòi vô sản tay trắng đi làm thuê. Khichúng ta nói sản xuất hàng hoá là khởi điểm phát sinh ra chủ nghĩa tư bản, chính lànói đến tác động này của quy luật giá trị, quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá.Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biếnđộng của giá cả. Giá cả là tín hiệu của thị trường về nhu cầu xã hội. Trong sản xuấtkinh doanh, ai có được nhu cầu thực tế thì đã có thể quyết đình được 50% thắnglợi, nhưng cái gì quyết đình giá cả? Nói quyết định giá cả là nói việc quyết địnhmức gía, tỷ giá và sự vận đông của giá, Có thể có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến gíacả như giá trị và quy luật giá trị, cạnh tranh, quan hệ cung cầu, sức mua của đồngtiền và lạm phát, yếu tố tâm lý, tập quán, chi phí sản xuất... Các Mác đã khẳngđịnh: “Dù giá cả sản xuát như thế nào thì quy luật giá trị cũng vẫn phải chi phố sự3vận động của chúng”. Nếu coi cung cầu quyết định giá cả hàng hoá thì khi cungcầu bằng nhau thì giá cả hàng hoá do cái gì quyết định? Sự hoạt động của quy luậtgiá trị có biểu hiện: Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường củahàng hoá, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thịtrường. Ngoài giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tácđộng của quan hệ cung cầu hàng hoá. Vấn đề này được thể hiện rất rõ qua một sốmặt hàng tiêu dùng trong thời gian gần đây.II. Quan hệ Cung Cầu1. Cung1.1 Khái niệm về cungLà khối lượng hàng hoá, dịch vụ mà các chủ thể đem bán ra trên thị trườngtrong một thời kỳ nhất định, tương ứng với mức giá cả, khả năng sản xuất, chi phísản xuất xác định.1.2 Nhân tố ảnh hưởng đến cungCông nghệ: Công nghệ là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năngsuất, giảm chi phí lao động trong quá trình chế tạo sản phẩm. Khi mà chúng ta cảitiến công nghệ, tức là góp phần tăng khả năng sản xuất, khối lượng hàng hoá tănglên so với lao động thủ công dẫn đến cung tăng lên.Giá cả của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường [đầu ra]: Khi giá cả hàng hoávà dịch vụ trên thị trường mà tăng lên thì cung sẽ tăng lên và ngược lại. Chi phí sản xuất: chi phí sản xuất mà thấp, người ta sẽ sản xuất nhiều hơn thìcung tăng lên, còn khi chi phí sản xuất mà cao thì cung sẽ giảm đi.Chính sách thuế: Chính sách thuế của nhà nước ta có ảnh hưởng quan trọngđến quyết định sản xuất của các hãng do đó ảnh hưởng đến việc cung sản phẩm.Khi mà mức thuế cao sẽ làm cho phần thu nhập còn lại cho người sản xuất ít đi vàhọ không có ý muốn cung hàng hoá nữa, khi đó lượng cung sẽ giảm. Ngược lạimức thuế thấp sẽ khuyến khích các hãng mở rộng sản xuất và cung sẽ tăng lên.Trong các nhân tố đó, giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường là yếu tố4trực tiếp ảnh hưởng tới lượng cung về hàng hoá và dịch vụ đó. Cung tỷ lệ thuậnvới giá cả. Giá cả cao thì cung lớn và ngược lại, giá cả thấp thì cung giảm.2. Cầu2.1 Khái niệm về cầu Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong mộtthời kỳ tương ứng với giá cả, thu nhập và các biến cố kinh tế xác định. Người tiêudùng ở đây bao gồm dân cư, các doanh nghiệp nhà nước và cả người nước ngoài.Tiêu dùng bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân.2.2 Nhân tố ảnh hưởng đến cầu.Thu nhập người tiêu dùng: Là một yếu tố quan trọng xác định cầu. Thu nhậpảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mua của người tiêu dùng. Khi thu nhập tăng lêndẫn đến sự tăng về cầu đối với tất cả các loại hàng hoá, tức là cầu tăng và ngượclại. Giá cả của loại hàng hoá liên quan: Được chia làm hai loại- Hàng hoá thay thế: là hàng hoá có thể sử dụng thay thế cho hàng hoá khác.Thí dụ cà phê và chè là hai loại hàng hoá thay thế. Khi giá của một loại hàng thayđổi thì cầu đối với loại hàng hoá kia cũng thay đổi. Cụ thể khi giá cà phê tăng lênthì cầu đối với chè tăng lên.- Hàng hoá bổ sung: là hàng hoá sử dụng đồng thời hàng hoá khác. Thí dụcác nước châu Âu người ta thường uống chè với đường – chè với đường là hàng bổsung. Đối với hàng hoá bổ sung khi giá của một hàng hoá tăng lên thì cầu đối vớihàng hoá bổ sung kia sẽ giảm đi.Lãi suất: Lãi suất của ngân hàng mà cao lên, người dân không có tiền để gửi,khi đó cầu sẽ giảm. Và khi lãi suất ngân hàng mà thấp xuống thì cầu sẽ tăng lên.Thị hiếu của người tiêu dùng: Thị hiếu có ảnh hưởng lớn đến cầu của ngườitiêu dùng, thị hiếu là sở thích hay sự ưu tiên của người tiêu dùng. Điều đó có nghĩalà khi người tiêu dùng thích hàng hoá hoặc dịch vụ nào thì cầu về loại hàng hoá vàdịch vụ đó sẽ tăng lên, và ngược lại.5

