Fasting blood glucose là gì

Xét nghiệm glucose huyết tương lúc đói được thực hiện nhằm kiểm tra lượng đường trong máu sau khi bạn đã nhịn ăn sau tám giờ, dựa trên kết quả này, bác sĩ sử dụng để chẩn đoán bệnh tiểu đường và tiền tiểu đường.

Xét nghiệm glucose huyết tương lúc đói [tên tiếng Anh là The fasting plasma glucose test và viết tắt là FPG] là phương pháp thường được sử dụng để xét nghiệm tiểu đường. FPG đo mức đường trong máu sau khi nhịn ăn hoặc không ăn bất cứ thứ gì trong ít nhất 8 giờ.

Đường huyết lúc đói bình thường là dưới 100 miligam trên decilit [mg/dL]. Nếu đường huyết lúc đói lớn hơn 100 mg/dL và dưới 126 mg/dL có nghĩa rằng người đó bị suy giảm mức đường huyết lúc đói nhưng có thể không bị tiểu đường.

Người mắc bệnh tiểu đường là khi đường huyết lúc đói lớn hơn 126 mg/dL và có một số xét nghiệm máu xác khác cũng cho kết quả bất thường. Những xét nghiệm này có thể được lặp lại vào ngày tiếp theo hoặc bằng cách đo glucose 2 giờ sau bữa ăn. Nếu kết quả cho thấy đường huyết tăng hơn 200 mg/dL thì người đó được chẩn đoán là mắc bệnh tiểu đường.

Tuy nhiên, nếu bạn có đường huyết lúc đói bình thường, nhưng lại có các yếu tố nguy cơ mắc bệnh tiểu đường hoặc có triệu chứng của bệnh tiểu đường, bác sĩ có thể thực hiện thêm nghiệm pháp dung nạp glucose để chắc chắn rằng bạn không bị tiểu đường.

Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống

Một số người có chỉ số đường huyết lúc đói bình thường, nhưng lượng đường trong máu của họ tăng nhanh sau khi ăn. Những người này có thể bị giảm dung nạp glucose [impaired glucose tolerance]. Nếu lượng đường trong máu của họ đủ cao thì cũng có thể được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường.

Xét nghiệm glucose huyết tương định kỳ [The Casual Plasma Glucose Test]

Xét nghiệm glucose huyết tương định kỳ là một phương pháp chẩn đoán bệnh tiểu đường. Bác sĩ sẽ lấy máu để xét nghiệm lượng đường trong máu ở thời điểm bất kỳ và không liên quan đến thời gian kể từ bữa ăn cuối cùng của người đó. Bạn cũng không cần phải kiêng ăn gì trước khi lấy máu.

Nồng độ glucose lớn hơn 200 mg/dL có thể chỉ ra người đó có thể đang mắc bệnh tiểu đường, đặc biệt nếu xét nghiệm này được lặp lại sau đó và cho kết quả tương tự.

Xét nghiệm dung nạp glucose đường uống [The Oral Glucose Tolerance Test]

Xét nghiệm dung nạp glucose đường uống là một phương pháp khác được sử dụng để phát hiện bệnh tiểu đường, nhưng kỹ thuật này thường chỉ được thực hiện trong thời gian thai kỳ để chẩn đoán bệnh tiểu đường thai kỳ hoặc cho người bị nghi ngờ mắc bệnh tiểu đường type 2 nhưng có mức glucose lúc đói bình thường. Ngoài ra, xét nghiệm này cũng có thể được thực hiện để chẩn đoán tiền tiểu đường.

Xét nghiệm dung nạp glucose đường uống trong thai kỳ

Xét nghiệm HbA1c [Hemoglobin A1c Test]

Xét nghiệm HbA1c hay còn được gọi là xét nghiệm glycated hemoglobin hoặc hemoglobin A1c, là một trong những xét nghiệm máu đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán bệnh tiểu đường và được sử dụng để xác định mức độ kiểm soát bệnh tiểu đường của người bệnh.

Xét nghiệm HbA1c cung cấp thông tin về lượng trung bình đường trong máu của bạn trong khoảng thời gian sáu đến 12 tuần trước đó và được sử dụng cùng với theo dõi lượng đường huyết tại nhà để giúp bác sĩ điều chỉnh các loại thuốc điều trị tiểu đường. Mức HbA1c cũng có thể được sử dụng để chẩn đoán bệnh tiểu đường nếu cho kết quả bằng hoặc lớn hơn 6,5%.

