Đâu là thu tư dụng về thời gian điển ra các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại

CÁC CUỘC CÁCH MẠNG tư sản điển HÌNH THỜI cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [1.08 MB, 26 trang ]

CHUYÊN ĐỀ
CÁC CUỘC CÁCH MẠNG TƯ SẢN ĐIỂN HÌNH THỜI CẬN ĐẠI
CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP CUỐI THẾ KỈ XVIII
[2 tiết]
A. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Cách mạng tư sản Anh
1. Nguyên nhân.
Đầu thế kỷ XVII, Anh là nước có nền kinh tế phát triển nhất châu Âu. Sản xuất công
trường thủ công đã chiếm ưu thế hơn so với sản xuất phường hội. Tư sản Anh giàu lên
nhanh chóng nhờ sự phát triển của ngoại thương, chủ yếu là buôn bán len dạ và buôn nô lệ
da đen.

Quang cảnh Luân Đôn thế kỉ XVIII

Buôn bán nô lệ da đen ở Anh - thế kỷ XVII
Công nghiệp len dạ phát triển làm cho nghề nuôi cừu trở nên có lợi nhất. Nhiều địa chủ
vốn là quý tộc đã chuyển huwongs kinh doanh theo lối TBCN đuổi tá điền đi, biến ruộng
đất thành đồng cỏ rồi thuê nhân công nuôi cừu lấy long cung cấp cho thị trường. Bộ phận
quý tộc này đã giàu lên nhanh chóng, dần dần tư sản hóa trở thành tầng lớp quý tộc mới.
Chế độ PK với chỗ dựa là tầng lớp quý tộc và giáo hội Anh ngày càng cản trở sự kinh
doanh và làm giàu của của tư sản và quý tộc mới. Sác –lơ I đặt ra nhiều thứ thuế, duy trì
nhiều đặc quyền phong kiến làm cho đời sống nhân dân hết sức cơ cực.


Đặc điểm tình hình trên đã làm cho mâu thuẫn giữa tư sản, quý tộc mới và các thế lực
phong kiến bảo thù ngày càng them gay gắt. Đây chính là nguyên nhân sâu xa làm bùng nổ
CMTS Anh.
Nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ cách mạng tư sản anh xoay quanh vấn đề tài chính
khi sác –lơ I triệu tập quốc hội đòi tăng thuế để có tiền chi viện cho cuộc đàn áp những cuộc
nổi dậy của người Xcot –len ở miền Bắc. Quý tộc mới và tư sản đã không phê duyệt các
khoàn thuế do vua đặt ra, kịch liệt phản đối chính sách bạo ngược của nhà vua. Bị thất bại,


Sác lơ I chạy lên vùng núi phía Bắc Luân đôn, tập hợp lực lượng phong kiến chuẩn bị phản
công.
2. Diễn biến
Tháng 8/1642, Sác- lơ I tuyên chiến với Quốc Hội. Cuộc nội chiến bắt đầu.
Từ 1642 – 1648 là khoảng thời gian xảy ra cuộc nội chiến giữa Quốc Hội và nhà Vua.
Ban đầu, quân đội quốc Hội bị đánh bại vì lực lượng của nhà vua được trang bị tốt và
thiện chiến.
Tuy nhiên, được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, Ôlivơ Crôm – oen đã tiến hành
cải cách quân đội. Ông tổ chức 1 đội quân gồm chủ yếu là nông dân,có kỷ luật, có tính chiến
đấu cao, được gọi là “đội quân sườn sắt” Từ đây, quân đội của Quốc hội bắt đầu chiếm ưu
thế. Năm 1648, quân đội của Crôm - oen đã đánh bại quân đội của Sác – lơ .Cuộc nội chiến
kết thúc. Sác lơ I bị kết án tử hình.
Đầu năm 1649, do áp lực của quần chúng nhân dân, Sác – lơ I bị xử tử. Anh trở thành
nước cộng hòa do Ô livơ C.rôm - oen đứng đầu. CM đạt tới đỉnh cao.
Mặc dù cách mạng đạt tới đỉnh cao nhưng mọi quyền hành đều thuộc về quý tộc mới
và tư sản. Nông dân và binh lính không được hưởng quyền lợi gì nên tiếp tục đấu tranh đòi
tự do.
Năm 1953, để bảo vệ quyền lợi của mình, quý tộc mới và TS Anh đã đưa C.rôm –oen
lên làm Bảo hộ công. Chế độ độc tài quân sự được thiết lập.
Năm 1658. C.rôm - oen qua đời, nước Anh rơi vào tình trạng ko ổn định về chính trị. Quý
tộc mới và tư sản lo sợ nhân dân nổi dậy đấu tranh nên chủ trương thỏa hiệp với lực lượng
PK cũ để lập lại chế độ quân chủ.
Năm 1688, QH đã tiến hành chính biến đưa Vin hem – Ô ran giơ [Quốc trưởng Hà
Lan và là con rể vua Anh] lên ngôi vua. Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập.
3. Kết quả, ý nghĩa
CMTS Anh đã lật đổ chế độ phong kiến, mở đường cho CNTB phát triển mạnh mẽ
hơn. Đây là cuộc CMTS có ý nghĩa trọng đại trong thời kỳ quá độ từ chế độ PK sang chế độ
TBCN.
II. Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ
1. Tình hình các thuộc địa. Nguyên nhân của chiến tranh

Sau khi Cô-lôm-bô tìm ra châu Mĩ, nhiều nước châu Âu lần lượt chiếm và chia nhau
châu lục mới này làm thuộc địa. Từ đầu thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII. thực dân Anh đã
thành lập 13 thuộc địa của mình ở Bắc Mĩ.
Đây là vùng đốt phì nhiêu, giàu tài nguyên, quê hương lâu đời của người In-đi-an [thổ dán
da đỏ]. Trong hai thế kỉ XVII - XVIII, thực dân Anh đã tiêu diệt hoặc dồn người ln-đi-an vào
vùng đất phía tây xa xôi Họ bắt người da đen ở châu Phi đưa sang làm nô lệ để khai khẩn đất
hoang, lập đồn điền.


