Hạn chế của bộ máy nhà nước thời Ngô - Đinh Tiền Lê

câu 1 :

Đinh Bộ Lĩnh là con nhà quan. Cha mất sớm, ông theo mẹ về quê sinh sống nương nhờ người chú ruột. Lớn lên, Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư chờ thời cơ đến. Đầu tiên ông mở rộng căn cứ của mình từ vùng rừng núi Hoa Lư ra vùng đồng bằng ven biển sông Hồng, bằng cách cùng con trai là Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công, tức Trần Lãm, ở Bố Hải Khẩu [Thái Bình]. Sau đó ông được Trần Minh Công trao binh quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.

Trong nhiều trường hợp, hoàn cảnh, tùy vào thực trạng mỗi sứ quân mà Đinh Bộ Lĩnh tìm cách đánh thích hợp, hoặc bằng quân sự, hoặc bằng liên kết, hay dùng mưu dụ hàng. Mở đầu sự nghiệp dẹp loạn, Đinh Bộ Lĩnh đã đánh đám loạn thần Lữ Xử Bình và Kiều Tri Hựu ở triều đình Cổ Loa[10]. Với 2 sứ quân họ Ngô là Ngô Nhật Khánh [Hà Nội] và Ngô Xương Xí [Thanh Hóa], Đinh Bộ Lĩnh không tiêu diệt mà dùng kế dụ hàng. Sứ quân Phạm Bạch Hổ [Hưng Yên] cũng tự nguyện về quy phục.

Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc là một sứ quân mạnh, có thành cao hào sâu. Theo thần phả Độc nhĩ đại vương ở Thanh Oai, Đỗ Cảnh Thạc là người trí dũng mưu lược, Đinh Bộ Lĩnh phải bàn mưu tính kế mà đánh. Ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vây 4 mặt thành và tiến đánh bất ngờ vào Trại Quyền. Bấy giờ Đỗ Cảnh Thạc đang ở đồn Bảo Đà, quân tướng không ứng cứu được nhau, bị mất cả thành luỹ, đồn trại, lương thực bèn bỏ thành chạy. Hai bên giao tranh hơn một năm sau, Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành. Đỗ Cảnh Thạc bị trúng tên chết.

Sứ quân Nguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt [Thanh Trì, Hà Nội]. Được tin Đinh Bộ Lĩnh sắp đánh. Nguyễn Siêu đem 1 vạn quân đóng ở Thanh Đàm dùng Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Trần Côn làm tá dực, Nguyễn Hiền làm tổng quản các đạo quân, ngày đêm luyện tập, đào hào đắp luỹ để phòng bị. Trong trận giao tranh đầu tiên Đinh Bộ Lĩnh bị mất 4 tướng là Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn. Lần thứ 2 Đinh Bộ Lĩnh bày binh bố trận giao chiến. Nguyễn Siêu chia một nửa quân ở lại giữ thành, một nửa cùng sứ tướng vượt sông tìm viện binh của các sứ tướng khác. Gần tới bờ bắc, gặp gió lớn, thuyền bị đắm. Đinh Bộ Lĩnh biết tin, bèn sai võ sĩ nửa đêm phóng lửa đốt doanh trại. Quân Nguyễn Siêu tan. Nguyễn Siêu tử trận.

Sứ quân Kiều Công Hãn đóng tại Phong Châu. Trước thế mạnh của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh, Kiều Công Hãn đem quân xuống phía nam để hợp sức với Ngô Xương Xí. Khi đến thôn Vạn Diệp [Xã Nam Phong, Nam Trực, Nam Định] bị một hào trưởng địa phương là Nguyễn Tấn đem quân chặn đánh, Kiều Công Hãn bị thương chạy đến Lũng Kiều thì mất.

Theo thần tích làng Tiên Xá thì Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du cũng không chống nổi Đinh Bộ Lĩnh, bỏ chạy về Cần Hải [Cửa Cồn, Quỳnh Lưu, Nghệ An] đánh nhau vài trận rồi chết ở trang Hương Ái.

Theo thần tích ở xã Bình Sơn [Thuận Thành, Bắc Ninh] thì Lý Khuê đánh nhau với Đinh Bộ Lĩnh bị thua và mất ở làng Dương Xá. Căn cứ vào chính sử và các nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu thì các sứ quân Nguyễn Khoan, Lã Đường được xác định là lực lượng tự tan rã, không rõ kết cục của chủ tướng.

Các sứ quân chiếm đóng các vùng và lập căn cứ, xây thành lũy. Một vài thành lũy trong số đó còn tồn tại lâu dài về sau, thậm chí được sử dụng lại. Chẳng hạn như thành đất của Đỗ Cảnh Thạc tại Thanh Oai sau này được quân Minh sử dụng trong cuộc chiến chống phong trào khởi nghĩa Lam Sơn vào cuối năm 1426.

Chiến tranh kết thúc năm 968. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, lập ra nhà Đinh. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập trong nhân dân.

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

So sánh tổ chức bộ máy nhà nước thời Ngô - Đinh - Tiền Lê và Lý - Trần - Hồ

- Đánh giá vai trò công lao của Tây Sơn và Nguyễn Huệ.

