Dâng thất trảm sớ xin vua chém đầu 7 tên gian thần là ai

Chu Văn An sinh năm 1292, tại xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm [nay là làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội]. Ông là nhà giáo, thầy thuốc, đại quan dưới triều Trần. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Chu Văn An "tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, không cầu lợi lộc". Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, "học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa".

Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam viết Chu Văn An là thầy giỏi nhưng nghiêm khắc, trọng tài năng của học trò và ghét những người cậy giàu ham chơi.

Học trò của ông có nhiều người giỏi, có công giúp nước như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, hai quan lớn của triều Trần. Sinh thời, ông được dân chúng tôn là "Vạn thế sư biểu", nghĩa là người thầy chuẩn mực muôn đời của Việt Nam. 

Mở trường dân lập, dạy học cho nhân dân cả nước

Ở thời Chu Văn An, trường học còn rất hiếm. Cả nước chỉ có một trường quốc lập là Quốc Tử Giám ở kinh đô dành cho con vua, con quan, sau mở rộng cho những người tài trong nhân dân theo học. Tư Thiện Đường, Toát Trai Đường ở Thiên Trường [Nam Định] chỉ dành cho con em tôn thất nhà Trần. Trường Yên Tử [Quảng Ninh] hay Hương Sơn [Hà Tây cũ] dành riêng cho nhà chùa.

Tranh vẽ Chu Văn An. [Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Việt Nam] 

Bởi trường lớp quá ít, con em nhân dân phần lớn thất học, Chu Văn An mở trường Huỳnh Cung tại quê nhà [Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội ngày nay] để dạy học.

"Trường có lớp, thư viện.... Học trò đến học ở trường Huỳnh Cung khá đông, đến 3.000", tác giả Trần Lê Sáng viết trong cuốn Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp - ba bậc thầy của giáo dục Việt Nam.

Thời kỳ dạy học ở Huỳnh Cung, Chu Văn An chuyên truyền đạt kinh điển Nho giáo, mục đích cao nhất của ông không ngoài "giáo kính, giáo trung, giáo văn", nghĩa là dạy sự cung kính, trung hậu và văn nhã. Học trò ở trường Huỳnh Cung cũng chịu ảnh hưởng của thầy Chu rất lớn.

Trong khoa thi năm 1314, hai học trò của ông đỗ Thái học sinh, tương đương học vị tiến sĩ. Việc này gây tiếng vang lớn trong giới sĩ tử đương thời. Thầy giáo Chu Văn An và trường Huỳnh Cung được cả nước biết đến. Trường Huỳnh Cung trở thành mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của nền giáo dục Việt Nam.

Kể từ đây, bên cạnh trường quốc lập, các trường dân lập phát triển, đông đảo con em nhân dân có nơi học tập, sự nghiệp giáo dục nước nhà mở rộng hơn trước.

Trở thành Hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám

Sau khi danh tiếng của Chu Văn An và trường Huỳnh Cung được cả nước biết tới, ông được vua Trần Minh Tông mời ra làm Tư nghiệp [hiệu trưởng] trường Quốc Tử Giám, trông coi việc học cho cả nước. 

Dù được phong chức Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, những năm đầu, Chu Văn An chỉ có trách nhiệm chính là kèm cặp thái tử Trần Vượng, đào tạo vua mới cho nước nhà.

Sau khi Trần Vượng [tức vua Trần Hiến Tông] lên ngôi năm 1329, Chu Văn An mới thực sự chuyên tâm vào công việc ở trường Quốc Tử Giám.

Ông cho mở mang trường, viết Tứ thư thuyết ước, tóm tắt bốn bộ sách lớn là Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học và Trung dung, làm giáo trình dạy học. Kể từ thời Chu Văn An trở về sau, Quốc Tử Giám mỗi ngày được củng cố, mở rộng.

Thời gian làm hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám đem đến cho Chu Văn An nhiều vinh quang mới, nhưng cũng khiến ông gặp đầy sóng gió. Vua Hiến Tông, học trò của ông ở ngôi được hai năm thì qua đời, công lao hơn mười năm đào tạo khó nhọc và hy vọng củng cố nhà Trần của thầy trò tiêu tan.

 Tượng thầy giáo Chu Văn An trong khuôn viên trường THPT Chu Văn An, Hà Nội. [Ảnh: VnExpress]

Lúc này, vua Trần Dụ Tông lên thay, triều chính đất nước rối ren. Vua ham mê tửu sắc, nóng nảy, nông cạn. Trong triều, quyền gian liên kết hoành hành, bên ngoài giặc giã dấy lên cướp bóc. Thấy chính sự bê bối, nhà giáo Chu Văn An phẫn nộ. Ông đã viết Thất trảm sớ, đòi chém 7 kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu.

