Doanh nghiệp lớn là gì số lượng nhân viên năm 2024

Doanh nghiệp lớn là gì? Doanh nghiệp quy mô thế nào là doanh nghiệp lớn? Đặc điểm của doanh nghiệp lớn? So sánh giữa doanh nghiệp nhỏ vừa và lớn?

Xác định được mô hình của doanh nghiệp là một trong những vấn đề quan trọng giúp quản lý hoạt động của đơn vị mình. Vậy doanh nghiệp lớn là như thế nào và căn cứ xác định là gì?

Mục lục bài viết

Đối với người chủ doanh nghiệp việc xác định mô hình của doanh nghiệp là hết sức quan trọng với người chủ doanh nghiệp. Bởi nó liên quan trực tiếp đến các loại thuế mà doanh nghiệp đó phải chịu trong công việc kinh doanh của mình. Đồng thời nó còn là trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc đảm bảo các vấn đề công ăn việc làm cho người lao động hiện nay.

Hiện nay chưa có khái niệm cụ thể ra sao là công ty lớn mà thường chỉ sử dụng quy mô của công ty đó để đánh giá công ty đó thuộc loại hình doanh nghiệp nào. Đối với công ty lớn thì tiêu chí nhận định là các công ty được định hướng dựa trên 2 tiêu chí đó chính là có tổng nguồn vốn đạt trên 100 tỷ VNĐ hoặc tổng số người lao động từ 300 người trở lên.

2. Đặc điểm của doanh nghiệp lớn:

– Dù chỉ chiếm 5% trong tổng số các doanh nghiệp được đăng ký bây giờ. không những thế các doanh nghiệp lớn lại đóng vai trò then chốt trong việc tăng trưởng kinh tế của các đất nước trên toàn thế giới. xây dựng một khối lượng việc làm lớn và chịu trách nhiệm trong việc xúc tiến nền kinh tế.

– Các công ty lớn nhận vai trò ổn định nền kinh tế trong những vấn đề khủng hoảng thì các doanh nghiệp lớn luôn là người “đứng mũi chịu sào” là đầu tàu vững chắc trong nền kinh tế quốc gia.

– Tạo nên sự ổn định cho nền kinh tế: các công ty và doanh nghiệp to luôn tạo nên thành công kinh tế đồng đều và dài hạn tạo điều kiện cho nên kinh tế luôn được ổn định và giảm bớt các chuyển biến.

– Tạo nên các nghành công nghiệp và dịch vụ quan trọng: hiện giờ các doanh nghiệp to đều hoạt động trong những nghành ngành chủ đạo trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Tại VN đó là các công ty giống như tập đoàn dầu khí, tập đoàn điện lực, tập đoàn than và khoáng sản.

– Đóng góp một lượng to GDP trong kinh tế của đất nước.

– Các doanh nghiệp lớn có gốc vốn rất to và tiềm lực kinh tế mạnh cần có thể nhanh chóng cải thiện và xúc tiếp với sự tiên tiến của khoa học kỹ thuật trên thế giới.

– Doanh nghiệp to có sức cạnh tranh mạnh về vốn, nhân lực và brand tốt hơn so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

– Các công ty to cân bằng giữa việc sản xuất và mua bán cho một nền kinh tế thay vì chỉ hoạt động trong các ngành nghề mua bán và thương mại.

3. Doanh nghiệp quy mô thế nào là doanh nghiệp lớn:

3.1. Cách xác định quy mô của doanh nghiệp lớn:

– Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm thủy sản: là những doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng và có số lao động từ 200 đến 300 người.

– Đối với doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng: là những doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng và có số lao động từ 200 đến 300 người.

– Đối với doanh nghiệp Thương mại và dịch vụ: là những doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng và có số lao động từ 50 đến 100 người.

3.2. So sánh giữa doanh nghiệp nhỏ vừa và lớn:

Doanh nghiệp vừa và nhỏ – siêu nhỏ được gọi chung là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này thường có đặc điểm sau đây:

  • Quy mô nhỏ bé về mặt vốn
  • Nhỏ bé về mặt doanh thu
  • Nhân sự lao động không nhiều

Tại Điều 6, Nghị định số 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy định về các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:

Doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân theo quy mô bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa.

1. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.

Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.

2. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này.

Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này.

3. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.

Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.

– Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định căn cứ vào quy định của pháp luật về hệ thống ngành kinh tế và quy định của pháp luật chuyên ngành. Trường hợp hoạt động trong nhiều lĩnh vực, doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định căn cứ vào lĩnh vực có doanh thu cao nhất. Trường hợp không xác định được lĩnh vực có doanh thu cao nhất, doanh nghiệp nhỏ và vừa được xác định căn cứ vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động nhất.

– Số lao động tham gia bảo hiểm xã hội là toàn bộ số lao động do doanh nghiệp quản lý, sử dụng và trả lương, trả công tham gia bảo hiểm xã hội theo pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm được tính bằng tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội của năm chia cho số tháng trong năm và được xác định trên chứng từ nộp bảo hiểm xã hội của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội.

Trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân được tính bằng tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội của các tháng hoạt động chia cho số tháng hoạt động.

– Tổng nguồn vốn được xác định trong bảng cân đối kế toán thể hiện trên Báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế.

Trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm, tổng nguồn vốn được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cuối quý liền kề thời điểm doanh nghiệp đăng ký hưởng nội dung hỗ trợ.

– Tổng doanh thu của năm là tổng doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp và được xác định trên Báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế.

Trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm hoặc trên 01 năm nhưng chưa phát sinh doanh thu thì doanh nghiệp căn cứ vào tiêu chí tổng nguồn vốn quy định tại Điều 9 Nghị định này để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Công ty vừa và nhỏ chịu sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn và từ chính các doanh nghiệp với nhau. Trong lúc hội nhập quốc tế, các tập đoàn lớn thường có xu thế vươn mình ra thế giới, ra đời các chi nhánh, công ty con ở các quốc gia có nhiều lợi thế. Vì vậy, các công ty vừa và nhỏ ở các quốc gia này phải tìm ra những phương thức, công cụ mới trong công việc bán hàng.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô nguồn vốn nhỏ, họ gặp khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn chính thức, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Điều này là một cản trở không nhỏ trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào hoạt động thương mại nói chung và xúc tiến thương mại trực tuyến nói riêng.

Với nguồn vốn nhỏ hẹp, các doanh nghiệp này thường tập trung vào các ngành hàng gần gũi với người tiêu dùng hơn là đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng, sản xuất khai thác cần nhiều vốn. Ở Việt Nam, theo Cục xúc tiến thương mại (2012) trong cơ cấu ngành nghề, khoảng 43% doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, 24% trong lĩnh vực thương mại và phân phối, số còn lại hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và liên quan đến nông nghiệp.