Kinh tế ở 13 thuộc địa này sớm phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Thực dân Anh tìm mọi cách ngăn cản sự phát triển công, thương nghiệp của các thuộc địa ở
Bắc Mĩ [cướp đoạt tài nguyên, thuế má nặng nề. độc quyền buôn bán trong và ngoài nước].
Cư dân ở các thuộc địa Bắc Mĩ, gồm phần lớn là con cháu người Anh di cư sang, mâu thuẫn
gay gắt với chính quốc. Các tầng lớp nhân dân thuộc địa. bao gồm tư sản, chủ đồn điền,
công nhân, nô lệ đều đấu tranh chống ách thống trị của thực dân Anh.
2. Diễn biến cuộc chiến tranh
Tháng 12 - 1773, nhân dân cảng Bô-xtơn tấn công ba tàu chở chè của Anh và ném các
thùng chè xuống biển để phản đối chế độ thuế của thực dân Anh ở các thuộc địa Bắc Mĩ.
Từ 5 - 9 đến 26 - 10 - 1774, đại biểu các thuộc địa Bắc Mĩ đã họp Hội nghị lục địa ở Phi-lađen-phi-a, đòi vua Anh xóa bỏ các luật cấm vô lí. Nhà vua không chấp nhận.
Tháng 4 - 1775. chiến tranh bùng nổ giữa chính quốc và các thuộc địa Bắc Mĩ. Nghĩa quân
do Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn chỉ huy.
G.Oa-sinh-tơn là một chủ nô giàu, có tài quân sự và tổ chức, được cử làm Tổng chỉ
huy nghĩa quân.
Ngày 4 - 7 - 1776. Tuyên ngôn Độc lập được công bố, xác định quyền của con người
và quyền độc lập của các thuộc địa.
Tuyên ngôn đã khẳng định : Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban
cho họ những quyền không thể tước bỏ. Trong số những quyền ấy có quyền được sống,
quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Chiến tranh vẫn tiếp diễn. Do số lượng ít, trang bị nghèo nàn nên lúc đầu quân khởi
nghĩa đã thất bại ở một số nơi. Tuy nhiên, nghĩa quân vẫn giữ được lực lượng và đánh thắng

các đợt tấn công lớn của quân Anh.
Ngày 17 - 10 - 1777, quân khởi nghĩa thắng một trận lớn ở Xa-ra-tô-ga.5000 quân Anh
bị bắt làm tù binh viên tướng chỉ huy phải đầu hàng. Chiến thắng của quân khởi nghĩa làm
suy sụp tinh thần quân Anh, củng cố lòng tin vào thắng lợi của nhân dân các thuộc địa Anh ở
Bắc Mĩ. Tiếp đó, nghĩa quân thắng nhiều trận khác, buộc Anh phải kí Hiệp ước Véc-xai
1783.
3. Kết quả và ý nghĩa cuộc Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở
Bắc Mĩ
Theo Hiệp ước Véc-xai 1783, Anh thừa nhận nền độc lập của các thuộc địa Bắc Mĩ.
Chiến tranh kết thúc thắng lợi với sự ra đời một quốc gia mới - Hợp chúng quốc Mĩ [Hoa
Kì].
Năm 1787, Hiến pháp được ban hành. Theo Hiến pháp, Mĩ là nước cộng hòa liên bang.
Chính quyền trung ương được tăng cường, nhưng các bang được quyền tự trị rộng rãi. Tổng
thông nắm quyền hành pháp. Quốc hội gồm hai viện - Thượng viện và Hạ viện, nắm quyền
lập pháp. Quyền dân chủ bị hạn chế.
Chỉ những người da trắng có tài sản, đóng thuế theo quy định mới có quyền ứng cử,
bầu cử. Phụ nữ không có quyền bầu cử. Những người nô lệ da đen và người In-đi-an không
có quyền chinh tri.
Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ đã giải phóng nhân dân Bắc
Mĩ khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, làm cho nền kinh tế tư bản Mĩ phát triển. Do đó,
cuộc chiến tranh giành độc lập này đồng thời cũng là một cuộc cách mạng tư sản, có ảnh


hưởng đến phong trào đấu tranh giành độc lập của nhiều nước vào cuối thế kỉ XVIII - đầu
thế kỉ XIX.
III. Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII
1. Tình hình nước Pháp trước cách mạng
1.1.Tình hình kinh tế xã hội
a. Kinh tế
- Cuối thế kỷ XVIII, Pháp vẫn là nước nông nghiệp

+ Công cụ, kĩ thuật canh tác lạc hậu, năng suất thấp
+ Mất mùa đói kem thường xuyên xảy ra--> đời sống nông dân cực khổ
- Công thương nghiệp:
+ kinh tế TBCN phát triển nhưng bị CĐPK kìm hãm
+ Chưa có sự thống nhất về đo lường và đơn vị tiền tệ
b. Chính trị:
*Trước cách mạng Pháp là một nước quân chủ chuyên chế, vua nắm mọi quyền .
* Xã hội: có 3 đẳng cấp :
+ Đẳng cấp quý tộc : có mọi quyền , không đóng thuế
+ Đẳng cấp tăng lữ: có mọi quyền , không đóng thuế
+ Đẳng cấp 3 gồm tư sản , nông dân, bình dân thành thị , làm ra của cải ,không có
quyền về chính trị , phải đóng thuế , và làm nghĩa vụ phong kiến .trong đó, Nông dân chiếm
90% dân số , tư sản đứng đầu đẳng cấp thứ ba vì họ có học , có quyền lợi kinh tế , nhưng
không có tiền. Mâu thuẫn với nhau rất gay gắt.
1.2.Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng
- TK XVIII: xuất hiện trào lưu Triết học Ánh sáng
- Đại diện tiêu biểu: Vôn –te, Rút-xô, Mông -te-xki-ơ
- Nội dung: Ủng hộ tư tưởng tiến bộ của GCTS; Tố cáo và lên án chế độ quân chủ
chuyên chế
-Tác dụng: Là bước dọn đường cho CM Pháp bùng nổ
2. TIẾN TRÌNH CỦA CÁCH MẠNG.
a. Cách mạng bùng nổ. Nền quân chủ lập hiến:
* Nguyên nhân trực tiếp:
- Do vua Lu-i XVI ăn chơi xa xỉ--> nợ--> tăng thuế--> mâu thuẩn giữa ĐCIII và
CĐPK ngày càng sâu sắc
- Ngày 5 - 5 - 1789: Vua Lu-i triệu tập Hội nghị ba đẳng cấp để tăng thuế--> đẳng cấp
thứ 3 phản đối--> tư họp Hội đồng dân tộc, tuyên bố quốc hội lập hiến, ban thảo Hiến pháp
và thông qua đạo luật mới về tài chính--> Vua và quý tộc dùng quân đội đàn áp.
* Cách mạng bùng nổ. Thời kỳ thống trị của pháo đại tư sản tài chính [phái Lập
hiến]

- Ngày 14 - 7 - 1789, quần chúng phá ngục Ba-xti, mở đầu cho cách mạng Pháp.
- Quần chúng nhân dân nổi dậy khắp nơi [cả thành thị và nông thôn], chính quyền của
tư sản tài chính được thiết lập [Quốc hội lập hiến].
+ Thông qua Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền.
+ Ban hành chính sách khuyến khích công thương nghiệp phát triển.
+ Tháng 9 - 1791 thông qua hiến pháp, xác lập nền chuyên chính tư sản [quân chủ
lập hiến].


