Liên hệ việc rèn luyện phong cách lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở của đồng chí

Xây dựng và rèn luyện phong cách người cán bộ lãnh đạo theo lời Bác dặn

05/05/2020 | 14:53

Nhân cách của cán bộ lãnh đạo là tổng hòa các yếu tố về phẩm chất và năng lực, nhất là yêu cầu về đạo đức. Việc xây dựng và rèn luyện nhân cách cán bộ lãnh đạo là một nhiệm vụ thường xuyên, cần thiết, có ý nghĩa quan trọng của công tác cán bộ.

YÊU CẦU CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN CÁCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO

Xây dựng và rèn luyện nhân cách người cán bộ lãnh đạo là một trong những mối quan tâm hàng đầu trong suốt cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thấm nhuần quan điểm: “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”, việc xây dựng và rèn luyện nhân cách cán bộ lãnh đạo là một trong những nội dung quan trọng của công tác cán bộ, góp phần để mỗi người hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Nhân cách là những phẩm chất và năng lực của con người, là tổng hòa của tài và đức. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng phải có đủ tài và đức - đó là điều kiện cần và đủ; trong đó, đạo đức được coi là gốc của nhân cách và tài giữ vai trò quan trọng: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn… chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức thì hỏng”. Những yêu cầu của Hồ Chí Minh về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi giai đoạn nhất định, yêu cầu về năng lực và phẩm chất đạo đức của người cán bộ lãnh đạo lại có những yêu cầu cụ thể, song tựu trung lại thì đó phải là những người luôn nỗ lực “học để làm việc, làm người làm cán bộ. Học để phục sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.

Người cán bộ lãnh đạo phải có tài, cụ thể là:

1] Có tư duy lý uận, "lý luận đi đôi với thực tiễn", góp phần vào việc xây dựng, triển khai thực hiện và sửa đổi, bổ sung các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp thực tiễn.

2] Có năng lực chuyên môn, vận dụng kiến thức chuyên môn phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn hiệu quả.

3] Có năng lực lãnh đạo, quản lý; dự báo - định hướng phát triển; tổng kết thực tiễn.

4] Có kiến thức xã hội; sử dụng tốt công nghệ thông tin... Muốn có được năng lực đó, người cán bộ lãnh đạo phải nỗ lực học tập, rèn luyện, vì cách mạng cũng là một nghề, làm nghề gì cũng phải học.

Đồng thời, người cán bộ lãnh đạo phải có đức, cụ thể là:

1] Phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; luôn đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình.

2] Gương mẫu đi đầu, dấn thân đảm nhận những công việc khó; dám nghĩ, dám làm, quyết tâm vượt mọi khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo và phải có tài dùng người "tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy".

3] Luôn thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thống nhất giữa nói và làm, nói ít làm nhiều; gắn bó với nhân dân, vì nhân dân tận tâm, tận lực phục vụ, xứng đáng là người lãnh đạo, người "công bộc" trung thành của nhân dân...

Những yêu cầu cần và đủ về tài và đức Hồ Chí Minh nêu ra góp phần xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, đảm bảo uy tín và khả năng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quần chúng thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không ít lần nhấn mạnh rằng, chức vụ - quyền lực của mỗi cán bộ lãnh đạo là do nhân dân tín nhiệm, ủy thác, nên theo Hồ Chí Minh: cùng với việc Đảng cầm quyền, được giao đảm nhiệm các vị trí trọng yếu trong cơ quan Đảng và Nhà nước, khi thực thi các quyền lực đó - cán bộ lãnh đạo là những người đại diện cho nhân dân, là “công bộc của dân”, chứ không phải là “quan cách mạng”. Do đó, trong mọi thời điểm, thời chiến hay thời bình, để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, người cán bộ lãnh đạo không chỉ phải có bản lĩnh, kiên định thực hiện mục tiêu cách mạng mà còn phải luôn học hỏi và lắng nghe; dám nghĩ, dám làm và dám ra quyết định ở những thời điểm khó khăn, có tính bước ngoặt; gần gũi, chân thành, tin tưởng đồng chí, đồng bào, v.v.. để quy tụ được mọi người, nhân nguồn sức mạnh của khối đoàn kết trong Đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị.

Hồ Chí Minh từng nói, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, cho nên, Người không chỉ yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, người cán bộ lãnh đạo nói riêng phải luyện tài: làm giàu tri thức, bồi dưỡng tư duy, cách nhìn tổng thể, biện chứng, chủ động, sáng tạo... mà còn phải rèn luyện đạo đức cách mạng, “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Từ nhận thức sâu sắc rằng, thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều, những yêu cầu của Hồ Chí Minh về việc cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên, liên tục rèn luyện nhân cách; chủ động phòng và kiên quyết chống lại tư tưởng ỷ lại, lối làm việc dựa trên kinh nghiệm, thiếu tư duy khoa học, sáng tạo cùng những thói hư tật xấu, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu” càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa. Theo Người, các cơ quan Đảng, Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là “công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho dân”, cho nên “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Trên tinh thần đó, muốn lãnh đạo đúng, hiệu quả - người cán bộ lãnh đạo phải gần dân, hiểu dân, vì dân, xứng đáng là công bộc của dân; phải thật thận trọng, phải giữ gìn trước những cám dỗ của quyền lực và là một tấm gương mẫu mực về nhân cách người lãnh đạo luôn “biết làm cho dân tin, dân phục, dân yêu”.

Hồ Chí Minh không chỉ đặc biệt chú trọng công tác cán bộ; nêu rõ, yêu cầu và chỉ ra biện pháp để mỗi người cán bộ lãnh đạo rèn đức, luyện tài, vừa hồng vừa chuyên, xứng đáng với trọng trách Đảng và Nhà nước giao phó, mà Người còn là một tấm gương mẫu mực, trong sáng về nhân cách người lãnh đạo tận tâm, tận lực, suốt đời phấn đấu hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Ở Người là sự thống nhất giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức một vĩ nhân và đạo đức đời thường. Tâm huyết và trăn trở với công tác cán bộ, trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn dành một phần để nói về Đảng, về sự phấn đấu, tu dưỡng của người cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”.