Trong bài viết này chúng ta sẽ xem xét cơ chế thị trường thông qua việc khảo sát sự vận hành của một thị trường hàng hóa riêng biệt. Đây là một khuôn mẫu phân tích tổng quát có thể áp dụng cho các thị trường khác nhau, dù đó là thị trường lúa, gạo hay thị trường xe máy; thị trường đầu ra như thị trường quần, áo hay thị trường đầu vào như thị trường máy dệt; thị trường hàng hóa hữu hình như thị trường máy tính hay thị trường dịch vụ như thị trường cắt tóc. Dĩ nhiên, khi đề cập tới một thị trường chung, có ý nghĩa tổng quát, chúng ta sẽ xuất phát từ một loại thị trường đơn giản nhất: một thị trường có tính chất cạnh tranh, gồm nhiều người mua, người bán, không ai có khả năng chi phối giá cả hàng hóa. Chúng ta sẽ xem xét các yếu tố cơ bản của thị trường như cầu, cung thể hiện như thế nào, tương tác với nhau ra sao để xác định mức giá cân bằng, và những yếu tố gì sẽ làm cho mức giá này thay đổi. Hiểu được những điều này là nền tảng quan trọng để nắm bắt những vấn đề phức tạp khác của nền kinh tế thị trường.người mua và người bán tiến hành sự trao đổi hàng hóa với nhau.

I. Thị trường – Khái niệm và phân loại

1.Khái niệm

Thị trường là tập hợp các điều kiện và thỏa thuận mà thông qua đó người mua và người bán tiến hành sự trao đổi hàng hóa với nhau.

Chức năng của thị trường là trao đổi hàng hóa. Sự trao đổi này chỉ diễn ra được trong những điều kiện cụ thể, thông qua những ràng buộc, hay dàn xếp cụ thể mà những người tham gia phải tuân thủ. Có những điều kiện chung ràng buộc mọi thị trường. Song cũng có những điều kiện riêng chỉ liên quan đến những nhóm thị trường cụ thể.

Vì thế, ở một số thị trường, người ta vẫn trực tiếp gặp nhau để mua, bán hàng hóa. Song ở một số thị trường khác, sự mua bán hàng hóa chỉ diễn ra thông qua những người môi giới, hay trung gian [như ở thị trường chứng khoán, forex]. Tại một số thị trường, người mua và người bán mặc cả với nhau về giá cả của từng loại hàng hóa, song ở một số thị trường khác, điều này lại không diễn ra. Như một tiến trình, dù thực hiện dưới phương thức nào, trên thị trường, người mua và người bán cũng luôn luôn tác động lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa được trao đổi. Qúa trình đó cũng là nội dung thực chất của thị trường.