- Vua Pháp tìm cách chống phá cách mạng, khôi phục lại chế độ phong kiến [xúi giục
phản động trong nước, liên kết với phong kiến bên ngoài].
- Tháng 4 - 1792 chiến trang giữa Pháp với liên minh phong kiến Áo - Phổ.
- Ngày 11 - 7 - 1792 Quốc hội tuyên bố Tổ quốc lâm nguy, quần chúng đã nhất loạt tự
vũ trang bảo vệ đất nước
b. Tư sản công thương cầm quyền. Nền cộng hòa được thành lập
- 10 – 8 – 1792, phái Gi-rông-đanh - tầng lớp tư sản công thương đứng lên lãnh đạo
nhân dân tiếp tục làm cách mạng, lật đổ phái Lập hiến và xoá bỏ chế độ phong kiến.
- Sau khi lật đổ phái Lập hiến và xoá bỏ chế độ phong kiến, phái Gi-rông-đanh bầu ra
Quốc hội mới, thiết lập nền cộng hoà. Ngày 21 – 1 – 1793, vua Lu-i XVI bị xử tử vì tội phản
quốc.
- Đầu năm 1793, nước Pháp đứng trước khó khăn mới.
+ Trong nước: Bọn phản động nổi dậy; Đời sống nhân dân khó khăn.
+ Bên ngoài: Liên minh phong kiến châu Âu đe dọa cách mạng.
--> Phái Girôngđanh không muốn đưa cách mạng tiến xa hơn.
- Ngày 2 – 6 – 1793, dưới sự lãnh đạo của phái Gia-cô-banh, đứng đầu là Rô-be-spie,
quần chúng nhân dân đã lật đổ phái Gi-rông-đanh.
c. Nền chuyên chính Giacôbanh - đỉnh cao của cách mạng
-Sau khi lật đổ phái Gi-rông-đanh, phái Gia-cô-banh được sự ủng hộ của nhân dân lên
nắm chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ do Rô-be-spie đứng đầu.
- Trước những khó khăn, thử thách nghiêm trọng, Chính quyền Gia-cô-banh đã đưa ra

những biện pháp kịp thời, hiệu quả.
+Xóa bỏ nghĩa vụ của nông dân đối với chế độ phong kiến
+ Giải quyết ruộng đất cho nông dân, tiền lương cho công nhân.
+Quy định giá các mặt hàng bán cho dân nghèo
+ Thông qua hiến pháp mới, mở rộng tự do dân chủ.
+ Ban hành lệnh "Tổng động viên".
+ Xóa nạn đầu cơ tích trữ..
-> Phái Gia-cô-banh đã hoàn thành nhiệm vụ chống thù trong giặc ngoài, đưa cách
mạng đến đỉnh cao.
- Trong lúc cách mạng đang lên, mâu thuẫn nội bộ đã làm cho phái Gia-cô-banh suy
yếu. Cuộc đảo chính ngày 27 - 7 - 1794 đã đưa chính quyền vào tay bọn phản động, cách
mạng Pháp thoái trào.
*Thời kỳ thoái trào
- Sau đảo chính, Ủy ban Đốc chính ra đời đã thủ tiêu mọi thành quả của cách mạng.
+ Hiến pháp mới được ban hành bảo vệ lợi ích tư sản mới.
+ Xóa bỏ luật giá tối đa.
+ Thủ tiêu các quyền tự do dân chủ
+ Khủng bố những người cách mạng.
- Cuộc đảo chính [11 - 1799] lật đổ chế độ Đốc chính, đưa Na-pô-lê-ông Bô -na -pac
lên nắm quyền, xây dựng chế độ độc tài.
- Sau nhiều năm chiến tranh, Đế chế I của Na-pô-lê-ông bị suy yếu, thất bại [1815].
Chế độ quân chủ ở Pháp được phục hồi.
--> Cách mạng tư sản Pháp kết thúc.


3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG PHÁP CUỐI THẾ KỶ XVIII
- Cách mạng tư sản Pháp đã lật đổ được chế độ phong kiến, đưa giai cấp tư sản lên
cầm quyền, xoá bỏ nhiều trở ngại trên con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu đưa cách mạng đạt tới đỉnh cao với nền
chuyên chính dân chủ Gia-cô-banh.

- Tuy Cách mạng tư sản Pháp được coi là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất, nhưng
nó vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ quyền lợi cho nhân dân, vẫn không hoàn toàn xoá bỏ
được chế độ phong kiến, chỉ có giai cấp tư sản là được hưởng lợi.
B. TỔ CHỨC DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ
I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức
- Sau khi học xong chuyên đề, học sinh sẽ trình bày được nguyên nhân,
diễn biến, kết quả, tính chất và ý nghĩa của ba cuộc cách mạng tư sản
điển hình [cách mạng tư sản Anh, chiến tranh giành độc lập của các
thuộc địa Anh ở bắc Mĩ và cách mạng tư sản Pháp].
- Lý giải được nguyên nhân [sâu xa và trực tiếp] dẫn đến sự bùng nổ các
cuộc cách mạng.
- So sánh được nguyên nhân, diễn biến, kết quả của ba cuộc cách mạng
tư sản để thấy được nét điển hình của mỗi cuộc cách mạng.
- Đánh giá đúng được vai trò của từng lực lượng tham gia cách mạng tư
sản.
2. Kĩ năng
- Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, đánh giá các sự kiện lịch.
- Kĩ năng khai thác kênh hình, tư liệu có liên quan đến chuyên đề.
- Kĩ năng hoạt động nhóm, thuyết trình trước tập thể.
3. Thái độ
- Cách mạng tư sản trong buổi đầu thời cận đại thể hiện mặt tích cực ở
việc loại bỏ chế độ phong kiến ở một số quốc gia châu Âu, song chỉ là sự
thay đổi hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác mà thôi. Một
chế độ bóc lột mới, tinh vi và tàn bạo đang hình thành.
4. Định hướng năng lực hình thành.
- Năng lực chung: năng lực giao tiếp, hợp tác, năng lực tự học.
- Năng lực chuyên biệt: năng lực phân tích, so sánh, đánh giá các cuộc
cách mạng tư sản, phân tích tác động của các cuộc cách mạng tư sản;
năng lực thực hành bộ môn: khai thác kênh hình và tư liệu lịch sử, lập

bảng so sánh.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH.
1. Giáo viên:
- Lược đồ, tranh ảnh có liên quan đến nội dung chuyên đề.
- Giấy A0, bút lông.
- Các tài liệu tham khảo.
2. Học sinh:
- Sưu tầm các tư liệu có liên quan đến ba cuộc cách mạng.