Chủ tịch HỒ CHÍ MINH

XỨNG ĐÁNG LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, NGƯỜI ĐẦY TỚ THẬT TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN

Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, những yêu cầu về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo theo quan điểm của Hồ Chí Minh càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa. Thực tế nhiệm vụ cách mạng, những quy luật vận động của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã hoàn toàn khác với những quy luật vận động của thời kỳ đấu tranh giành chính quyền. Con đường để nhân dân Việt Nam đi đến độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phát triển bền vững không chỉ dừng lại ở lối làm việc chủ quan và kinh nghiệm. Vì vậy, với vị thế lãnh đạo, người cán bộ cần phải bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo, bao gồm cả năng lực trí tuệ, khả năng quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện; phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, phòng và chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa". Đó chính là tiêu chí, là thước đo, góp phần đánh giá hiệu quả công tác của người cán bộ lãnh đạo.

Trong diễn văn khai mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao...”. Song vẫn còn “một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ; thiếu gương mẫu, chưa thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân; vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm...”. Hơn bao giờ hết, nhằm đáp ứng yêu cầu và tình hình, nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xây dựng và rèn luyện nhân cách của cán bộ lãnh đạo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh càng trở nên cần thiết, cấp bách. Do đó, để khắc phục những tồn tại trên; thấm nhuần những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh và thiết thực đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo chủ đề năm 2018 về “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong công tác cán bộ cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, cấp ủy các cấp chú trọng việc rèn luyện nhân cách của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trên cơ sở tiêu chí, tiêu chuẩn của từng chức danh, chức vụ cán bộ lãnh đạo được cấp có thẩm quyền ban hành. Từ đó, tiếp tục lựa chọn, đánh giá, đưa vào quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ lãnh đạo đúng theo năng lực và phẩm chất đạo đức. Tổ chức thực hiện tốt việc bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ lãnh đạo theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 và Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; kiên quyết khắc phục “tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội,... cần được ngăn chặn và đẩy lùi” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra.

Hai là, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp; gắn đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tạo điều kiện và gắn việc giáo dục rèn luyện của tập thể với phát huy tính chủ động tự giác trong rèn luyện và tu dưỡng của mỗi cá nhân cán bộ lãnh đạo.

Ba là, nêu cao tính tiên phong gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của người cán bộ lãnh đạo trong xây dựng kế hoạch và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ; giữa nỗ lực nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý với rèn luyện phong cách, tác phong công tác khoa học, dân chủ, sáng tạo, gần dân, trọng dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; giữa nêu gương đạo đức, lối sống, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với phòng và chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng, lợi dụng chức quyền, thu vén cá nhân…; giữa tự phê bình và phê bình với nghiêm túc khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.


Theo Tạp chí Tuyên giáo

Từ phương hướng xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở hiện nay, đề xuất những giải pháp có tính khả thi để thực hiện phương hướng đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [92.17 KB, 12 trang ]

Câu 1: Từ phương hướng xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh
đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở hiện nay, đề xuất những
giải pháp có tính khả thi để thực hiện phương hướng đó ?
Đổi mới phong cách công tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước hiện nay
Phong cách công tác là một yếu tố đặc biệt quan trọng cấu
thành phẩm chất, năng lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt [LĐQLCC] trong cơ quan Đảng, Nhà nước; là những phương
pháp, cách thức, biện pháp, tác phong, lề lối làm việc để vận dụng
các kiến thức, tri thức khoa học vào quá trình lãnh đạo, quản lý, điều
hành cơ quan, tổ chức. Phong cách công tác giúp cho người cán bộ
LĐQLCC hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần vào
việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức.
Phong cách công tác tạo nên nét riêng của người cán bộ
LĐQLCC; có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả
làm việc của bản thân và tổ chức do họ đứng đầu. Người cán bộ
LĐQLCC có mối quan hệ hữu cơ với tập thể trong một thể thống
nhất của tổ chức bộ máy nhưng là người đứng đầu, có ý nghĩa quyết
định đến hiệu quả tổ chức và vận hành của bộ máy, đặc biệt là trong
những bước ngoặt của tổ chức, của cách mạng. Đổi mới phong cách
công tác của người cán bộ LĐQLCC, trước tiên là thực hiện các
nguyên tắc trong lãnh đạo, quản lý, "thực hiện tốt chế độ lãnh đạo
tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu"[1].
Phong cách công tác của cán bộ LĐQLCC có ảnh hưởng lớn
đến phong cách, phương pháp, tác phong công tác của các thành
viên trong tổ chức. Người cán bộ LĐQLCC có phong cách làm việc
tốt sẽ tạo nên một "phong trào" mang tính xã hội cao, một "điểm
tựa", một "đầu tàu", một tấm gương để các thành viên trong tập thể
học tập và làm theo. Đổi mới phong cách công tác của cán bộ



LĐQLCC là cơ sở, điều kiện tiên quyết cho việc đổi mới phương
pháp, tác phong, lề lối làm việc của tập thể tổ chức, cơ quan Đảng,
Nhà nước.
Thực tế cho thấy, trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, người
cán bộ LĐQLCC có những lúc, những công việc chưa hoàn thành
tốt, không phải do thiếu kiến thức và sự nhiệt tình, trách nhiệm hay
phương tiện, vật chất bảo đảm mà là do thiếu phong cách, phương
pháp, tác phong công tác thích hợp, khoa học. Phong cách công tác
của người cán bộ LĐQLCC được đánh giá là tốt, khoa học khi họ
tạo ra được không khí, môi trường sống và làm việc thực sự dân chủ
trong cơ quan, đơn vị để mọi thành viên được giải phóng tư tưởng và
năng lực cá nhân, được làm việc và cống hiến hết mình cho tổ chức,
cơ quan, đơn vị; giải quyết hài hòa các mối quan hệ, các lợi ích
chính đáng giữa cá nhân và tập thể. Nội dung căn bản của phong
cách công tác của cán bộ LĐQLCC bao gồm:
- Thống nhất lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng chỉ dẫn, thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông. Người cán bộ LĐQLCC phải có một hệ thống kiến thức
lý luận cần thiết, có năng lực tư duy khoa học, làm chủ tri thức, khoa
học hiện đại, nhất là kiến thức về lý luận cơ bản, chuyên môn nghiệp
vụ, kiến thức liên ngành, kiến thức về khoa học xã hội, nhân văn,
pháp luật, ngoại ngữ, tin học… Đồng thời, phải có kỹ năng hoạt
động thực tiễn, năng lực vận dụng những tri thức khoa học vào lãnh
đạo, tổ chức thực tiễn; phân tích, soi sáng thực tiễn, xây dựng các
giải pháp để cải tạo thực tiễn. Thông qua thực tiễn công tác, đúc rút
kinh nghiệm, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện kiến thức, năng lực lãnh
đạo, quản lý của mình. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa nhận
thức, trình độ học vấn, kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ với năng

lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực tiễn, nói đi đôi với làm.
Người cán bộ LĐQLCC phải quán triệt quan điểm thực tiễn trong tư
duy và hoạt động. Chất lượng, hiệu quả hoàn thành chức năng,


nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị là thước đo phẩm chất, năng lực và kết
quả công tác của người cán bộ LĐQLCC.
- Khoa học, chuyên nghiệp, hiện đại. Người cán bộ LĐQLCC
phải làm việc có kế hoạch theo tiến trình công việc được sắp xếp
ngăn nắp, hợp lý, chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng; coi trọng tính thiết thực
và hiệu quả; có kỹ năng và phương pháp lãnh đạo, quản lý; có khả
năng dự liệu được tiến trình phát triển và kết quả của công việc. Khi
xây dựng kế hoạch phải có sự điều tra, nghiên cứu, đánh giá đúng
đặc điểm tình hình, yêu cầu nội dung công việc, có trọng tâm, trọng
điểm rõ ràng; cân nhắc, xem xét kỹ các điều kiện, khả năng về nhân
lực, vật lực bảo đảm tính khả thi cao. Người cán bộ LĐQLCC phải
đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, tôn trọng pháp luật, sống và làm việc
theo pháp luật; luôn ghép mình vào tổ chức, kỷ luật, chấp hành tốt
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, kỷ cương,
nội quy của cơ quan, đơn vị; xây dựng và thực hiện nếp sống, làm
việc chính quy, văn minh; làm chủ các phương tiện kỹ thuật hiện đại
trong việc ứng dụng vào hoạt động lãnh đạo, quản lý.
- Dân chủ, tôn trọng tập thể. Cán bộ LĐQLCC phải coi trọng
dân chủ, tôn trọng các quyết định của tập thể; biết lắng nghe, tiếp thu
những ý kiến, sáng kiến của đồng nghiệp, của tập thể cơ quan, đơn
vị. Giải quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa tập thể lãnh đạo với đề
cao và phát huy vai trò của cá nhân người chủ trì; có phương pháp,
tác phong công tác mang tính dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng
quần chúng nhân dân, loại trừ phong cách công tác theo kiểu áp đặt
mệnh lệnh hành chính cứng nhắc, máy móc, quan liêu, độc đoán

chuyên quyền, chủ quan duy ý chí, xa dân, dân chủ hình thức hoặc
dân chủ cực đoan, tuỳ tiện, tự do vô ý thức tổ chức kỷ luật. Sức
mạnh và trí tuệ của cán bộ LĐQLCC được nhân lên và phát triển từ
sự làm việc có tính tổ chức, tôn trọng tập thể. Kết quả hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ của cán bộ LĐQLCC luôn gắn liền với kết quả
hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị do mình phụ
trách.


- Tự chủ, năng động, sáng tạo, có tính quyết đoán và tinh thần
trách nhiệm cao. Người cán bộ LĐQLCC các cơ quan Đảng, Nhà
nước phải có năng lực ra quyết định đúng đắn, kịp thời trong việc đề
ra chủ trương, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn. Có khả
năng làm việc độc lập, tự chủ, năng động, sáng tạo, nhạy bén, dám
nghĩ, dám đề xuất chủ trương, sáng kiến, dám quyết đoán, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trước tập thể về các quyết định và việc làm
của mình, nhất là trong những tình huống khó khăn, phức tạp.
Không thụ động, trông chờ, ỷ lại vào tập thể, vào cấp trên. Không
chấp hành các nghị quyết, quyết định, chỉ thị một cách máy móc,
cứng nhắc, giáo điều, mà phải sáng tạo, linh hoạt cho phù hợp với
tính chất, đặc điểm, yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn
vị.
- Sâu sát công việc, có kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Người cán
bộ LĐQLCC khi giao và nhận nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng từng
loại việc, đến từng tổ chức, từng người theo đúng chức năng, nhiệm
vụ của cá nhân và tổ chức; phải sâu sát công việc, sâu sát cơ quan,
đơn vị. Kiểm tra, giám sát, đánh giá đúng, nắm chắc đặc điểm tình
hình, yêu cầu nhiệm vụ, tâm tư, nguyện vọng, phẩm chất, năng lực
của cán bộ, nhân viên thuộc quyền; tiến độ, kế hoạch chất lượng,
hiệu quả công việc. Phong cách công tác này của cán bộ LĐQLCC

phải được thể hiện ở tất cả các khâu, các bước của quy trình lãnh
đạo, quản lý.
- Giản dị, khiêm tốn, gắn bó mật thiết với đồng nghiệp, với
quần chúng. Cán bộ LĐQLCC phải gắn bó, tin yêu, tôn trọng, quan
tâm đến đồng nghiệp, quần chúng; thông qua hoạt động thực tiễn
trong phong trào quần chúng để rèn luyện và trưởng thành. Cán bộ
LĐQLCC vừa là người lãnh đạo cơ quan, đơn vị, quy tụ và phát huy
sức mạnh của tập thể, của quần chúng, vừa học hỏi làm giàu tri thức
và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo từ tập thể, từ quần chúng; biết lắng
nghe và tiếp thu những ý kiến, sáng kiến của tập thể, của quần
chúng; nắm bắt và giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng của đồng


nghiệp, của quần chúng bằng những chủ trương, biện pháp đúng
đắn, sát hợp.
Việc đổi mới, xây dựng phong cách công tác của cán bộ
LĐQLCC trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước cần tập trung vào
một số vấn đề sau:
Một là, đề cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, gắn với sự quan
tâm, theo dõi, giúp đỡ của tổ chức, cơ quan, đơn vị và lãnh đạo cấp
trên; thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình. Coi trọng phong
cách nêu gương, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ LĐQLCC
về phẩm chất, năng lực, đạo đức, phương pháp, tác phong công tác.
Gắn lời nói với việc làm, nghiên cứu lý luận với hoạt động thực tiễn.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên phải là tấm gương sáng đối với
cấp dưới và quần chúng nhân dân. Động viên, khuyến khích, ủng hộ,
bảo vệ những cán bộ LĐQLCC dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng.
Hai là, đổi mới việc quản lý, bồi dưỡng về phong cách công tác
của cán bộ LĐQLCC. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao phẩm chất chính trị, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ với
nâng cao phẩm chất đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp, lối sống, kỹ
năng và phương pháp lãnh đạo, quản lý. Thực hiện tốt công tác luân
chuyển cán bộ LĐQLCC để tạo điều kiện cho cán bộ vừa nâng cao
trình độ lãnh đạo, quản lý, vừa rèn luyện, xây dựng phong cách công
tác và trưởng thành, phát triển qua thực tế, cơ sở.
Ba là, đổi mới chính sách, chế độ đãi ngộ, bảo đảm lợi ích vật
chất, tinh thần, cải thiện đời sống cán bộ LĐQLCC gắn với việc
sàng lọc, đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ lãnh đạo, quản lý thoái
hoá, biến chất, yếu kém về phẩm chất, năng lực, đạo đức, phương
pháp, tác phong công tác, vi phạm pháp luật, thiếu trách nhiệm với
công việc, mất uy tín trong tập thể cơ quan, đơn vị và với quần
chúng. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực, hiệu quả.