2. Phân loại thị trường

Phân loại thị trường theo nội dung hàng hóa

  • Thị trường hàng hóa tiêu dùng [thị trường đầu ra] : Các thị trường đầu ra lại có thể phân nhỏ thành vô số thị trường cụ thể như thị trường gạo, thị trường quần áo, thị trường ô tô, thị trường giáo dục.
  • Thị trường các yếu tố sản xuất [thị trường đầu vào]. Các thị trường đầu vào có thể phân thành thị trường vốn hiện vật [máy móc, thiết bị, nhà xưởng v.v…], thị trường bất động sản, thị trường lao động v.v…

Phân loại thị trường theo không gian kinh tế mà theo đó các quan hệ trao đổi hàng hóa diễn ra:

  • Thị trường thế giới,
  • Thị trường khu vực,
  • Thị trường quốc gia,
  • Thị trường 50 vùng hay địa phương

Theo cấu trúc thị trường:

  • Thị trường cạnh tranh hoàn hảo [trên thị trường này, người mua hay người bán không có quyền lực chi phối giá cả hàng hóa]
  • Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo [trên thị trường dạng này, người mua hay người bán riêng biệt, dù ít, dù nhiều vẫn có khả năng chi phối giá]

II. Khái niệm về Cầu – Lý thuyết hành vi của người tiêu dùng

1. Các khái niệm:

Cầu là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà tiêu dùng mong muốn và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi [ceteris paribus].

Lượng cầu: Là số lượng hàng hóa / dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại mỗi mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi.

Nhu cầu: Là những nguyện vọng, mong ước vô hạn về hàng hóa / dịch vụ của con người. Sự khan hiếm làm cho hầu hết các nhu cầu không được thỏa mãn.

Cầu cá nhân: Là số lượng hàng hóa / dịch vụ mà một cá nhân mong muốn mua và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi.

Cầu thị trường: Là tổng cầu cá nhân ở các mức giá. Khi cộng lượng cầu cá nhân ở mỗi mức giá, chúng ta có lượng cầu thị trường tại mỗi mức giá.

2. Luật cầu

– Với giả định các nhân tố khác không đổi, số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được cầu trong một khoảng thời gian nhất định sẽ tăng lên khi giá giảm và ngược lại, sẽ giảm khi giá tăng.

– Như vậy, giá hàng hóa / dịch vụ và lượng cầu có quan hệ nghịch.

P↑  →  Qd ↓

P ↓  → Qd ↑

3. Các công cụ biểu diễn cầu

3.1. Biểu cầu

Đó là một bảng số liệu gồm ít nhất 2 cột giá và lượng cầu, cho biết phản ứng của người tiêu dùng tại các mức giá khác nhau.

3.2 Đồ thị cầu

Đường cầu là đường dốc xuống từ trái qua phải thể hiện mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa giá và lượng cầu.

Khi phần thay đổi trong các mức giá là một hằng và phần thay đổi ở các mức lượng cầu cũng là một hằng số thì đường cầu sẽ là một đường tuyến tính như đồ thị. Tuy nhiên, trong thực tế thì hiện tượng này hiếm khi xảy ra và đường cầu thường có dạng phi tuyến tính.

3.3 Hàm cầu

– Phương trình đường cầu dạng tuyến tính:

P = a + bQD hoặc QD = c + dP

[với a, b, c, d là hằng số; b, d 0]

– Hàm cung là hàm số phản ánh mối quan hệ giữa lượng cung với các biến số có ảnh hưởng đến lượng cung.

QS = f [Px, Pi, Te, G, E, N]

Trong đó:

  • Px là giá của chính hàng hóa, dịch vụ đó.
  • Pi: giá của các nhân tố đầu vào
  • Te [Technology]: công nghệ
  • G [Government’s policy]: chính sách của chính phủ
  • E [Expectations]: kỳ vọng của nhà sản xuất
  • N [Number of sellers]: số lượng người bán trên thị trường.

4. Các nhân tố ảnh hưởng tới cung

4.1. Giá hàng hoá, dịch vụ

Giá hàng hoá dịch vụ ảnh hưởng đến lượng cung theo luật cung. Khi giá hàng hoá dịch vụ tăng, người sản xuất sẽ sản xuất nhiều hàng hoá hơn để tung ra thị trường nhằm thu lại nhiều lợi nhuận hơn và ngược lại.

4.2. Giá các yếu tố sản xuất

Giá của các yếu tố sản xuất tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và do đó ảnh hưởng đến lượng hàng hoá mà người sản xuất muốn bán.