Xét nghiệm HbA1c test

Các xét nghiệm tiểu đường khác

Cùng với xét nghiệm HbA1c, người mắc bệnh tiểu đường cần kiểm tra đồng tử giãn [Dilated eye exam] ít nhất một lần/năm. Xét nghiệm quan trọng này dùng để phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh võng mạc, do bệnh lý này có thể không có triệu chứng sớm.

Ngoài ra, người bệnh cũng cần khám phát hiện giảm lưu thông máu ở chân và vết loét lâu lành hoặc không lành ở chân từ 1 đến 2 lần/năm hoặc bất kỳ lần nào khám sức khỏe định kỳ. Phát hiện sớm các vấn đề về mắt và chân cho người bệnh bệnh tiểu đường cho phép bác sĩ kê thuốc điều trị phù hợp và hiệu quả nhất.

Xét nghiệm tiểu đường ở trẻ em

Nhiều trẻ không có triệu chứng trước khi được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường type 2. Hầu hết các trường hợp, bệnh tiểu đường chỉ được phát hiện khi trẻ phải xét nghiệm máu hoặc xét nghiệm nước tiểu do các vấn đề sức khỏe khác và tình cờ bác sĩ phát hiện ra bệnh tiểu đường.

Nếu xét nghiệm đường huyết của trẻ cao hơn bình thường, nhưng chưa ở mức độ tiểu đường [được gọi là tiền tiểu đường], bác sĩ sẽ hướng dẫn bố mẹ thực hiện chế độ ăn uống và tập thể dục thường xuyên để giúp trẻ giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Trẻ mắc bệnh tiểu đường type 2 hoặc tiền tiểu đường hầu như đều có triệu chứng thừa cân hoặc béo phì.

Xét nghiệm glucose trong máu cần được thực hiện tại cơ sở y tế uy tín

Hanalab một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ đầu ngành, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại mà còn nổi bật với dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp; không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa.

Tiểu đường theo nguyên nghĩa là sự hiện diện của glucose trong nước tiểu. Cách đây gần 2.500 năm, người ta đã thấy hiện tượng kiến bu vào bãi nước tiểu. Trong thế kỷ 18 và 19, vị ngọt của nước tiểu được dùng để chẩn đoán trước khi có các phương pháp hóa học để phát hiện đường trong nước tiểu. Các xét nghiệm đo lường glucose trong máu được phát triển cách đây hơn 100 năm, và sau đó tăng đường huyết đã trở thành tiêu chí duy nhất được khuyên dùng để chẩn đoán tiểu đường. Những tiêu chí chẩn đoán ban đầu dựa trên sự đáp ứng với thử thách glucose bằng đường uống, rồi về sau số đo nồng độ glucose trong máu ở người nhịn đói cũng được chấp nhận. Các tiêu chí chẩn đoán dựa vào glucose được chấp nhận rộng rãi nhất là glucose huyết tương lúc đói [FPG-fasting plasma glucose] ≥126 mg/dL hoặc glucose huyết tương ≥200 mg/dL 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp bằng đường uống [OGTT- oral glucose tolerance test] trong hơn một lần đo. Trên bệnh nhân có các triệu chứng kinh điển của tiểu đường, một xét nghiệm glucose huyết tương ngẫu nhiên ≥200 mg/dL được xem là có giá trị chẩn đoán. Trước năm 2010, hầu hết các hội chuyên khoa tiểu đường đều khuyến nghị xét nghiệm glucose như là một phương pháp độc nhất để chẩn đoán tiểu đường. Bất chấp những hướng dẫn đó, trong những năm gần đây nhiều thầy thuốc đã dùng hemoglobin A1C dể tầm soát và chẩn đoán tiểu đường [WHO, 2006]. Tuy được xem là “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán, nhưng việc đo đạc glucose trong máu có một số hạn chế. Đo A1C để chẩn đoán tỏ ra cuốn hút nhưng cũng có những hạn chế cố hữu. Những vấn đề này là trọng tâm chú ý trong một báo cáo gần đây của Ban Chuyên gia Quốc tế, trong đó khuyến nghị sử dụng A1C để chẩn đoán tiểu đường [International Expert Committee, 2009], một luận điểm được Hội Tiểu đường [ADA], Hội Nội tiết và vài hội chuyên khoa khác của Hoa Kỳ ủng hộ ở những mức độ khác nhau. Bài tổng quan này sẽ trình bày sơ lược các yếu tố ảnh hưởng đến việc xét nghiệm glucose và A1C.