Bốn là, đổi mới, hoàn thiện hệ thống thể chế, xây dựng chế độ
công vụ rõ ràng, minh bạch. Thực hiện đầy đủ, đúng đắn các nguyên
tắc công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạt động công vụ. "Xác
định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị"[2]. Đề
cao trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ LĐQLCC trong mối quan hệ
giữa tập thể và cá nhân; vừa phải tôn trọng nguyên tắc tập thể vừa
phát huy vai trò cá nhân người đứng đầu tổ chức. Quy định rõ chế độ
trách nhiệm, các yêu cầu, tiêu chí cơ bản về phong cách công tác, lề
lối làm việc của cán bộ LĐQLCC trong các cơ quan của Đảng, Nhà
nước.
Năm là, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí trong bộ máy Đảng, Nhà nước. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và

thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các cơ quan nhà nước
và trong các doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ
sở, tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân tiếp xúc với cán bộ lãnh
đạo, quản lý, nhất là cán bộ chủ chốt của các cơ quan Đảng, Nhà
nước; quần chúng nhân dân được kiểm tra, giám sát, góp ý kiến phê
bình cán bộ LĐQLCC.
Câu 2: Phân tích những nguyên tắc để đánh giá cán bộ ở cơ
sở? Liên hệ với thực tiễn công tác đánh giá cán bộ ở cơ sở hiện nay,
đề xuất những giải pháp để thực hiện đúng những nguyên tắc đó?
Công tác đánh giá cán bộ là để xác định năng lực, trình độ kết
quả công tác, phẩm chất chính trị đạo đức và khả năng phát triển của
cán bộ;làm căn cứ để bố trí sử dụng bổ nhiệm ,miễn nhiệm, luân
chuyển , đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng khen thưởng kỷ luật và thực hiện
các chế độ chính sách đối với cán bộ
*Phân tích các nguyên tắc của công tác đánh giá cán bộ ở cơ sở


Để đánh giá đúng cán bộ, công tác đánh giá cán bộ trước hết
phải nắm vững những nguyên tắc sau:
a.
Các cấp ủy Đảng mà thường xuyên và trực tiếp là Ban
Thường vụ Huyện ủy , Ban Thường vụ Đảng ủy cấp cơ sở thống
nhất quản lý công tác đánh giá trong phạm vi trách nhiệm được phân
công
Mức độ thực hiện trách nhiệm, nhiệm vụ được giao: thể
hiện ở khối lượng, chất lượng , tiến độ, hiệu quả của công việc trong
từng vị trí , từng thời gian;tinh thần trách nhiệm trong công tác
-

Về phẩm chất chính trị,đạo đức lối sống


+ Nhận thức tư tưởng chính trị ;việc chấp hành chủ trương
,đường lối và quy chế,quy định của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước
+ Việc giữ gìn đạo đức lối sống lành mạnh, chống quan lieu,
tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện tiêu cực khác
+Tinh thần học tập nâng cao trình độ,tính trung thực,ý thức tổ
chức kỉ luật,tinh thần tự phê bình và phê bình
+ đoàn kết ,quan hệ trong công tác, mối quan hệ,tinh thần av2
thái
độ
phục
vụ
nhân
dân
-

Chiều hướng và triển vọng phát triển

Đánh giá dựa vào tiêu chuẩn đánh giá : Tiêu chuẩn đánh giá cán
bộ dựa vào kết quả và hiệu quả công việc, mức độ hoàn thành nhiệm
vụ được giao
b. Đánh giá cán bộ phải lấy tiêu chuẩn và hiệu quả công việc
làm thước đo, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ và đúng quy
trình
+ tập trung da6nc hủ trong đánh giá cán bộ: không được áp đặt
ý kiến của mình cho mọi người


+ Đánh giá đúng quy trình phải tuân thủ theo các bước của quy

trình đánh giá
+Thông báo kết quả đánh giá
Dân chủ cả trong khi đánh giá ,sau khi đánh giá và dân chủ
trong cả khiếu nại giải quyết đánh giá
Dâc chủ trong khi đánh giá: để tự đánh giá, tạo điều kiện
cho tập thể góp ý đánh giá, sau đó cấp ủy bàn bạc thảo luận và quyết
định về kết quả đánh giá đó
Dân chủ sau khi đánh giá : Kết quả đánh giá phải thông
báo cho cá nhân đó biết là tập thể đánh giá cá nhân như thế có đồng
ý hay không đồng ý
Dân chủ trong quá trình giải quyết khiếu nại: Nếu người
được đánh giá đồng ý thì bàn còn người được đánh giá không đồng ý
thì phải tạo điều kiện cho cá hha6n đó giải trình, khi giải trình xong
mà không có sự thống nhất đôi bên , cá nhân đó có quyền bảo lưu ý
kiến của mình và chuyển lên cấp trên cao hơn và chờ cấp trên xem
xét
Khi biểu quyết ý kiến thiểu số phục tùng đa số đó là nguyên tắc
tập trung
c.
Đánh giá cán bộ phải khách quan, tòa diện lịch sử, cụ thể
và phát triển
Các quan điểm:
Quan điểm thực tiễn; Khi đánh giá cán bộ phải nhìn vào
hoạt động thực tiễn của cán bộ đó để đánh giá [không chỉ nhìn thẳng
vào bằng cấp mà còn phải dựa vào hiệu quả, kết quả công việc] dựa
vào hành vi công tác trong sinh hoạt đời thường
Ví dụ: Đánh giá một cán bộ ở cơ quan để đưa ra ứng cử hội
đồng nha6nd ân, nhưng khi đưa về với địa phương lấy ý kiến nhận
xét thì lại không tốt[ vì có vợ hách dịch với mọi người xung quanh,