4.3. Chính sách của chính phủ

Các chính sách của chính phủ như chính sách pháp luật, chính sách thuế và chính sách trợ cấp đều có tác động mạnh mẽ đến lượng cung. Khi chính sách của chính phủ mang lại sự thuận lợi cho người sản xuất, người sản xuất được khuyến khích sản xuất khiến lượng cung tăng và đường cung dịch chuyển sang phải và ngược lại.

4.4. Công nghệ

Công nghệ là yếu tố quan trọng trong sự thành bại của bất kỳ một DN nào. Công nghệ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng hàng hoá sản xuất ra.

4.5. Các kỳ vọng của người bán

Kỳ vọng là những dự đoán, dự báo của người sản xuất về những diễn biến thị trường trong tương lai ảnh hưởng đến cung hiện tại. Nếu các kỳ vọng thuận lợi đối với người bán thì lượng cung hiện tại sẽ giảm, đường cung dịch chuyển sang trái và ngược lại.

4.6. Số lượng người bán trên thị trường

Số lượng người bán có ảnh hưởng trực tiếp đến số hàng hoá bán ra trên thị trường. Khi có nhiều người bán, lượng cung hàng hoá tăng lên khiến đường cung hàng hoá dịch chuyển sang phải và ngược lại.

5. Phân biệt sự di chuyển và dịch chuyển của đường cung

– Giá hàng hoá dịch vụ là nhân tố nội sinh. Khi giá hàng hóa dịch vụ thay đổi sẽ gây ra sự di chuyển dọc theo đường cung [di chuyển lên trên hoặc xuống dưới].

– Các nhân tố khác như giá các yếu tố đầu vào, chính sách của chính phủ, công nghệ, số lượng người sản xuất, các kỳ vong là các nhân tố ngoại sinh. Sự thay đổi của các nhân tố này sẽ gây ra sự dịch chuyển của đường cung [dịch chuyển sang trái hoặc sang phải].

IV. Cân bằng cầu cung thị trường

1. Cân bằng thị trường

Cân bằng thị trường là trạng thái mà tại đó cung vừa đủ thoả mãn cầu, do đó mà không có sức ép làm thay đổi giá. Tại mức giá này, chúng ta có lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Khi đó, điểm giao nhau giữa đường cung và đường cầu là điểm cân bằng và lượng cung và lượng cầu tại mức giá này là lượng cân bằng.

Nguyên lý cung – cầu, hay quy luật cung cầu, phát biểu rằng thông qua sự điều chỉnh của thị trường, một mức giá cân bằng [còn gọi là mức giá thị trường] và một lượng giao dịch hàng cân bằng sẽ được xác định. Mức giá và lượng hàng đó tương ứng với giao điểm của đường cung và đường cầu. Trạng thái cân bằng của một mặt hàng như thế gọi là cân bằng bộ phận. Khi đạt trạng thái cân bằng của cùng lúc tất cả các mặt hàng, kinh tế học gọi đó là cân bằng tổng thể hay cân bằng chung. Ở trạng thái cân bằng, sẽ không có dư cung [lượng cung lớn hơn lượng cầu] hay dư cầu [lượng cầu lớn hơn lượng cung].

Bốn nguyên lý cơ bản về cung và cầu:

  • Nếu nhu cầu tăng [đường cầu thay đổi về bên phải] và nguồn cung vẫn không đổi, thì tình trạng thiếu hụt xảy ra, dẫn đến giá cân bằng cao hơn.
  • Nếu nhu cầu giảm [đường cầu dịch chuyển về bên trái] và nguồn cung vẫn không đổi, thì thặng dư xảy ra, dẫn đến giá cân bằng thấp hơn.
  • Nếu cầu vẫn không thay đổi và cung tăng [đường cung dịch chuyển về bên phải], thì thặng dư xảy ra, dẫn đến giá cân bằng thấp hơn.
  • Nếu cầu vẫn không thay đổi và cung giảm [đường cung dịch chuyển về bên trái], thì tình trạng thiếu hụt xảy ra, dẫn đến giá cân bằng cao hơn.

Chúng ta có thể xác định điểm cân bằng theo 3 phương pháp sau:

Cách 1: Dựa vào biểu cung và biểu cầu

Cách 2: Dựa vào đồ thị đường cung cầu

Cách 3: Dựa vào phương trình đường cung và phương trình đường cầu [đây là phương pháp thường được sử dụng nhất]

Sự thay đổi trạng thái cân bằng

Cân bằng được hiểu là trạng thái ổn định. Nhưng điểm cân bằng cầu cung không phải là bất biến. Khi có một nhân tố trong hàm cầu hoặc hàm cung thay đổi khiến đường cầu hoặc đường cung dịch chuyển hoặc khi cả đường cung và đường cầu đều dịch chuyển thì ta có điểm cân bằng mới, giá cân bằng mới và lượng cân bằng mới.