Các yếu tố góp phần vào sự biến thiên kết quả
Trước khi bàn đến glucose và A1C, cần xem xét các yếu tố tác động đến kết quả của một xét nghiệm máu bất kỳ. Độ biến thiên trong các xét nghiệm máu là đề tài được bàn luận trong một số tạp chí xét nghiệm y khoa, nhưng đề tài này ít được chú ý trong y văn lâm sàng. Các yếu tố góp phần gây biến thiên có thể tạm chia thành ba loại: sinh học, tiền phân tích và phân tích. Biến thiên sinh học bao gồm những sự khác biệt trong cùng một người [được gọi trong cá thể] và giữa hai hoặc nhiều người [gọi là giữa các cá thể]. Biến thiên tiền phân tích liên quan đến những vấn đề của bệnh phẩm trước khi đo đạc. Biến thiên phân tích là hệ quả của bản thân qui trình đo đạc. Dưới đây sẽ đề cập chi tiết hơn về ảnh hưởng của những yếu tố này trên kết quả đo glucose và A1C.Đo nồng độ glucose

Bảng 1. FPG trong chẩn đoán tiểu đường


Ưu điểm

– Xét nghiệm glucose dễ dàng tự động hóa – Khả dụng rộng rãi – Ít tốn kém – Một mẫu thử duy nhất

Nhược điểm

– Bệnh nhân phải nhịn đói ≥8 giờ – Độ biến thiên sinh học lớn – Thay đổi trong ngày – Mẫu thử không ổn định – Nhiều yếu tố ảnh hưởng nồng độ glucose, ví dụ stress, bệnh cấp tính – Không có sự hài hòa xét nghiệm glucose – Nồng độ thay đổi theo nguồn gốc mẫu thử [máu tĩnh mạch, mao mạch, hoặc động mạch] – Nồng độ trong máu toàn phần khác nồng độ trong huyết tương – Tài liệu hướng dẫn khuyên dùng huyết tương, nhưng nhiều phòng xét nghiệm đo glucose huyết thanh

– FPG không liên kết chặt chẽ với các biến chứng tiểu đường [so với A1C]