- Tìm hiểu các nhân vật lịch sử chính có liên quan

II. THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ
1. Giới thiệu
* Kiểm tra bài cũ: Sự kiện nào đã kết thúc lịch sử thế giới thời hậu kì
trung đại ở châu Âu? Thực chất của sự kiện đó là gì?
Giáo viên dẫn: sự kiện đó là Phong trào văn hóa phục hưng, thực chất là
cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng chống
lại chế độ phong kiến. Tuy nhiên giai cấp tư sản vẫn chưa lật đổ được chế
độ phong kiến để nắm chính quyền. Vậy giai cấp tư sản sẽ làm gì để
nắm chính quyền. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu chuyên đề “Các cuộc
cách cách mạng tư sản điển hình thời cận đại”.
2. Các hoạt động học tập
1. Hoạt động 1: Tìm hiểu bối cảnh lịch sử - nguyên nhân của ba cuộc
cách mạng tư sản đầu thời cận đại.
[Hình thức tổ chức dạy học: Hoạt động nhóm
Nhóm 1: Tìm hiểu bối cảnh lịch sử - nguyên nhân cách mạng
tư sản Anh
Nhóm 2: Tìm hiểu bối cảnh lịch sử - nguyên nhân chiến
tranh giành độc lập ở bắc Mĩ

Nhóm 3: Tìm hiểu bối cảnh lịch sử - nguyên nhân cách mạng
tư sản Pháp
Nhóm 1: Tìm hiểu cách mạng tư sản Anh
Giáo viên cung cấp: Lược đồ kinh tế nước Anh trước cách mạng và
đoạn tài liệu sau:
- Đến thế kỉ XII, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Anh đã phát triển
mạnh với nhiều công trường thủ công như luyện kim, làm sứ, len dạ,...
trong đó, Luân Đôn trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại và tài
chính lớn nhất nước Anh.
- Ở nông thôn, nhiều quý tộc phong kiến đã chuyển sang kinh
doanh theo con đường tư bản, bằng cách "rào đất cướp ruộng", biến
ruộng đất chiếm được thành những đồng cỏ, thuê công nhân nuôi cừu để
lấy lông cung cấp cho thị trường. Họ trở thành tầng lớp quý tộc mới, còn
nông dân mất đất thì nghèo khổ.

I. Mục tiêu.
1- Kiến thức.
Sau khi học xong chuyên đề, HS:


- Trình bày được:
+Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước Pháp trước cách mạng.
+ Các giai đoạn phát triển của cách mạng tư sản Pháp thế kỉ XVIII.
- Hiểu được:
+ Các khái niệm: “đẳng cấp”, giai cấp”, “Tình thế cách mạng”, “phái Gi-rông - đanh”,
“phái Gia - cô - banh”, “nền chuyên chính dân chủ”.
+Vẽ được sơ đồ mối quan hệ 3 đẳng cấp trong xã hội Pháp trước cách mạng
+ Nguyên nhân sâu xa, trực tiếp của cách mạng tư sản Pháp, vai trò của trào lưu “Triết
học Ánh sáng” trong việc thúc đẩy cách mạng Pháp bùng nổ.
- Phân tích được:

+ Thời kỳ cầm quyền của phái Gia - cô - banh là đỉnh cao của cách mạng tư sản Pháp
+Nhận định của Lê-nin: “cách mạng tư sản Pháp là một cuộc Đại cách mạng”
+Cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất
- Nhận xét được:
+ Cuộc tấn công nhà ngục Bax-ti của quân chúng nhân dân Pháp
+ Ưu điểm và hạn chế của bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791
2. Kĩ năng
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng và khai thác, tranh ảnh lược đồ.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, đánh giá các sự kiện lịch sử.
3. Thái độ
- Biết trân trọng những quan điểm tiến bộ của Triết học Ánh Sáng trong cuộc tấn công
vào thành trì của chế độ phong kiến, dọn đường cho cách mạng bùng nổ.
- Quần chúng nhân dân là động lực chính thúc đẩy sự thành công của cách mạng Pháp,
họ xứng đáng là những người sáng tạo ra lịch sử.
4. Định hướng hình thành các năng lực
Thông qua chuyên đề hướng tới hình thành các năng lực:
- Năng lực chung: năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực tự học
- Năng lực chuyên biệt:
+ Thực hành bộ môn Lịch sử: Khai thác và sử dụng tranh ảnh, phim tư liệu
+ Khả năng phân tích các sự kiện lịch sử
+ Rút ra nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp dẫn đến CM.
+ Thông qua những sự kiện cơ bản trong từng giai đoạn phát triển của CM, HS nhận
thấy tính dân chủ, triệt để của CM Pháp
Đánh giá vai trò của quần chúng nhân dân Pháp trong việc thúc đẩy cách mạng Pháp
phát triển đỉnh cao, làm cho CM mang tính dân chủ rộng rãi.
+Phân tích vị trí và vai trò của GCTS trong cuộc CMTS Pháp
+Đánh giá vị trí của cách mạng tư sản Pháp đối với sự phát triển của thế giới
+ Đam mê học tập và nghiên cứu lịch sử.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Chuẩn bị của giáo viên

- Tranh ảnh minh họa:
+ Tình cảnh nông dân Pháp trước cách mạng, Vua Lu - i XVI và hoàng hậu Mari Ăng
-toa - net, các nhà tư tưởng Pháp, Hội nghị 3 đẳng cấp,Cuộc tấn công pháo đài Bax-ti, ....
+ Phim tư liệu.


+ Phiếu học tập
+ Bảng phụ về sơ đồ tiến trình phát triển của CMTS Pháp
2. Chuẩn bị của học sinh
- Sưu tầm tranh ảnh, tư liệu có liên quan đến cuộc CMTS Pháp theo sự phân công của
GV theo nhóm
- Chuẩn bị câu hỏi trao đổi, thảo luận, trình bày ý kiến phản biện.
III. THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ
1. Giáo viên giới thiệu
Cuối thế kỷ XVIII, giữa Pa-ri hoa lệ của nước Pháp - "Kinh đô châu Âu", đã bùng nổ
một cuộc cách mạng "long trời lở đất". Thành quả chính của cuộc cách mạng đó được Lênin nhấn mạnh rằng: "Cách mạng Pháp xứng đáng là cuộc đại cách mạng. Nó đã làm biết
bao nhiêu việc cho giai cấp của nó, tức là giai cấp tư sản, đến nỗi trọn thế kỷ XIX là thế kỷ
đem lại văn minh và văn hóa cho toàn thể nhân loại đã diễn biến dưới dấu hiệu của cách
mạng Pháp". Vậy tại dao cuộc cách mạng tư sản Pháp được xem là cuộc CMTS triệt để hơn
bất cứ một cuộc cách mạng tư sản nào của thời kì cận đại? Chúng ta sẽ nghiên cứu làm sáng
tỏ vấn đề này trong bài học hôm nay
2. Các hoạt động học tập
I. NƯỚC PHÁP TRƯỚC CÁCH MẠNG
Hoạt động 1: tìm hiểu về tình hình nước Pháp trước cách mạng
Hoạt động nhóm: chia lớp thành 3 nhóm
- Nhóm 1: tìm hiểu về tình hình kinh tế Pháp trước cách mạng
HS đọc tư liệu trong sgk 10/ 151 kết hợp với giới thiệu và phân tích tranh ảnh để trả lời
câu hỏi

GV hướng dẫn HS phân tích bức tranh theo gợi ý: những người trong bức tranh là ai? Họ

có mối quan hệ như thế nào trong xã hội? Biểu đồ về thu nhập của nông dân Pháp trước
cách mạng nói lên điều gì?