con trai cầm đầu đua xe ]. Vì trong nhà không tốt thì làm sao có đủ
điều kiện lãnh đạo và bầu vào hội đồn nhân dân vì thế bị thất bại
Quan điểm toàn diện; Khi đánh giá một con người phải
xem xét nhiều mặt[ưu, khuyết,Phẩm chất, năng lực, đạo đức lối
sống, phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố]
Quan điểm vận động[quan điểm phát triển; Khi đánh giá
cán bộ phải nhìn con người luôn thay đổi trong sự vận động và phát
triển, đánh giá đừng nhìn vào thành kiến và ấn tượng
Ví dụ: Hiện nay đánh giá cán bộ giữa các cơ sở đào tạo tại chức
, chính quy có những nhận định thành kiến ấn tượng không tốt với
tại chức trường dân lập như vậy sẽ đánh giá không chính xác
Quan điểm nhân đạo: Khi đánh giá một con người phải
xuất phát từ tâm trong sáng, đừng coi đây là cơ hội để trù dập nhau,
khi đánh giá hãy lấy ưu điểm để cho người ta phát triển, đừng vạch
lá tìm sâu, khi đánh giá đừng cầu toàn, phải nhìn con người trong
tính tương đối. Khi đánh giá về mình phải nghiêm khắc, khi đánh giá
về người khác phải mang tính bao dung nhân đạo
Quan điểm trung thực khách quan: Khii đánh giá cán bộ
phải công tâm, công bằng trung thực đừng đánh giá theo cảm tính
cảm tình. Phải đánh giá trong điều kiện hoàn cảnh khác nhau. Phải
đánh giá nhiều nguồn tư liệu khác nhau, nhiều phương pháp khác
nhau
Quan điểm lịch sử cụ thể; Khi đánh giá cán bộ phải đứng
trong hoàn cảnh cụ thể đánh giá con người là đánh giá cả một quá
trình
·
Theo anh [chị] nguyên tắc nào là quan trọng nhất trong
giai đoạn hiện nay? Tại sao?
Theo tôi nguyên tắc đánh giá cán bộ lấy tiêu chuẩn và hiệu quả

công tác làm thước đo, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và
đúng quy trình là quan trọng nhất


Vì nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản
của Đảng. thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho Đảng
Cộng Sản Việt Nam thống nhất ý chí và hành động giữ vững kỷ
luật.Thực tiễn cho thấy ở đâu và nơi nào lúc nào bản chất của
nguyên tắc tập trung dân chủ được nhận thức đầy đủ mối quan hệ
tập trung dân chủ được giải quyết đúng đắn thì ở nơi đó nguyên tắc
tập trung dân chủ được giữ vững dân chủ được mở rộng tập trung
thống nhất năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng
được nâng cao
Vì vậy nhận thức đúng đắn đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ
là cơ sở cho quán triệt vận dụng phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ để
các tổ chức cơ sở Đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ đấu tranh chống các
quan điểm sai trái hiện nay.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức căn bản của
Đảng để xây dựng Đảng ta thành một Đảng kiểu mới vững mạnh.
Mục đích của nguyên tắc là nhằm thống nhất ý chí và hành động
trong Đảng, làm cho Đảng đoàn kết thành một khối thống nhất, nội
bộ luôn luôn đoàn kết một cách chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh, có
sức chiến đấu vô địch; Phát huy trí tuệ, năng lực và tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của đông đảo đảng viên, làm cho mọi đảng viên
có thể đóng góp được nhiều ý kiến, kinh nghiệm vào việc quyết định
đường lối, chủ trường và nhiệm vụ của Đảng được đầy đủ, chính
xác, phù hợp với thực tiễn.
Trong giai đoạn hiện nay có một bộ phận không nhỏ Đảng viên
đã bị thoái hóa, biến chất đã làm mất lòng tin trong quần chúng nhân
dân đã làm ảnh hưởng đến uy tín và thanh danh của Đảng gây bức

xúc lớn trong dư luận.
Vì vậy nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu: các cơ quan lãnh
đạo của Đảng phải báo cáo và chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt
động của mình trước tổ chức Đảng, gương mẫu tự phê bình và tiếp
thu phê bình của cấp dưới, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách. Tập trung trên cơ sở dân chủ hoàn toàn khác về bản chất với


tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán. Dân chủ của Đảng
Cộng sản không đối lập với tập trung, không tách rời tập trung. Dân
chủ để phát huy tối đa trí tuệ của Đảng viên, làm cơ sở cho tập trung.
Dân chủ càng mở rộng thì tập trung cang cao.
Ví dụ ở cơ quan tôi công tác đánh giá cán bộ thực hiện theo 8
nội dung và tính theo thang điểm.
1. Việc chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước
Nêu rõ bản thân và gia đình trong việc chấp hành chủ trương,
chính sách của Nhà nước tốt hay không tốt, có gì vi phạm, bản thân
của cán bộ Đảng viên đó có gương mẫu trong việc chấp hành hay
không [10 điểm]
2. Kết quả công tác [30 điểm]
Những nhiệm vụ công tác cụ thể được đơn vị phân công trong
năm. Kết quả thực hiện [số lượng và chất lượng công việc hoàn
thành trong năm].
3. Tinh thần kỷ luật [ý thức kỷ luật trong công tác, thực hiện nội
quy cơ quan, thục hiện ý kiến chỉ đạo của cấp trên, có tham gia đầy
đủ các buổi họp của chính quyền, Đảng, Đoàn thể thại công ty hoặc
chi bộ Đảng nơi cư trú] [10 điểm]
4. Tinh thần phối hợp trong công việc [Phối hợp công tác với
các cơ quan liên quan và đồng nghiệp, việc phối hợp đã đạt được
những kết quả] [10 điểm]