– Phản ánh sự cân bằng nội môi của glucose ở một thời điểm đơn lẻ

Đo nồng độ glucose trong huyết tương trên người nhịn đói thường được công nhận là một tiêu chí chẩn đoán tiểu đường. Ưu điểm của kỹ thuật này là xét nghiệm ít tốn kém trên máy tự động khả dụng ở phần lớn các phòng xét nghiệm trên thế giới [Bảng 1]. Tuy vậy, FPG có một số hạn chế. Một báo cáo đã phân tích các số đo lặp lại từ 685 đối tượng nhịn đói không có chẩn đoán tiểu đường cho thấy chỉ 70,4% số người có FPG ≥126 mg/dL khi xét nghiệm lần đầu có kết quả FPG ≥126 mg/dL khi làm lại xét nghiệm vào ~2 tuần sau [Selvin E và cs, 2007]. Nhiều yếu tố có thể góp phần vào sự thiếu khả năng tái hiện này. Cụ thể là: Biến thiên sinh học. Nồng độ glucose lúc đói biến thiên rất lớn theo từng ngày ở cùng một người và giữa những đối tượng khác nhau. Trên một người khỏe mạnh, độ biến thiên trong cá thể là 5,7–8.3%, trong khi độ biến thiên giữa các cá thể lên đến 12,5% [Selvin E và cs, 2007; Lacher DA và cs, 2005]. Với hệ số biến thiên [CV] là 5,7%, FPG có thể dao động từ 112–140 mg/dL trên một người có FPG = 126 mg/dL. [Nên lưu ý là khoảng tin cậy 95% nằm trọn trong dải trị số này, và chỉ có 5% số trị số nằm ngoài giới hạn đó]. Biến thiên tiền phân tích.Trước khi mẫu thử được đo, có thể xảy ra nhiều yếu tố ảnh hưởng đến xét nghiệm máu; ví dụ như thuốc dùng, ứ trệ tĩnh mạch, tư thế bệnh nhân, và cách xử lý mẩu thử. Nồng độ glucose trong máu có thể thay đổi do việc ăn uống, nhịn đói kéo dài, hoặc vận động gắng sức [Young DS & Bermes EW, 2006]. Sự hiện diện của bệnh gian phát trên đối tượng được đo cũng rất quan trọng, vì chúng thường gây tăng đường huyết tạm thời [Dungan KM và cs, 2009]. Tương tự, tình trạng stress cấp thời [ví dụ không tìm được chỗ đậu xe hoặc phải chờ đợi] có thể ảnh hưởng nồng độ glucose trong máu. Mẫu máu thử glucose lúc đói phải được lấy sau khi nhịn đói qua đêm [không thu nạp calori ít nhất 8 giờ], nhưng trong thời gian đó có thể uống nước thoải mái. Yêu cầu buộc bệnh nhân phải nhịn đói là một vấn đề lớn trong thực hành lâm sàng vì bệnh nhân thường không để bụng đói khi tìm đến bác sĩ, và thật bất tiện nếu phải quay trở lại để lấy máu tĩnh mạch. Một ví dụ là tại một cơ sở y tế liên kết với một trung tâm đào tạo y khoa, 69% số đối tượng hợp lệ [5.752 trên 8.286 người] đã được tầm soát tiểu đường [Ealovega MW và cs, 2004]. Tuy vậy, FPG chỉ được thực hiện trên 3% số đối tượng này [152 người], 95% số đối tượng [5.452 người] được tầm soát bằng cách đo glucose huyết tương ngẫu nhiên, một kỹ thuật không phù hợp với các khuyến nghị của ADA. Ngoài ra, máu còn được lấy vào buổi sáng tức là lúc FPG có sự biến thiên trong ngày. Phân tích 12.882 đối tượng từ 20 tuổi trở lên trong nghiên cứu NHANES [National Health and Nutrition Examination Survey] III không có chẩn đoán tiểu đường từ trước cho thấy FPG trung bình vào buổi sáng cao hơn rõ rệt so với trị số buổi chiều [Troisi RJ và cs, 2000]. Tỉ lệ tiểu đường [FPG ≥126 mg/dL] trên bệnh nhân được khám buổi chiều bằng phân nửa tỉ lệ trên bệnh nhân được khám buổi sáng. Các yếu tố khác liên quan với bệnh nhân có thể ảnh hưởng đến kết quả gồm có đã ăn dù được yêu cầu phải nhịn đói và dùng khẩu phần ăn ít calori trong ≥1 tuần trước khi xét nghiệm. Trong ống nghiệm, nồng độ glucose giảm 5–7% mỗi giờ do hiện tượng đường phân [Sacks DB và cs, 2002]. Do đó, một mẫu thử có nồng độ glucose thật sự là 126 mg/dL sẽ giảm còn ~110 mg/dL sau 2 giờ ở nhiệt độ phòng. Các mẫu máu tăng nồng độ hồng cầu, bạch cầu, hoặc tiểu cầu thậm chí còn có tốc độ đường phân lớn hơn. Một quan niệm sai lầm hay gặp là natri florua, một chất ức chế đường phân, cản trở sự tiêu thụ glucose. Tuy florua làm giảm đường phân in vitro, nhưng nó không có ảnh hưởng nào trên tốc độ giảm nồng độ glucose trong 1–2 giờ đầu sau khi lấy máu, và hiện tượng đường phân tiếp diễn đến 4 giờ sau khi lấy mẫu máu [Chan AY và cs, 1989]. Sự chậm trễ trong tác dụng ổn định glucose của florua rất có thể là hệ quả của sự chuyền hóa glucose ở gần enolase – đích tác động của fluorua [Bruns DE & Knowler WC, 2009]. Sau 4 giờ, florua duy trì một nồng độ glucose ổn định trong 72 giờ ở nhiệt độ phòng. Một nghiên cứu gần đây cho thấy sự acid-hóa mẫu máu ức chế hiện tượng đường phân trong 2 giờ đầu sau khi trích máu tĩnh mạch [Gambino R và cs, 2009], nhưng ống nghiệm lấy máu được dùng trong nghiên cứu ấy không có bán trên thị trường. Đặt ống máu vào nước đá ngay sau khi lấy máu là phương pháp tốt nhất để ổn định glucose ngay từ đầu, nhưng đây không phải là một giải pháp thực hành trong phần lớn các bối cảnh lâm sàng. Tách tế bào ra khỏi huyết tương trong vòng vài phút cũng có hiệu quả nhưng không có tính thực tiễn. Bản chất của bệnh phẩm xét nghiệm có thể ảnh hưởng lớn đến nồng độ glucose. Có thể đo glucose trong máu toàn phần, huyết thanh, hoặc huyết tương, nhưng huyết tương là bệnh phẩm được ADA và WHO khuyên dùng cho chẩn đoán. Tuy vậy, nhiều phòng xét nghiệm lại đo glucose trong huyết thanh, và những trị số đó có thể khác với glucose huyết tương. Trong y văn, chưa có sự đồng thuận về nồng độ glucose trong huyết tương là thấp hơn, cao hơn hay là giống như nồng độ trong huyết thanh. Điều quan trọng là nồng độ glucose trong máu toàn phần thấp hơn nồng độ trong huyết tương đến 11% vì hồng cầu có hàm lượng nước thấp hơn so với huyết tương [Sacks DB và cs, 2002]. Biên độ khác biệt về glucose giữa máu toàn phần và huyết tương thay đổi theo hematocrit. Phần lớn các thiết bị [thường là máy đo cầm tay] đo glucose trong máu mao mạch đều sử dụng máu toàn phần. Trong khi đa số các thiết bị này được báo cáo là cho một trị số glucose tương đương với huyết tương [Steffes MW & Sacks DB, 2005], nhưng kết quả này không đúng trên bệnh nhân bị thiếu máu [Tang Z và cs, 2000] [nếu không hiệu chỉnh với hematocrit]. Một biến số khác là nguồn máu. Nồng độ glucose trong máu mao mạch có thể cao hơn 20–25% [trung bình là 30 mg/dL] so với glucose tĩnh mạch trong OGTT [Larsson-Cohn U, 1976], tuy rằng ở trạng thái nhịn đói thì không có khác biệt lớn. Đây là một phát hiện có ý nghĩa thực hành đối với OGTT, đặc biệt vì WHO cho rằng có thể chấp nhận lấy các mẫu máu mao mạch để chẩn đoán tiểu đường.