Dù bị vua Dụ Tông phớt lờ, tấu sớ của hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám gây chấn động dư luận bởi theo quy chế lúc bấy giờ, chỉ quan Ngự sử mới được quyền can gián vua.

Rời kinh thành về Chí Linh dạy học tới cuối đời

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi dâng Thất trảm sớ nhưng không được vua trả lời, Chu Văn An rời kinh thành về vùng đất Chí Linh [Hải Dương] mở trường tiếp tục dạy học. Dù là nơi thâm sâu cùng cốc, số học trò đến với thầy Chu vẫn đông. Lúc này, Chu Văn An lấy hiệu là Tiều Ẩn, chỉ lấy việc dạy học, làm thơ cho vui.

Từ khi Chu Văn An về, Chí Linh dấy lên phong trào học tập, nhiều người học giỏi nổi tiếng. Đặc biệt, ở đời nhà Mạc, huyện này có bà Nguyễn Thị Duệ thi đỗ tiến sĩ, là nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của Việt Nam thời phong kiến. Ngoài ra còn có Nguyễn Phong, mới 14 tuổi cùng cha thi đỗ kỳ thi Hương, 26 tuổi đỗ tiến sĩ.

Những ngày dạy học ở Chí Linh, Chu Văn An còn trồng cây thuốc, nghiên cứu y học, giúp người dân chữa bệnh. Dù ở xa, nhiều học trò cũ làm quan vẫn về thăm ông. Đại Việt sử ký viết khi học trò về thăm, ai làm điều gì chưa đúng phép, ông vẫn nghiêm khắc dạy bảo. Điều này khiến học trò càng thêm kính mến.

Cuối đời, Chu Văn An sống thanh thản trong cảnh nghèo, vui với lớp học, văn chương. Triều đình nhiều lần mời về nhưng ông nhất định từ chối. Thế nhưng lòng ông vẫn hướng về nhà Trần. Sau khi vua Trần Nghệ Tông dẹp yên loạn Dương Nhật Lễ, lấy lại được ngôi vua, Chu Văn An dù tuổi cao vẫn về triều chúc mừng. Việc làm đó của ông khiến nhân dân và sĩ phu đương thời quý trọng.

Trở lại Chí Linh, Chu Văn An lúc bấy giờ gần 80 tuổi, ốm nặng. Tháng 11/1370, ông trút hơi thở cuối cùng. Sau khi mất, triều đình đã đưa Chu Văn An vào thờ ở Văn Miếu, xem ông ngang hàng với những bậc thánh hiền ngày xưa. 

"Suốt cuộc đời mình, Chu Văn An không lúc nào sao nhãng sự nghiệp giáo dục... Điểm nổi bật trong công lao đóng góp của ông là việc sáng lập nên trường học trong nhân dân; việc học và dạy có kết quả lớn. Trường Huỳnh Cung đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch trình phát triển sâu rộng của nền giáo dục nước ta", tác giả Trần Lê Sáng khẳng định.

Năm 2018, Việt Nam xây dựng hồ sơ khoa học về danh nhân Chu Văn An để đề nghị UNESCO phối hợp tổ chức kỷ niệm 650 năm ngày mất của ông vào năm 2020. Phó chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia Đặng Văn Bài khẳng định Chu Văn An có ảnh hưởng lớn tới nền giáo dục Việt Nam. Tư tưởng nổi bật của ông là tự học, tự lập, học tập suốt đời và là tấm gương tôn sư trọng đạo.

Để tưởng nhớ Chu Văn An, nhiều đường phố, trường học khắp cả nước được đặt theo tên ông. Gần đây nhất, trường Bưởi - Chu Văn An vừa kỷ niệm 110 năm thành lập. Giữa khoảng sân của ngôi trường cổ kính, tượng đài Chu Văn An đứng sừng sững như biểu tượng nhắc nhở thầy trò phải phấn đấu học tập. Vào những dịp như năm học mới hay ngày 20/11, nhiều thầy cô, học sinh, cựu học sinh tới trường Chu Văn An để thắp nén hương tưởng nhớ ông.

[Nguồn: VnExpress ]

Đăng nhập

Đăng nhập để trải nghiệm thêm những tính năng hữu ích

Zalo

  • Nóng

  • Mới

  • VIDEO

  • CHỦ ĐỀ

Trong sách giáo khoa lịch sử lớp 7 được bộ Giáo Dục và Đào Tạo biên soạn phát hành, bài “Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỷ XIV”[trang 57] có đề cập sự kiện “Tư nghiệp Quốc Tử giám là Chu Văn An đã dâng sớ lên vua đòi chém 7 tên nịnh thần”. Tuy vừa nghe qua chúng ta thấy có vẻ đơn giản, nhưng ở thời điểm đó thì đây không khác gì “drama” chính trị gây chấn động kinh thành.