Từ đó ta có 3 cách xác định trạng thái cân bằng mới:

– Xác định xem đường cầu hoặc đường cung hoặc cả đường cầu và đường cung sẽ dịch chuyển;

– Xác định xem đường cầu hoặc đường cung dịch chuyển sang phải hay sang trái;

– Xác định xem sự dịch chuyển này tác động đến giá và lượng cân bằng như thế nào.

Trường hợp 1: Cầu cố định, cung dịch chuyển ⇒ điểm cân bằng di chuyển trên đường cầu

– Khi cung dịch chuyển sang phải PE ↓ QE ↑

– Khi cung dịch chuyển sang trái PE ↑ QE ↓

Trường hợp 2: Cung cố định, cầu dịch chuyển ⇒ điểm cân bằng di chuyển trên đường cung

– Khi cầu dịch chuyển sang phải PE ↑ QE ↑

– Khi cầu dịch chuyển sang trái PE ↓ QE ↓

Trường hợp 3: Cả cung và cầu đều dịch chuyển [có 12 tình huống]

– Khi cung dịch chuyển sang phải, cầu dịch chuyển sang phải

  • Tình huống 1: Tốc độ thay đổi của cung lớn hơn tốc độ thay đổi của cầu: PE ↓ > QE ↑
  • Tình huống 2: Tốc độ thay đổi của cầu lớn hơn tốc độ thay đổi của cung: PE ↑ < QE ↑
  • Tình huống 3: Tốc độ thay đổi của cung bằng tốc độ thay đổi của cầu: PE không đổi QE ↑.

– Khi cung dịch chuyển sang phải, cầu dịch chuyển sang trái [3 tình huống tương tự]

– Khi cung dịch chuyển sang trái, cầu dịch chuyển sang phải [3 tình huống tương tự]

– Khi cung dịch chuyển sang trái, cầu dịch chuyển sang trái [3 tình huống tương tự]

Kết luận: Khi cả cung và cầu đều dịch chuyển, sự thay đổi giá và lượng cân bằng phụ thuộc vào tốc độ thay đổi của cung và cầu.

2. Trạng thái dư thừa và thiếu hụt

2.1. Trạng thái dư thừa [dư cung]

Bất kỳ một yếu tố nào tác động đến cung và cầu cũng có thể gây ra sự thay đổi trong giá cân bằng. Khi thị trường chưa kịp điều tiết hoặc không điều tiết được [do có sự can thiệp của chính phủ] thì trạng thái dư thừa hoặc thiếu hụt sẽ xảy ra.

Dư thừa sẽ xuất hiện khi mức giá trên thị trường P1 lớn hơn giá cân bằng PE.

Khi mức giá trên thị trường lớn hơn mức giá cân bằng dẫn tới lượng cung lớn hơn lượng cầu [QS > QD] gây nên trạng thái dư thừa.

Dư thừa còn gọi là thặng dư của cung, tức là lượng cung lớn hơn lượng cầu tại một mức giá mà mức giá đó lớn hơn mức giá cân bằng.

2.2. Trạng thái thiếu hụt [dư cầu]

Thiếu hụt sẽ xuất hiện khi mức giá trên thị trường P2 nhỏ hơn giá cân bằng PE.

Khi mức giá trên thị trường nhỏ hơn mức giá cân bằng dẫn tới lượng cầu lớn hơn lượng cung [QD> QS] gây nên trạng thái thiếu hụt.

Thiếu hụt còn gọi là thặng dư của cầu, tức là lượng cầu lớn hơn lượng cung tại một mức giá mà mức giá đó nhỏ hơn mức giá cân bằng.

2.3. Cơ chế tự điều tiết của thị trường

Bất cứ khi nào xuất hiện hiện tượng dư thừa hay thiếu hụt thì cả người mua và người bán sẽ điều chỉnh hành vi đi theo lợi ích riêng của mình và kết quả là thị trường đạt trạng thái cân bằng. Đây chính là cơ chế “bàn tay vô hình” – cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường. Xu hướng chung của thị trường là dư thừa kéo giá xuống, thiếu hụt đẩy giá lên.