Biến thiên phân tích.Các phòng xét nghiệm trung tâm hầu như chỉ dùng phương pháp enzym, chủ yếu là glucose oxidase hoặc hexokinase, để định lượng glucose. Để hiểu rõ kết quả đo đạc cần phân biệt giữa độ đúng [accuracy] và độ chính xác [precision]. Độ đúng chỉ mức gần “trị số thực” của một lần đo duy nhất, còn độ chính xác [hoặc khả năng tái hiện] là sự khít khao tương hợp của các lần đo lặp lại trong cùng một điều kiện. Độ chính xác thường được biểu diễn bằng hệ số biến thiên [CV]; CV càng thấp thì độ chính xác càng cao. Nhiều cải tiến trong việc định lượng glucose đã giúp đem lại một độ chính xác tốt hơn [CV 12% số bệnh nhân. Tương tự, một điều tra của Hội Bác sĩ Giải phẫu Bệnh Hoa Kỳ [CAP] gồm >5.000 phòng xét nghiệm cho thấy một phần ba số lượt kết quả xét nghiệm trên những dụng cụ đo đạc cá nhân có thể dao động từ 141 đến 162 mg/dL [Gambino R, 2007]. Mức biến thiên 6,9% [trên hoặc dưới trị số trung bình] này chứng tỏ một phần ba số lượt kết quả glucose trên một mẫu bệnh phẩm duy nhất của bệnh nhân được đo ở hai phòng xét nghiệm khác nhau có thể khác nhau đến 14%.

Bảng 2. OGTT trong chẩn đoán tiểu đường

Ưu điểm

– Chỉ báo nhạy đối về nguy cơ phát bệnh tiểu đường – Dấu ấn sớm của rối loạn hằng định nội môi glucose

Nhược điểm

– Thiếu khả năng tái hiện – Bệnh nhân phải được chẩn bị kỹ lưỡng – Tốn thời gian và bất tiện cho bệnh nhân – Khẩu vị khó chịu – Đắt tiền

– Bị ảnh hưởng bởi nhiều loại thuốc

– Cũng có những hạn chế như FPG, cụ thể là mẫu thử không ổn định, cần thực hiện vào buổi sáng, v.v…