Từ đó, GV yêu cầu HS rút ra kết luận: nét nổi bật của kinh tế Pháp trước cách mạng
- Nhóm 2: tìm hiểu về tình hình chính trị - xã hội Pháp trước cách mạng
HS đọc tư liệu sgk 10/152 kết hợp với quan sát tranh để trả lời câu hỏi

Vua Lu - i XVI và hoàng hậu Mari Ăng -toa - nét

Bên trong ngục Bax-ti
GV giới thiệu cho HS về Chân dung vua Lu - i XVI và hoàng hậu Mari Ăng -toa - nét và
nhà ngục Bax - ti - biểu tượng cho quyền lực của Vua Lui XVI.
GV đặt câu hỏi: xã hội Pháp trước cách mạng gồm mấy đẳng cấp? Vẽ sơ đồ thể hiện mối
quan hệ giữa các đẳng cấp đó. Từ đó phân tích đặc điểm, vị trí của từng đẳng cấp?


GV hướng dẫn HS cách vẽ sơ đồ
- Nhóm 3: tìm hiểu về trào lưu triết học Ánh sáng
HS đọc tư liệu sgk 10 / 152 kết hợp với việc giới thiệu tranh ảnh để trả lời câu hỏi

GV đặt câu hỏi: Trình bày những nội dung cơ bản của trào lưu triết học Ánh sáng thế kỉ
XVIII? Vai trò của trào lưu Triết học ánh sáng đối với sự bùng nổ cách mạng Pháp?
Học sinh các nhóm trao đổi thảo luận báo cáo kết quả.
GV yêu cầu đại diện các nhóm lên trả lời, nhóm khác có thể bổ sung, sau đó giáo viên nhận
xét, phân tích một số kiến thức trọng tâm và hướng dẫn HS chốt lại các ý sau:
NƯỚC PHÁP TRƯỚC CÁCH MẠNG
KINH TẾ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
CUỘC ĐẤU TRANH

TRÊN LĨNH VỰC TƯ
TƯỞNG
- Cuối thế kỷ XVIII, Pháp vẫn * Chính trị: Trước cách - TK XVIII: xuất hiện trào
mạng Pháp là một nước lưu Triết học Ánh sáng
là nước nông nghiệp
+ Công cụ, kĩ thuật canh tác quân chủ chuyên chế , vua - Đại diện tiêu biểu:
nắm mọi quyền lưc [đứng +Vôn -te
lạc hậu, năng suất thấp
+Rút-xô
+ Mất mùa đói kem thường đầu là Vua Lu -i XVI]
xuyên xảy ra--> đời sống nông * Xã hội :có 3 đẳng cấp : +Mông -te-xki-ơ
+ Đẳng cấp quý tộc - Nội dung:
dân cực khổ
[ĐC I] : có đặc quyền , +Ủng hộ tư tưởng tiến bộ
- Công thương nghiệp:
của GCTS
+ kinh tế TBCN phát triển không đóng thuế
+ Đẳng cấp tăng +Tố cáo và lên án chế độ
nhưng bị CĐPK kìm hãm
có đặc quân chủ chuyên chế
+ Chưa có sự thống nhất lữ :[ĐC II]:
quyền , không đóng thuế
-Tác dụng:Là bước dọn
về đo lường và đơn vị tiền tệ
+ Đẳng cấp đường cho CM Pháp bùng
3 gồm tư sản , nông dân, nổ
bình dân thành thị : không
có đặc quyền về chính
trị , phải đóng thuế . trong
đó, Nông dân chiếm 90%

dân số , tư sản đứng đầu
đẳng cấp thứ ba vì họ có
học , có thế lực kinh tế.
--> Mâu thuẩn xã hội gay
gắt: ĐC I, ĐC II >< ĐC
III
II/ TIẾN TRÌNH CỦA CÁCH MẠNG
Hoạt động 2: Cách mạng bùng nổ. Nền quân chủ lập hiến


[làm việc cá nhân, lớp]
a/ Cách mạng bùng nổ
GV chiếu phim tư liệu và yêu cầu HS theo dõi đọạn phim kết hợp với sgk để trả lời các câu
hỏi sau:
- Nêu nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự bùng nổ cách mạng Pháp?
GV chốt ý: như vậy, đến đầu năm 1789: tình thế cách mạng chín muồi ở Pháp
Tiếp đó GV yêu cầu HS nêu khái niệm: Vậy “tình thế cách mạng” là gì?
HS suy nghĩ trả lời
GV phân tích, chốt ý và hình thành khái niệm cho HS: “ Tình thế cách mạng” là khi giai cấp
thống trị không thể thống trị được nữa và giai cấp bị trị cũng không thể sống như trước nữa.
- GV tiếp tục đặt câu hỏi: vậy ai là chất xúc tác để chuyển từ tình thế cách mạng sang cách
mạng bùng nổ? Sự kiện nào được xem là mốc mở đầu cho cách mạng Pháp bùng nổ?
Sau đó GV nhận xét và nhấn mạnh ý nghĩa của sự kiện ngày 14/07/1789: tấn công vào thành
trì của chế độ phong kiến, mở đầu cho cách mạng Pháp bùng nổ. Và 14/07 trở thành ngày
“quốc khánh” của nước Pháp. Dưới ảnh hưởng ngày 14.7 ở Paris, phong trào cách mạng nổ
ra ở nông thôn. Nhân dân tự vũ trang bằng cuốc, xẻng, súng săn...kéo về lâu đài của lãnh
chúa, đốt những văn bản ghi các nghĩa vụ phong kiến của nông dân . Ở những nơi lãnh chúa
tỏ ra ngoan cố thì nông dân thiêu hủy lâu đài, và đôi khi họ còn treo cổ lãnh chúa. Ðây là sự
phản kháng mãnh liệt của nông dân ở nông thôn.



Hội nghị 3 đẳng cấp [5/5/1789]
nhà tù Ba xti [14/7/1789]

Tấn công pháo đài –


b/ Nền quân chủ lập hiến
Trước hết GV nhắc lại cho HS về các bộ phận thuộc GCTS:Đại tư sản, Tư sản công thương,
tiểu tư sản. Và giới thiệu: sau sự kiện 14/07: bộ phận Đại tư sản [Phái lập hiến] lên nắm
chính quyền ở Pháp?
Sau đó Gv nêu câu hỏi: sau khi lên nắm chính quyền, phái Lập hiến đã có những việc làm
gì?
HS đọc sgk trả lời.
GV tiếp tục đặt câu hỏi:Nêu nội dung của Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền. Qua
đó, em có nhận xét gì về bản tuyên ngôn?
+Đại
tưtư
sản
ch
HS
vềvềcác
GCTS:
+Tư
+Tiểu
sản
vừa
sản
Trước
hết,

GV
nhắc
cho
HS
cácbộbộphận
phânthuộc
thuộc
giai cấp tư sản:
b/
Nền
quân
chủ
lậplại
GV
nêu
câu
hỏi:
sau
sựhiến
kiện
ngày
14/07,
chính
quyền
GV giới thiệu và cung cấp thêm tư liệu cho HS trong việc trả lời câu hỏi.