5. Tính trung thực trong công tác [trung thực trong việc báo cáo
với cấp trên và tính chính xác trong công tác báo cáo] [10 điểm]
6. Lối sống đạo đức [quan hệ với đồng nghiệp, trong gia đình và
cộng đồng nơi cư trú, đoàn kết nội bô và giúp đỡ lẫn nhau] [10
điểm]
7. Tinh thần học tập và nâng cao trinhg độ [Trong năm đã học
tập và nâng cao trình độ về lĩnh vực gì, dự những lớp học, tập huấn


nào, có những công trình nghiên cứu hoặc tham gia nghiên cứu thực
hiện như đề tài, báo cáo khoa học...] [10 điểm]
8. Tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân [tinh thần phục vụ,
hẹn đúng thơi gian; thái độ phục vụ tận tụy, lịch sự, hòa nhã].
Quy trình thực hiện đánh giá cán bộ tại công ty tôi đối với từng
cán bộ Đảng viên được thực hiện như sau:
+ Mỗi cán bộ Đảng viên tự đánh giá xấp loại theo mấu "Phiếu
đánh giá cán bộ"
+ Cấp ủy đọc bản nhận xét của cấp ủy nơi cư trú, nhận xét của
tổ chức hai đoàn thể công ty.
+ Tập thể đóng góp ý kiến cho bản thân tự nhận xét kết quả
công tác của cán bộ và góp ý đánh giá.
+ Cá nhân được đánh giá có ý kiến [nếu những ý kiến đánh giá
đóng góp đó đúng thì tiếp thu những ý kiến đó, nếu ý kiến đóng góp
chưa đúng thì cá nhân đó sẽ giải trình].
+ Cấp ủy công ty trực tiếp đánh giá cán bộ theo 8 nội dung,
tham khảo ý kiến nhận xét của tập thể bằng cách cứ vào tổng điểm
của 8 nội dung nêu trên để tổng hợp, xếp loại cán bộ theo các mức
độ quy định.
Cách xếp loại: Căn cứ vào tổng số điểm vào 8 mục trên và xếp
loại theo 4 mục sau: Hoàn thành xuất sắc, Hoàn thành tốt, Hoàn

thành và Không hoàn thành.



Một số suy nghĩ về phương pháp, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt trong các cơ quan, đơn vị Trung ương theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

09/05/2019 | 2452

Xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ của cán bộ cơ sở

Ngày đăng: 04/04/2018 02:50
Mặc định Cỡ chữ

Phong cách lãnh đạo, quản lý có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ và tác động đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức, phong cách của cán bộ cấp dưới và lợi ích của quần chúng. Thực tế cho thấy, có những nhiệm vụ chưa hoàn thành tốt, cán bộ chưa có uy tín, không phải do người cán bộ thiếu nhiệt tình, kiến thức, năng lực hay phương tiện vật chất bảo đảm mà còn do phong cách lãnh đạo, quản lý chưa phù hợp. Bởi vậy, việc xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ cho cán bộ cơ sở là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.

Cán bộ xã trực tiếp làm công tác tuyên truyền, vận động nhân dân ở cơ sở - Nguồn: laichau.gov.vn

Từ nhận thức…

Cán bộ cơ sở là người trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có quan hệ trực tiếp với quần chúng, với dân, gần dân, sát dân nhất, giải quyết mọi vấn đề ở cơ sở, trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân. Phong cách, lề lối làm việc của cán bộ cơ sở có vai trò to lớn để nghị quyết, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước thấm sâu vào nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, niềm tin của quần chúng và đi vào cuộc sống.

Có nhiều kiểu phong cách lãnh đạo, quản lý song cán bộ cơ sở cần định hướng lựa chọn và xây dựng cho mình một phong cách dân chủ, bởi đây là kiểu phong cách có nhiều ưu điểm nhất, đem lại hiệu quả cao trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức và nâng cao uy tín của người cán bộ.

Phong cách dân chủ được đặc trưng bằng việc người cán bộ biết sử dụng quyền lực của mình một cách hợp lý, không lạm dụng quyền lực; biết lắng nghe, tranh thủ ý kiến của cán bộ cấp dưới, của quần chúng, đưa họ tham gia vào việc ra quyết định và thực hiện quyết định; có cách thức làm việc khoa học, tác phong sâu sát, cụ thể, tỷ mỷ. Người cán bộ cơ sở phải luôn đặt lợi ích của tập thể, của quần chúng lên trên hết, vì lợi ích của tập thể, của quần chúng. Mọi suy nghĩ hành động đều vì tập thể, vì quần chúng. Không có biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị, vì lợi cá nhân mà vi phạm lợi ích của tập thể, vì lợi ích nhóm mà vi phạm lợi ích của tập thể lớn, làm giảm sút niềm tin của cấp dưới, của quần chúng nhân dân đối với mình. Sinh thời, Bác Hồ đã căn dặn mỗi cán bộ: “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”[1].

Trong công tác lãnh đạo, quản lý người cán bộ biết đặt mình trong khuôn khổ tổ chức. Không bao giờ được đặt mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức. Biết kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách. Tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng phải có tính nguyên tắc, tính quyết đoán, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, có những quyết định kịp thời, đặc biệt trong những thời điểm quan trọng, then chốt, không dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, thiếu trách nhiệm.

Người cán bộ cơ sở cần có cách thức làm việc khoa học, mang tính kế hoạch, bài bản, sáng tạo và hiệu quả. Biết tổ chức, phân chia, sắp xếp công việc, tổ chức động viên cấp dưới và quần chúng thực hiện. Kiểm soát khéo léo việc chấp hành của cấp dưới và quần chúng, biết rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng kịp thời. Không ngừng sáng tạo, đổi mới, tìm ra hướng đi mới, cách làm hay, mang lại hiệu quả. Khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, được chăng hay chớ, tùy tiện, thiếu kế hoạch, luộm thuộm, gặp sao làm vậy, làm chiếu lệ, không ngăn nắp, làm không đến nơi đến chốn, hoặc bệnh phô trương hình thức.

Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện, cấp hành động, hiện thực hóa đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, chủ trương, kế hoạch, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, đòi hỏi người cán bộ phải có tác phong sâu sát, cụ thể, tỷ mỷ, gương mẫu, nói đi đôi với làm. Thực sự hiểu rõ từng người, từng việc, từng mốc thời gian cụ thể. Đi sâu, đi sát cấp dưới, quần chúng để hiểu rõ cấp dưới, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng, chung chung, qua loa, đại khái, nói mà không làm, nói nhiều làm ít hoặc “nói một đường, làm một nẻo”.

Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và trong cuộc sống cá nhân phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải thể hiện siêng năng, chăm chỉ, toàn tâm, toàn ý với công việc chung. Thực hiện nếp sống văn minh, đoàn kết, tương thân, tương ái; thực hành tiết kiệm, sống khiêm tốn, giản dị, trong sạch, chống xa hoa, lãng phí.