OGTT đánh giá hiệu quả chuyển hóa glucose của cơ thể và đã được dùng làm “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán tiểu đường trong nhiều năm nay. Tăng nồng độ glucose sau bữa ăn thường xảy ra trước khi tăng glucose lúc đói. Do đó, glucose sau bữa ăn là một chỉ báo nhạy của nguy cơ phát bệnh tiểu đường và là một dấu ấn sớm của rối loạn hằng định nội môi glucose [Bảng 2]. Các bằng chứng đã công bố gợi ý rằng tăng glucose huyết tương 2 giờ sau OGTT là một yếu tố dự báo cho tử vong do mọi nguyên nhân lẫn biến chứng hoặc tử vong tim mạch tốt hơn là FPG [de Vegt F và cs, 1999; DECODE Study Group, 1999]. OGTT đã được nhiều tổ chức công nhận dùng làm phương tiện chẩn đoán, trong đó có ADA, WHO/Liên đoàn Tiểu đường Quốc tế [IDF]. Tuy nhiên để thực hiện OGTT, bệnh nhân cần được chuẩn kỹ. Các điều kiện quan trọng gồm có: khẩu phần ăn ít nhất phải có 150 g carbo-hydrat/ngày trong 3 ngày trước khi làm nghiệm pháp, nhịn đói từ 10 đến 16 giờ, và bắt đầu làm nghiệm pháp trong khoảng 7 đến 9 giờ sáng [Sacks DB, 2006]. Ngoài tiểu đường, nhiều bệnh trạng khác có thể ảnh hưởng đến OGTT. Các bằng chứng đã công bố cho thấy OGTT có độ biến thiên trong cá thể khá cao, với CV = 16,7% lớn hơn nhiều so với độ biến thiên của FPG [Selvin E và cs, 2007]. Những yếu tố trên khiến cho OGTT có khả năng tái hiện kém. Sự bất tiện, thiếu khả năng tái hiện, và chi phí của OGTT đã khiến FDA khuyến nghị nên ưu tiên dùng FPG làm công cụ chẩn đoán dựa vào nồng độ glucose. Cần lưu ý rằng đo glucose trong OGTT cũng có tất cả những điểm hạn chế như trong FPG [Bảng 1].

Đo A1C

Bảng 3. A1C trong chẩn đoán tiểu đường

Ưu điểm

– Đối tượng không cần nhịn đói – Có thể lấy mẫu thử bất kỳ lúc nào trong ngày – Độ biến thiên sinh học rất nhỏ – Mẫu thử ổn định – Không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cấp thời, ví dụ stress, gắng sức – Phản ánh nồng độ glucose dài hạn – Thử nghiệm được chuẩn hóa cho tất cả các dụng cụ – Độ đúng của xét nghiệm được theo dõi – Một mẫu thử duy nhất là máu toàn phần – Nồng độ dự báo sự phát triển các biến chứng vi mạch của tiểu đường – Được dùng để hướng dẫn điều trị

Nhược điểm

– Có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoài glucose, ví dụ tuổi thọ hồng cầu, chủng tộc – Một số bệnh trạng gây can nhiễu đo lường, ví dụ các bệnh của huyết sắc tố

– Có thể không khả dụng ở một số phòng xét nghiệm/ khu vực trên thế giới

– Tốn kém

A1C được hình thành là do glucose dính vào valin ở đầu tận N của chuỗi btrên phân tử hemo-globin. Hồng cầu có tuổi thọ ~120 ngày, và do đó A1C phản ánh sự phơi nhiễm đường huyết dài ngày, cho biết nồng độ glucose trung bình trong 8–12 tuần trước [Nathan DM và cs, 2008; Goldstein DE và cs, 2004]. Các nghiên cứu quan sát [Sabanayagam C và cs, 2009] lẫn thử nghiệm lâm sàng có đối chứng [Nhóm Nghiên cứu DCCT, 1993; Nhóm UKPDS, 1998] đều cho thấy một sự tương quan mạnh giữa A1C và bệnh võng mạc, cũng như các biến chứng vi mạch khác của bệnh tiểu đường. Quan trọng hơn, trị số A1C còn dự báo nguy cơ biến chứng vi mạch, và việc hạ thấp nồng độ A1C [bằng cách kiểm soát chặt đường huyết] làm giảm có ý nghĩa tốc độ tiến triển của các biến chứng vi mạch.

Biến thiên sinh học. Trên người không bị tiểu đường, độ biến thiên trong cá thể của A1C không là bao [Bảng 3], với CV

Chủ Đề