Tư liệu: Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền gồm Phần mở đầu và 17 điều:
Điều 1: Mọi người sinh ra đều có quyền sống tư do và bình đẳng, mọi sự phân biệt xã hội
chỉ có thể đặt trên cơ sở lợi ích chung.

Điều 2:Mục đích của các tổ chức chính trị là giữ gìn các quyền tư nhiên và không thể tước
bỏ của con người: đó là quyền tự do, quyền sở hữu, quyền được an toàn và quyền chống áp
bức.
Điều 3: Nguyên tắc của mọi chủ quyền chủ yếu đặt trên cơ sở của dân tộc, không một tổ
chức, không một cá nhân nào có thể sử dụng quyền hành mà không xuất phát từ nguyên tắc
này.
...Điều 17: Quyền sở hữu là quyền bất khả xâm phạm và thiêng liêng, không ai có thể tước
bỏ...
HS đọc sgk kết hợp với tư liệu để rút ra câu trả lời
GV nhận xét và chốt ý: Tuyên ngôn gồm 17 điều khoản, được mở đầu với điều I như sau:
Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng. Bản Tuyên ngôn đã nêu lên công thức nổi tiếng
của cách mạng Pháp Tự do -Bình đẳng -Bác ái. Trong 17 điều khoản của Tuyên ngôn, ta
thấy toát lên hai vấn đề chính: công nhận, khẳng định quyền tự nhiên của con người, tuyên
bố những nguyên lý tổ chức chính trị nhằm bảo đảm quyền con người và quyền công dân.
Trong khi chế độ phong kiến còn thống trị hầu hết châu Âu, bản Tuyên ngôn đã mạnh dạn
tuyên bố nguyên tắc bình đẳng đối với mọi người. Ðó là văn bản khai tử chế độ cũ và là
cương lĩnh của chế độ mới.


GV tiếp tục nêu câu hỏi: những sự kiện nào chứng tỏ phái lập hiến đã làm ngừng trệ sự phát
triển của cách mạng?
HS đọc sgk phần chữ nhỏ để trả lời câu hỏi
GV nhận xét, phân tích và chốt ý
GV giới thiệu cho HS: thái độ của vua Lu-i XVI trước những việc làm của phái Lập hiến và
sự kiện 4/1792
Sau đó nêu câu hỏi: nêu thái độ của Phái lập hiến và của nhân dân Pháp trước tình hình nước
Pháp bị liên quân phong kiến Áo - Phổ tấn công?
HS đọc sgk và suy nghĩ trả lời.
GV phân tích và chốt ý:
- Phái lâp hiến: chần chừ, không muốn đưa cách mạng tiến xa hơn

-Quần chúng nhân dân: tự vũ trang đưa cách mạng chuyển sang giai đoạn mới
Hoạt động 3: Tư sản công thương cầm quyền. Nền cộng hòa được thành lập
GV nêu câu hỏi: Tư sản công thương [phái Gi - rông - đanh] lên cầm quyền ở Pháp trong
hoàn cảnh nào? Những việc làm của phái này sau khi lên cầm quyền?
GV hình thành khái niệm cho HS: “Phái Gi - rông - đanh”: phái này đại diện cho phần lớn tư
sản công thương ở quận Gi - rông - đơ ở vùng Tây Nam nước Pháp.
HS đọc sgk, kết hợp với tranh ảnh để trả lời câu hỏi


Vua Lu -i XVI bị xử chém [21/1/1791]
GV nhấn mạnh cho HS: cách mạng Pháp phát triển sang giai đoạn mới: giai đoạn cộng hòa
Tiếp đó, GV nêu vấn đề: việc xử tử vua Lu - i XVI có ý nghĩa như thế nào?
HS suy nghĩ trả lời, GV nhận xét và chốt ý
GV yêu cầu HS quan sát và giới thiệu: đầu năm 1793, nước Pháp đứng trước những thử
thách nghiệm trọng:
-Trong nước: bọn phản động ngóc đầu dậy
-Bên ngoài: liên quân phong kiến châu cùng quân Anh tấn công nước Pháp
Sau đó, GV nêu vấn đề: Tại sao liên quân phong kiến châu Âu lại tấn công nước Pháp? Thái
độ của Phái Gi -rông -đanh trước những thử thách đó?
HS đọc sgk, suy nghĩ trả lời
GV nhận xét, phân tích và chốt ý: phái Gi -rông đanh không kiên quyết kháng chiến vì lo sợ
quần chúng đưa cách mạng đi xa.
GV tiếp tục nêu đặt câu hỏi: Trước thái độ của phái Gi - rông - đanh, quần chúng nhân dân
Pháp đã làm gì?


HS đọc sgk trả lời
Hoạt động 3: Nền chuyên chính dân chủ Gia - cô- banh. Đỉnh cao của cách mạnga
GV hình thành khái niệm cho HS “ phái Gia- cô - banh”: phái này đại diện cho GCTS vừa
và nhỏ.

GV nêu câu hỏi: Chính quyền Gia- cô - banh được thiết lập trong hoàn cảnh nước Pháp như
thế nào?
HS đọc sgk trả lời kết hợp với quan sát tranh để trả lời và giới thiệu đôi nét về luật sư Rô
-bes -pie [ý chí sắt đá, tinh thần dân tộc không khoan nhượng trước kẻ thù vì lợi ích của
nhân dân, một con người kiên định "không thể đảo ngược được"]


GV nhấn mạnh: Cách mạng Pháp chuyển sang giai đoạn cao nhất - giai đoạn chuyên chính
dân chủ Gia - cô - banh.
GV đặt vấn đề: Tại sao nói thời kỳ cầm quyền của phái Gia - cô - banh là giai đoạn phát
triển cao nhất [hay còn gọi “đỉnh cao”] của CMTS Pháp.
GV yêu cầu HS chứng minh cho vấn đề vừa nêu.


Gv cung cấp tư liệu và hướng dẫn HS so sánh những việc làm của phái Gia - cô - banh với
những việc làm của phái Lập hiến và phái Gi - rông - đanh.
Tư liệu:
-Hiến pháp 1791 của phái Lập hiến:
+hiến pháp chia công dân ra làm hia loại:”Công dân tích cực”[ là những người có tài sản,
đóng thuê cao ] có quyền bầu cử, ứng cử, làm việc trong bộ máy chính quyền và “công dân
tiêu cực” [gồm đa số những người lao động nghèo] không có quyền chính trị.
+Phụ nữ đóng góp nhiều cho cách mạng vẫn không có một quyền công dân nào. Họ tiếp tục
đấu tranh đòi quyền chính trị.
+ Quốc hội còn thông qua đạo luật Le Chapelier nhằm cấm sự tụ tập và lập hội của công
dân.
- Hiến Pháp 1793 được thông qua ngày 24.6.1793: HP xóa bỏ việc phân biệt hai loại công
dân tích cực và tiêu cực, qui định quyền phổ thông đầu phiếu cho nam công dân trên 21
tuổi. Theo Hiến pháp, quyền Hành pháp giao cho một Hội Ðồng gồm 24 người do QHLP cử
ra. Hằng năm 1/2 số thành viên của uỷ ban được đổi mới. Hiến pháp 1793 được xem là hiến
pháp dân chủ nhất. Nó tuyên bố những nguyên tắc tự do và dân chủ. Hiến pháp 1793 được