Các câu hỏi tương tự

Hay nhất

Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Đinh-Tiền Lê:

Qua đây ta có thể nhận xét vẫn còn đơn giản, chưa chặt chẽ.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 8: Nước ta buổi đầu độc lập

- Nhận xét : Tổ chức bộ máy nhà nước còn đơn giản nhưng được thống nhất từ Trung ương đến địa phương.

    + Vua đứng đầu triều đình, quyết định mọi công việc [chính trị, ngoại giao, quân sự].

    + Dưới vua có các quan văn, quan võ.

    + Ở địa phương, các tướng lĩnh có công được vua cử đi cai quản các châu quan trọng gọi là thứ sử.

[Nguồn: trang 25 sgk Lịch Sử 7:]

Chi tiết Chuyên mục: Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến [từ thế kỉ X đến thế kỉ XV]

Nguyễn Minh Tuấn



Bài viết ngắn dưới đây giới thiệu những nét cơ bản nhất về tổ chức chính quyền trung ương thời Ngô – Đinh – Tiền Lê như những định hướng ban đầu để khi có điều kiện, sinh viên tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn.
———————
Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê là thời kỳ đất nước gặp nhiều khó khăn sau một thời gian dài chịu sự cai trị của chính quyền Trung Hoa. 


Để bảo vệ chủ quyền còn non trẻ bên cạnh một nước lớn như Trung Hoa, việc xây dựng mô hình chính quyền quân sự có tính tự vệ là một phản ứng tự nhiên và là sứ mệnh có tính lịch sử. 

Trong giai đoạn phôi thai của nhà nước phong kiến, khi cuộc đấu tranh vũ trang giữa các lực lượng cát cứ và giữa chính quyền trung ương với các lực lượng cát cứ địa phương diễn ra mạnh mẽ thì tổ chức chính quyền thời này nặng về tính chất quân sự. 


Về tổ chức chính quyền ở trung ương, Ngô Quyền đã đặt ra các chức quan văn, quan võ , quy định các nghi lễ trong triều đình và màu sắc, trang phục của quan lại các cấp. 


Đến thời nhà Đinh, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế chọn Hoa Lư làm kinh đô và cũng là căn cứ quân sự. Chính quyền lựa chọn việc đóng đô ở Hoa Lư là sự lựa chọn ưu tiên cho mục tiêu an ninh, chống lại sự trỗi dậy của các thế lực cát cứ. Để bảo vệ một chính quyền non trẻ vừa mới giành lại được, việc chọn Hoa Lư làm kinh đô là một lựa chọn ưu tiên cho mục tiêu an ninh trong bối cảnh bấy giờ. Hoa Lư có địa thế hiểm yếu, khả năng phòng thủ tốt, nhưng lại có bất lợi rất lớn là không thuận lợi về vị trí địa lý cũng như điều kiện tự nhiên để phát triển thành trung tâm kinh tế, văn hoá.

Năm 974 Đinh Tiên Hoàng tổ chức lại quân đội trong cả nước tổ chức quân đội thành 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Tổng chỉ huy quân đội là Thập đạo tướng quân điện tiền chỉ huy sứ Lê Hoàn. Nếu đúng như vậy thì quân đội lúc đó lên đến 1 triệu người. Tuy nhiên, đây chỉ là vấn đề sử sách chép lại, còn việc có đúng thực tế như vậy không thì đến nay cũng chưa có bằng chứng thực sự rõ ràng minh chứng cho điều đó.


Năm 1002 Lê Hoàn đổi 10 Đạo thành Lộ, Phủ, Châu. Dưới triều Tiền Lê, Lê Hoàn và các đời vua tiếp sau củng cố và tăng cường thêm quân đội thường trực, đặt ngạch thân binh, tuyển lính túc vệ đóng quân ở kinh thành. Các chức quan cao cấp chỉ huy quân đội được đặt ra như Thái Uý, Khu mật sứ. Ngoài quân đội của nhà vua, còn có quân đội của các vương hầu, quý tộc chiêu mộ và điều khiển ở điền trang, thái ấp mà vua có thể điều động khi cần thiết. 


Trong triều đình Ngô – Đinh – Tiền Lê, các vị vua đã tiến hành phong tước, mà trước hết là một số người trong hoàng tộc. Thời kỳ này trật tự lễ nghi trong triều đình đã bước đầu được định hình, các vị vua khi mới lên ngôi đều đã chế định triều nghi, phẩm phục.


Từ mô hình tổ chức bộ máy nhà nước đến các biện pháp quản lý xã hội thời kỳ này còn mang đậm tính chất quân sự.


Thực chất nhà nước thời kỳ này vẫn mang dáng dấp của một cái làng lớn, chủ yếu giải quyết tính đại diện của nhà nước về quân sự. Làng xã với tính chất tự quản mạnh vẫn thể hiện rõ nét tính độc lập của mình trong quan hệ với chính quyền trung ương.

Mỗi nhà nước phải có bệ đỡ về tư tưởng, chính quyền thời này không muốn dập khuôn theo mô hình Nho giáo, đã chọn Phật giáo nhằm tranh thủ nhân tâm. Điều đáng tiếc là Phật giáo lại quá xa lạ với luật pháp có tính quân sự của nhà Đinh, vì vậy đã tạo ra một sự phản kháng hết sức gay gắt trong thời gian này.

Video liên quan

Chủ Đề