Chu Văn An vốn là thầy giáo được mời đến Quốc Tử Giám dạy học. Ông không chỉ riêng dạy cho con cháu quý tộc mà chính tay ông còn đào tạo ra những vị quan kiệt xuất thời này như: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát,... Dưới thời Trần Dụ Tông thì vị vua này nổi tiếng là “bad boy” ăn chơi sa đọa, không thứ gì thiếu: đàn ca, diễn kịch, nghiện rượu, lãng phí tiền của,... Điều này dẫn đến hệ lụy là đê điều không được tu sửa gây ra lũ lụt, hạn hán, đói kém, mất mùa, thuế lại tăng do vua ngày ngày chỉ lo “tiệc tùng" và chỉ tin những nịnh thần khiến cho triều đình lao đao.

Thấy như vậy lúc này Chu Văn An đã mạnh dạn dâng “Thất Trảm sớ”. Trong sớ trình bày những việc làm và nêu tên đích danh 7 tên nịnh thần và yêu cầu “trảm” những tên đó. Tại sao đây lại là “drama” gây chấn động kinh thành? Bởi ở thời phong kiến thì chỉ có những quan chức cao như ngự sử, tể tướng mới có thể can gián vua, nhưng bấy giờ Chu Văn An chỉ là thầy dạy học ở Quốc Tử Giám. Thậm chí nếu “Thất Trảm sớ” bị lọt ra ngoài có thể Chu Văn An sẽ nguy hiểm đến tính mạng.

Cho đến thời điểm hiện tại, ngoài Trần Dụ Tông và Chu Văn An, không một ai biết được nội dung của “Thất Trảm sớ" và danh tính của 7 tên quan nịnh thần kia. Trong cuốn “Vương triều sụp đổ", nhà văn Hoàng Quốc Hải đã đề cập đến 7 cái tên rất có khả năng nằm trong “Thất Trảm sớ”:

  • 1. Mai Thọ Đức: kẻ cai quản phi tần và tuyển chọn mỹ nữ, đã lạm dụng chức quyền bắt về vô số con gái nhà lương dân, bày ra vô số trò dâm ô trác tán dụ dỗ hoàng thượng.
  • 2. Trâu Canh: viên ngự y làm hoàng thượng liệt dương từ năm 3 tuổi. Sau này, y lại bày trò “phục dương” bằng cách bắt giết 21 đứa trẻ lấy mật làm thuốc.
  • 3. Bùi Khoan: kẻ bày trò cờ bạc, rượu chè ngay trong cung thất.
  • 4. Văn Hiến Hầu : gây chia rẽ các đại thần trong cung khiến cho vua không phân biệt được đâu là người tốt kẻ xấu.
  • 5. Nguyễn Thanh Lương: gian manh, xảo trá, dẫn vua vào con đường ăn chơi xa xỉ.
  • 6. Tâm Đức Ngưu: kẻ cấu kết với Nguyễn Thanh Lương tăng xu thuế, bòn rút, vơ vét dân lành, kể cả lúc mất mùa, dân đói chết đầy đường cũng không tha.
  • 7. Đoàn Nhữ Cẩu: hắn cắt bớt khẩu phần của binh lính, vũ khí hỏng hắn không thay thế mà lấy tiền bỏ túi.

Mặc dù tình hình loạn lạc là thế, nhưng sau khi đối mặt với “Thất Trảm sớ” thì Trần Dụ Tông quyết định “seen” và không trả lời. Sự im lặng của vua đã khiến thầy Chu Văn An quyết định từ quan, về vùng núi Chí Linh ở ẩn và tiếp tục nghiệp dạy học. Vua Trần tuy im lặng trước “Thất Trảm sớ” nhưng sau này nhiều lần đến Chí Linh ngỏ ý muốn Chu Văn An về triều đình giúp việc nước. Chu Văn An từ chối thì vua Trần đến gửi nhiều tặng phẩm, Chu Văn An nhận nhưng sau đó đem tặng cho người khác.

Mẹ của Vua Trần Dụ Tông nhiều lần cũng đã răn dạy con mình rằng “Ông ta là người không thể nào bắt làm tôi được, ta sai bảo thế nào được ông ta?”. Ý Thái hậu vừa ca ngợi phẩm chất của Chu Văn An vừa răn dạy con mình không thể lấy uy lực ép buộc người khác. Sự xuất hiện của cụ Chu Văn An là một trong những đóng góp to lớn trong sự nghiệp giáo dục của Đại Việt thế kỉ XIV, đồng thời sự liêm khiết và dũng cảm khi dâng lên “Thất Trảm sớ” nhưng tiếc đã không gặp vị vua anh minh hơn, khiến cho ta nhìn rõ được sự suy sụp của triều đình lúc bấy giờ cũng như hậu quả về sau khi bị Hồ Quý Ly cướp ngôi là sự tất yếu.

Nguồn: Khovail

Video liên quan

Chủ Đề