thông qua nhưng không được thi hành do nước Pháp đang ở trong hoàn cảnh dặc biệt.
- Vấn đề ruộng đất : Quốc ước đã giải quyết triệt để vấn đề ruộng đất để lôi kéo nhân
dân về phía cách mạng. Ngày 3.6.1793, chính quyền cách mạng ban hành đạo luật chia tài
sản của bọn lưu vong thành lô nhỏ, bán trả góp kéo dài trong 10 năm để nông dân nghèo có
thể mua được. Ngày 10.7.1793, Quốc ước ra sắc lệnh chia đều đất công cho nông dân.
Ngày 17.7.1793, Quốc ước ra sắc lệnh thủ tiêu các đặc quyền phong kiến, nông dân được
giải phóng khỏi mọi nghĩa vụ phong kiến mà không phải bồi thưòng. Những đạo luật ruộng
đất đã có tác dụng tích cực trong nhân dân, biến họ thành lực lượng trung thành với cách
mạng.
- Luật giá tối đa: phái Jacobins đã thõa mãn những yêu sách của phái Hóa Dại trong
việc giải quyết vấn dề lương thực, thực phẩm cho nông dân. Quốc ước đã qui định các đạo
luật trừng trị bọn đầu cơ tích trữ, hạn chế việc tự do mua bán, trưng thu và định giá
lưong thực, thực phẩm, tổ chức phân phối công bằng, định giá tối đa đối với mọi nhu yếu
phẩm của nông dân. Tháng 7.1793, Quốc ước thông qua sắc lệnh xử tử bọn đầu cơ lương
thực. Tháng 9. 1793 Quốc ước thông qua đạo luật giá tối đa về các loại ngũ cốc và bột mì
trong toàn quốc. Tháng 10.1793, đạo luật giá tối đa phổ biến được ban hành. Quốc ước
cũng qui định lương tốïi đa đối với công nhân. Ðạo luật Le Chapelier vẫn được duy trì, đó
là hạn chế hạn chế của phái Jacobins.
- Thanh toán thù trong giặc ngoài: Việc khẩn trương trừng trị bọn phản cách mạng và
dập tắt các ổ bạo động là điều bức thiết. Tòa án cách mạng được thành lập, bắt đầu hoạt
động khẩn trương và kiên quyết. Những phần tử phản cách mạng lần lượt lên máy chém.


Các cuộc bạo động phản cách mạng ở Vendée và những nơi khác đều bị trấn áp một cách
kiên quyết.
HS đọc sgk kết hợp với tư liệu và hướng dẫn của GV để chứng minh cho vấn đề đặt ra
GV nhận xét, phân tích và chốt ý và hình thành khái niệm cho HS : “nền chuyên chính dân
chủ”
GV tiếp tục nêu câu hỏi: Những việc làm của Phái Gia - cô - banh có ý nghĩa như thế nào?
HS đọc sgk trả lời

GV chốt ý: đẩy lùi thu trong giặc ngoài--> đưa cách mạng đạt đến đỉnh cao
Hoạt động 4: Thời kỳ thoái trào
GV đặt câu hỏi: Sự kiện nào cho thấy CM Pháp bước vào thời kỳ thoái trào? Nguyên nhân
nào dẫn đến sự sụp đổ của nền chuyên chính dân chủ cách mạng Gia - cô - banh?
GV yêu cầu HS giới thiệu về nhân vật : Na -pô -lê-ông Bô - na - pac.
HS đọc sgk kết hợp với giới thiệu tranh trả lời

Sau đó, nhận xét, phân tích và chốt ý


GV tiếp tục nêu câu hỏi: Sau khi Phái Gia - cô - banh bị lật đổ thì tình hình nước Pháp như
thế nào?
HS đọc sgk trả lời
Gv kết luận: CMTS Pháp chấm dứt
Sau khi trình bày xong các thời kỳ cầm quyền của các bộ phận của GCTS, GV yêu cầu HS:
Hãy vẽ sơ đồ minh họa tiến trình cách mang tư sản Pháp “phát triển theo đường đi lên”? Và
phân tích vai trò
GV nhấn mạnh và hướng dẫn cho HS: qua 3 giai đoạn của CMTS Pháp, mỗi bộ phận của
GCTS lần lượt lên nắm chính quyền: Phái lập hiến [14/07 /1789 - 10/08/1792], Phái Gi rông - đanh [ 21/09/1792 - 2/6/1793] và phái Gia - cô - banh [02/06/ 1793 - 27/07/1794]. Và
bộ phận sau bao giờ cũng thực hiện những chính sách tiến bộ hơn so với bộ phận trước,
trong đó giai đoạn chuyên chính của phái Gia - cô - banh là triệt để nhất - đỉnh cao của CM
Pháp.
HS tự thiết lập sơ đồ dưới sự hướng dẫn của HS
GV chốt lại thông qua bảng phụ kiến thức:


III/ Ý nghĩa của cách mạng tư sản Pháp
Hoạt động 5: tìm hiểu ý nghĩa và tính chất của CMTS Pháp
[làm việc cá nhân, cả lớp]
GV đặt câu hỏi: qua tiến trình của cuộc cách mạng, rút ra ý nghĩa của cuộc CMTS Pháp cuối

thế kỉ XVIII?
GV đọc sgk trả lời câu hỏi
GV phân tích và chốt lại những kiến thức trọng tâm.
GV đưa ra nhận định của Lê - nin: “"Cách mạng Pháp xứng đáng là cuộc đại cách mạng. Nó
đã làm biết bao nhiêu việc cho giai cấp của nó, tức là giai cấp tư sản, đến nỗi trọn thế kỷ
XIX là thế kỷ đem lại văn minh và văn hóa cho toàn thể nhân loại đã diễn biến dưới dấu
hiệu của cách mạng Pháp".


Sau đó, đặt câu hỏi: rút ra tính chất của CMTS Pháp?
HS so sánh với các cuộc CMTS đã học và rút ra kết luận: Đây là cuộc CMTS triệt để nhất
Từ câu trả lời của HS, GV yêu cầu HS phân tích hoặc chứng minh
GV nhận xét, phân tích và chốt ý: CMTS Pháp mang tính chiều sâu và chiều rộng
GV lập bảng kiến thức cho HS

Ý nghĩa:

Ý nghĩa của CMTS Pháp
- Cách mạng tư sản Pháp đã lật đổ được chế độ phong kiến, đưa giai cấp
tư sản lên cầm quyền, xoá bỏ nhiều trở ngại trên con đường phát triển của
chủ nghĩa tư bản.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu đưa cách mạng đạt tới đỉnh
cao với nền chuyên chính dân chủ Gia-cô-banh.