Khi dư thừa, người bán tự động giảm giá để giải phóng số hàng ế thừa. Ngược lại, khi thiếu hụt, người bán tự động tăng giá.

3. Kiểm soát giá

Trong nhiều trường hợp, khi giá cân bằng được hình thành từ quan hệ cung cầu trên thị trường tự do, mức giá có thể quá thấp đối với nhà sản xuất hàng hóa hoặc quá cao cho người tiêu dùng. Khi đó, chính phủ sẽ can thiệp vào thị trường bằng việc quy định giá trần hoặc giá sàn để bảo vệ quyền lợi của người sản xuất hoặc người tiêu dùng.

Có hai loại giá chính phủ đưa ra là giá trần và giá sàn.

3.1. Giá sàn

Giá sàn là mức giá thấp nhất được phép lưu hành trên thị trường. Chính phủ sẽ quy định mọi mức giá thấp hơn giá sàn là bất hợp pháp [thường được gọi là bán phá giá].

– Để giá sàn có hiệu lực thì giá sàn phải lớn hơn mức giá cân bằng trên thị trường.

– Mục đích của việc đặt giá sàn của chính phủ là bảo vệ người sản xuất.

– Giá sàn gây ra tình trạng dư thừa trên thị trường. Biện pháp khắc phục tình trạng này là chính phủ mua vào toàn bộ lượng dư thừa.

Khi định ra giá sàn về một loại hàng hoá, nhà nước muốn bảo vệ lợi ích của những người cung ứng hàng hoá. Khi nhà nước cho rằng mức giá cân bằng trên thị trường là thấp, nhà nước có thể quy định một mức giá sàn – với tính cách là một mức giá tối thiểu mà các bên giao dịch phải tuân thủ – cao hơn. Khi không được mua, bán hàng hoá với mức giá thấp hơn giá sàn, trong trường hợp này, những người bán hàng hoá dường như sẽ có lợi. Nhờ việc kiếm soát giá của nhà nước, họ có khả năng bán hàng hoá với mức giá cao hơn giá cân bằng thị trường. Một biểu hiện của việc định giá sàn là chính sách tiền lương tối thiểu. Khi quy định mức lương tối thiểu cao hơn mức lương cân bằng trên thị trường [và chỉ trong trường hợp này, chính sách giá sàn mới có ý nghĩa], nhà nước kỳ vọng rằng những người lao động sẽ khấm khá hơn, nhờ có được mức lương cao hơn.

3.2. Giá trần

Giá trần là mức giá cao nhất được phép lưu hành trên thị trường. Chính phủ quy định mọi mức giá cao hơn giá trần là bất hợp pháp.

– Để giá trần có hiệu lực thì giá trần nhỏ hơn mức giá cân bằng trên thị trường.

– Mục đích của việc đặt giá trần của chính phủ: để bảo vệ người tiêu dùng. Khi đặt mức giá trần, người sản xuất không được đặt giá cao hơn mức giá trần đó.

– Giá trần gây ra tình trạng thiếu hụt trên thị trường. Biện pháp để khắc phục tình trạng này là chính phủ cung cấp toàn bộ lượng thiếu hụt của thị trường.

Khi thiết lập mức giá trần, mục tiêu của nhà nước là bảo vệ những người tiêu dùng. Khi mức giá cân bằng trên thị trường được xem là quá cao, bằng việc đưa ra mức giá trần thấp hơn, nhà nước hy vọng rằng, những người tiêu dùng có khả năng mua được hàng hoá với giá thấp và điều này được coi là có ý nghĩa xã hội to lớn khi những người có thu nhập thấp vẫn có khả năng tiếp cận được các hàng hoá quan trọng. Chính sách giá trần thường được áp dụng trên một số thị trường như thị trường nhà ở, thị trường vốn…

—Nguồn tham khảo: Wikipedia, Kinh tế vi mô [Bộ GD-ĐT, ĐH Kinh Tế, ĐH Ngoại Thương], Samuelson & Nordhaus [Kinh  tế học 1995]
Mankiw GS KTH ĐH harvard [Nguyên lý kinh tế].

Cung cầu thị trườngTổng cầuTổng cung

Video liên quan

Chủ Đề