Thực tiễn cho thấy ở nơi nào, ở người cán bộ nào có phong cách dân chủ sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cấp dưới, cho quần chúng chủ động trong công việc, phát huy trí tuệ, sáng kiến, tham gia tích cực vào công việc chung, đồng thời tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực, gần gũi, thân thiện, đoàn kết, tin tưởng. Uy tín của người cán bộ vì thế ngày càng được củng cố và nâng cao. Ngược lại ở nơi nào, cán bộ nào có phong cách độc đoán, chuyên quyền, hoặc tự do, tùy tiện thì ở đó mất dân chủ, trí tuệ tập thể không được phát huy, công việc không chạy, kém hiệu quả, tập thể không đoàn kết, niềm tin thấp.

Thực tế hiện nay vẫn còn cán bộ cơ sở thực hiện công tác lãnh đạo, quản lý theo kiểu độc đoán, chuyên quyền, tập trung quyền lực vào tay mình; chưa vì tập thể, hoặc vì lợi ích nhóm mà vi phạm lợi ích của tập thể, của quần chúng. Không tuân thủ nghiêm nguyên tắc lãnh đạo tập thể, thiếu khiêm tốn, thiếu tôn trọng quần chúng, chưa thu hút và phát huy trí tuệ tập thể. Quyết định hay việc làm còn có biểu hiện mang tính chủ quan, thiếu sự phân tích, xem xét kỹ lưỡng. Một số cán bộ cơ sở còn có biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, hành chính, giấy tờ, không nghiên cứu, xem xét tình hình thực tiễn “cưỡi ngựa xem hoa”, thiếu sâu sát, cụ thể, tỷ mỷ, không gương mẫu, nói chưa đi đôi với làm hay “nói một đường, làm một nẻo”, còn lãng phí, tham nhũng, làm giảm sút niềm tin của cấp dưới, của quần chúng.

Đến hành động…

Phong cách lãnh đạo, quản lý là nét đặc sắc, đặc trưng riêng và là sự sáng tạo của mỗi cán bộ, thông qua quá trình học tập và rèn luyện thực sự nghiêm túc và trách nhiệm, trên cơ sở sự chuyển hóa từ nhận thức đến hành động, thấm sâu giữa lời nói với việc làm, sự thống nhất giữa cách nghĩ, cách làm và cách sống. Vì vậy, để xây dựng, củng cố phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ của cán bộ cơ sở, cần quan tâm một số biện pháp sau:

Một là, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ cơ sở.

Phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức là yếu tố nền tảng để hình thành và phát triển phong cách lãnh đạo, quản lý. Chỉ có lập trường chính trị, tư tưởng kiên định, vững vàng, đạo đức, lối sống tốt đẹp, người cán bộ mới tích cực nghiên cứu, tìm chọn con đường, biện pháp thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao nhất, đem lại lợi ích thiết thực cho tập thể. Đó chính là mảnh đất tốt để nảy nở, phát triển phong cách dân chủ. Cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; cách làm việc dân chủ, tập thể, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn chỉ có thể là sản phẩm của trí tuệ, của tri thức, tình cảm đúng đắn, của phẩm chất nhân cách người cán bộ. Vì vậy, yêu cầu mỗi cán bộ ở cơ sở phải tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống để có khả năng gây ảnh hưởng đến mọi người xung quanh và cấp dưới, lôi cuốn, thuyết phục, khơi dậy niềm tin ở người khác bằng tính kiên định, vững vàng trước thử thách, khó khăn, bằng ngôn ngữ, thái độ, cử chỉ, tính nhất quán trong lời nói và hành động.

Hai là, chú trọng bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị, tri thức khoa học lãnh đạo, quản lý, trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức cho đội ngũ cán bộ cơ sở.

Cần chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, tri thức về khoa học lãnh đạo, quản lý như chức năng của lãnh đạo, quản lý; nhân cách của người lãnh đạo, quản lý; những vấn đề tâm lý trong công tác cán bộ và quan điểm của Đảng về công tác cán bộ; các kiểu phong cách lãnh đạo, quản lý; phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ; những kỹ năng cần thiết của cán bộ lãnh đạo, quản lý [kỹ năng lập kế hoạch, phân tích, xử lý thông tin; kỹ năng tổ chức, điều hành cuộc họp; kỹ năng soạn thảo văn bản; kỹ năng giao việc, bố trí, phân công công việc; kỹ năng thuyết trình, động viên, khuyến khích cấp dưới, giao tiếp, ứng xử, phối hợp và làm việc nhóm; kỹ năng sử dụng phương tiện]. Đồng thời, cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển phong cách dân chủ.

Tổ chức bồi dưỡng cán bộ thông qua các đợt tập huấn, học tập chính trị tại chức hàng năm. Thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 15-5-2016 “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Hướng dẫn Số 52-HD/BTGTW của Ban Tuyên giáo Trung ương, ngày 20-11-2017 về học tập chuyên đề năm 2018 “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Trung ương 4 [khóa XII]. Thông qua bình xét phân loại đảng viên, nhận xét, đánh giá cán bộ, thông qua đóng góp, phê bình của tổ chức tổ chức quần chúng như công đoàn, phụ nữ, đoàn thanh niên để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ cơ sở. Tổ chức thăm dò ý kiến của quần chúng trong cơ quan, đơn vị, địa phương đối với phẩm chất, năng lực, phong cách của đội ngũ cán bộ. Thực hiện tốt quy định cán bộ cấp trên bồi dưỡng cán bộ cấp dưới; phát huy tính tự giác, tích cực tự bồi dưỡng của mỗi cán bộ.

Ba là, tăng cường rèn luyện trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, trong sinh hoạt, học tập, trong hoạt động phối hợp công tác với các cơ quan, đơn vị, trong giải quyết các mối quan hệ xã hội.

Bất cứ việc gì cũng cần đầu tư suy nghĩ, làm việc có kế hoạch, mục đích rõ ràng, bám sát nhiệm vụ chính trị, sâu sát thực tế, nghiên cứu nắm chắc tình hình; chương trình kế hoạch phải phù hợp với chức trách, nhiệm vụ, đối tượng và thường xuyên được bổ sung, hoàn thiện trong quá trình tổ chức thực hiện. Xác định rõ nội dung, yêu cầu, chỉ tiêu và những giải pháp cụ thể. Lãnh đạo, quản lý toàn diện, nhưng không dàn trải mà có trọng tâm trọng điểm, coi trọng tính thiết thực, hiệu quả. Chú trọng rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn.

Nêu cao tính tự giác, làm chủ bản thân trong cuộc sống, sinh hoạt, học tập. Tôn trọng tập thể, lắng nghe ý kiến quần chúng. Luôn thể hiện thái độ đoàn kết, thân tình, trung thực, có nếp sống văn hoá, ý thức tổ chức kỷ luật, nêu cao tự phê bình và phê bình, nghiêm khắc với bản thân, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm; phát huy tính tự giác, mô phạm, nói đi đôi với làm, gương mẫu cho cấp dưới và quần chúng noi theo.