Tính chất
Là cuộc CMTS triệt để nhất
C. XÂY DỰNG BẢNG MÔ TẢ CÁC YÊU CẦU VÀ BIÊN SOẠN CÂU HỎI BÀI TẬP
KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
1.Bảng mô tả các mức độ nhận thức
Nội dung


Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng thấp Vận dụng cao
[ Mô tả yêu cầu[ Mô tả yêu cầu[ Mô tả yêu cầu[ Mô tả yêu cầu
cần đạt ]
cần đạt ]
cần đạt ]
cần đạt ]

Nguyên
nhân

Trình
bày- Giải thích đượcPhân tích được
được tình hình kinhsơ đồ 3 đẳng cấpý nghĩa của trào
tế, chính trị xã hộitrong xã hội Pháp lưu triết học
Pháp trước cáchGiải thích tại sao Ánh sáng
mạng
dưới nền chuyên
Nêu được nguyênchính Gia cô banh
nhân sâu xa vàlà đỉnh cao của
nguyên nhân trựccách mạng tư sản
tiếp bùng nổ cáchPháp.
mạng tư sản Pháp. So sánh tính chất
của cuộc cách
mạng tư sản Pháp
với các cuộc cách
mạng tư sản trước
đó.


Diễn biến

Trình bày được các-Lập được sơ đồ-Phân tích đượcSo
sánh
được
thời kì cầm quyềntiến trình củaưu điểm, hạnCMTS Pháp với


của phái Lập hiến,CMTS Pháp
phái Gi – rông –
đanh, phái Gia – cô
- banh

Kết quả - ý -Nêu được ý nghĩa
nghĩa
của CMTS Pháp

chế của bảnCMTS Anh và
tuyên
ngônCuộc chiến tranh
Nhân quyền vàgiành độc lập của
dân quyền.
13 thuộc địa Anh ở
- Phân tích đượcBắc Mĩ về nhiệm
thời kì cầmvụ, giai cấp lãnh
quyền của pháiđạo, kết quả, tính
Gia – cô – banhchất
là đỉnh cao của
CMTS Pháp

Phân tích được
tính chất và ý
nghĩa của cuộc
cách mạng tư
sản Pháp.

III . HỆ THỐNG CÂU HỎI / BÀI TẬP ĐÁNH GIÁ THEO CÁC MỨC ĐÃ MÔ TẢ:
1/ Nhận biết
- Trình bày được tình hình kinh tế, chính trị xã hội Pháp trước cách mạng
-Trình bày được các thời kì cầm quyền của phái Lập hiến, phái Gi – rông – đanh, phái Gia –
cô – banh
-Nêu được ý nghĩa của CMTS Pháp
2/ Thông hiểu
Giải thích được sơ đồ 3 đẳng cấp trong xã hội Pháp
-Lập được sơ đồ tiến trình của CMTS Pháp
3/ Vận dụng thấp
-Phân tích được ý nghĩa của trào lưu triết học Ánh sáng
-Phân tích được ưu điểm, hạn chế của bản tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền.
- Phân tích được thời kì cầm quyền của phái Gia – cô – banh là đỉnh cao của CMTS Pháp
- Phân tích được tính chất của CMTS Pháp
4/ Vận dụng cao
-So sánh được CMTS Pháp với CMTS Anh và Cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc
địa Anh ở Bắc Mĩ về nhiệm vụ, giai cấp lãnh đạo, kết quả, tính chất


Khái niệmSửa đổi

Dựa theo những tiêu chí chính trị và văn minh, lý giải về sự kiện khởi đầu cũng như sự kiện kết thúc của thời kỳ Cận đại không được đồng nhất:

  • Thời kỳ cận đại kéo dài từ năm 1453 khi Constantinopolis rơi vào tay đế quốc Ottoman đến khi Cách mạng Pháp bùng nổ năm 1789.
  • Từ khi Nội chiến Anh bùng nổ năm 1640 đến khi Cách mạng Tháng Mười diễn ra năm 1917 ở nước Nga.
  • Từ sau những cuộc phát kiến địa lý ở thế kỷ XV cho đến trước cuộc Cách mạng khoa học - kỹ thuật đương đại [diễn ra vào giữa thế kỷ XX].

Thời kỳ cận đại chứng kiến chủ nghĩa tư bản thế giới trên đà phát triển, các thể chế quốc gia dân chủ được thiết lập và củng cố, giữa hai nền văn minh phương Đông và phương Tây xảy ra những cuộc xung đột, nhưng bên cạnh đó cũng có sự giao lưu. Cũng trong thời kỳ này, cuộc Cách mạng công nghiệp - cơ khí được thực hiện.

Đối với các quốc gia Đông phương, thời Cận đại thường được xem là khởi đầu với cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, thời Cận đại ở các nước Đông phương gắn liền với quá trình xâm lược và chống xâm lược, sự chuyển biến hình thái kinh tế - xã hội theo chiều hướng tư bản chủ nghĩa, quá trình cải cách và cách mạng của những cơ cấu quyền lực chính trị.

  • Ở Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng thời kỳ Cận đại bắt đầu từ khi cuộc xâm lược của thực dân Pháp khởi đầu năm 1858 cho đến Cách mạng Tháng Tám diễn ra năm 1945.
  • Trong lịch sử cận đại ở Nhật Bản, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân. Nhờ có cuộc cải cách của ông, Nhật từ một nước phong kiến trở thành một đất nước hiện đại, đứng trong hàng ngũ các cường quốc thế giới.

Một số cuộc cách mạng tư sản tiêu biểuSửa đổi

  • Cách mạng tư sản Hà Lan
  • Cách mạng tư sản Anh
  • Cách mạng tư sản Pháp
  • Cách mạng tư sản ở Bắc Mỹ
  • Cách mạng Tân Hợi
  • Cách mạng Thiên hoàng Minh Trị

Chú thích & tham khảoSửa đổi

  1. ^ PGS.TS. Phạm, Hùng Việt [2005]. Từ điển bách khoa Việt Nam. Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Cách mạng Hà Lan thế kỷ XVI

Trước hết để có thể nêu ý nghĩa lịch sử của các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên bài viết xin đưa ra các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên để bạn đọc nắm rõ.

Cách mạng Hà Lan thế kỷ XVI là một trong những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên. Đầu thế kỉ XVI, Nê-đéc-lan là nơi có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhất ở châu Âu nhưng lại chịu sự thống trị khốn khổ của vương quốc Tây Ban Nha. Các cuộc đấu tranh của nhân dân Nê-đéc-lan ngày càng nhiều. Tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh tháng 8/1566 là cuộc đấu tranh bị đàn áp đẫm máu. Các tỉnh Bắc Nê đéc len thành lập nước Cộng hòa – Các tỉnh Liên hiệp 1581 [Sau này gọi là Hà Lan]. Hà Lan độc lập vào năm 1648.

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

[ĐCSVN] - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga [1917], đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó [địa chủ] mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3/1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5/1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Video liên quan

Chủ Đề