Bốn là, chủ động khắc phục phong cách quan liêu. Đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện xa rời tập thể, xem thường quần chúng, trốn tránh trách nhiệm, làm việc vô nguyên tắc, nói một đường, làm một nẻo; chỉ biết lo cho mình, không biết quan tâm người khác; làm việc thiếu kế hoạch, thiếu tiến độ, thụ động chờ đợi chỉ thị cấp trên; thiếu sâu sát, cụ thể, tỷ mỷ, thiếu gương mẫu.

Để khắc phục phong cách quan liêu một cách triệt để, phải nêu cao ý thức phục vụ nhân dân, thật sự tôn trọng và bảo đảm quyền làm chủ của quần chúng. Rèn luyện phong cách dân chủ, khoa học, thiết thực, cụ thể, sâu sát. Nâng cao kiến thức, năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ. Cải tiến tổ chức bộ máy gọn nhẹ, giảm bớt những khâu trung gian không cần thiết. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; kết hợp chặt chẽ kiểm tra, giám sát của Đảng và tổ chức chính quyền với kiểm tra của quần chúng.

Năm là, hoàn thiện hệ thống các quy định, quy chế, quy tắc trên cơ sở quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy môi trường hoạt động dân chủ trong cơ quan, đơn vị, địa phương.

Hoàn thiện hệ thống quy chế lãnh đạo của các tổ chức đảng, quy chế hoạt động của tổ chức chính quyền. Định kỳ kiểm tra, rà soát, bổ sung hệ thống quy chế cho phù hợp với sự phát triển của tình hình. Kịp thời phổ biến những nội dung mới, những nội dung bổ sung, điều chỉnh trong chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, hệ thống văn bản, quy chế mới, làm cơ sở cho đội ngũ cán bộ kịp thời có sự bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện phong cách lãnh đạo, quản lý của mình.

Tạo dựng môi trường làm việc, bầu không khí thực sự dân chủ trong mọi hoạt động. Bằng các thiết chế dân chủ, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ cơ sở phát huy hết sức lực, khả năng, trí tuệ của mình, được thảo luận, đề xuất, hiến kế cho lãnh đạo trong các lĩnh vực hoạt động. Cán bộ đứng đầu ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương phải tiêu biểu về phong cách dân chủ cho cán bộ cấp dưới học tập, noi theo. Việc đánh giá cán bộ, đảng viên ở cương vị lãnh đạo, quản lý phải chú trọng cả về phẩm chất, năng lực và phong cách, phương pháp, tác phong công tác.

Thực tiễn luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, đặt ra những yêu cầu mới đối với việc tu dưỡng, rèn luyện và hoàn thiện phong cách lãnh đạo, quản lý của người cán bộ. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện phong cách dân chủ của cán bộ cơ sở đòi hỏi thực hiện sự thống nhất và đồng bộ giữa giải pháp từ phía lãnh đạo cơ quan, đơn vị, địa phương và tự học tập, rèn luyện không ngừng của bản thân mỗi cán bộ. Có như vậy mới đem lại hiệu quả thiết thực./.

Nguyễn Văn Tỵ

----------------------------------------------------

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.56

Theo: tapchicongsan.org.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Một số giải pháp xây dựng phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu

Phong cách, như cách hiểu chung hiện nay, là sự thể hiện tư tưởng, đạo đức, nhân cách, lối sống ra bên ngoài, qua các hoạt động xã hội của cá nhân. Do vậy, việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên là cơ sở quan trọng hàng đầu để xây dựng phong cách công tác của cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu, tìm hiểu phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh để học tập, vận dụng vào đổi mới phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo của người cán bộ, đảng viên trong tình hình mới luôn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết.
Ngày đăng : 15/06/2018 Xem với cỡ chữ
Bản in

Căn cứ Hướng dẫn số 52-HD/BTGTW ngày 20-11-2017, của Ban Tuyên giáo Trung ương về học tập Chuyên đề năm 2018 “ Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ đảng viên ” gắn với thực Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”; để xây dựng phong cách, tác phong công tác, nâng cao hiệu quả công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

1. Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống: Tăng cường việc giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; các tri thức khoa học và kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong quá trình học tập cần gắn với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, bàn bạc về các giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc. Không ngừng bồi dưỡng, nâng cao ý chí, nghị lực để giải quyết những vấn đề, những khó khăn, thử thách trong thực tế công tác; có khả năng đề kháng với những cái xấu, tiêu cực, tránh được sự cám dỗ quyền lực, đặc quyền, đặc lợi,...Có như vậy, việc học mới đi đôi với hành, góp phần trực tiếp vào việc đổi mới phong cách công tác, nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý của mỗi cá nhân, nhất là người lãnh đạo, người đứng đầu.

Thực hiện nghiêm Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; và Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.

2. Giữ vững các nguyên tắc “tập trung dân chủ” và “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”: Luôn giữ vững nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong làm việc và tuân thủ nghiêm nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trong lãnh đạo, quản lý. Tăng cường phát huy dân chủ để khơi dậy tính sáng tạo, tập trung trí tuệ tập thể trong việc xây dựng, thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu. Xây dựng quy định về trách nhiệm, quyền hạn của cấp ủy, người đứng đầu các cấp trong thực thi công vụ, trong đó, nêu rõ những yêu cầu về phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo.

3. Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong xây dựng phong cách công tác theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Đối với các tổ chức đảng, xây dựng các quy chế, nội quy trong thực thi công vụ và thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác quản lý cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo. Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh đạo và người đứng đầu các cấp, các ngành, kịp thời phát hiện, phê bình, uốn nắn sai phạm, khuyết điểm. Thực hiện nghiêm Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 10/01/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên.

Đưa nội dung tự hiện tự phê bình và phê bình, “tự soi, tự sửa” theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào sinh hoạt định kỳ chi bộ theo kết luận số 18-KL/TW, ngày 22/9/2017 của Ban Bí thư; thực hiện nghiêm túc Kế hoạch 47-KH/TU, ngày 22/3/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tổ chức Diễn đàn chi bộ, các chi bộ Đảng tổ chức Diễn đàn sinh hoạt chủ đề năm 2018: “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Diễn đàn chi bộ: “ Nêu cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” theo Hướng dẫn số 50-HD/BTGTU, ngày 26/2/2018 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy về “Tổ chức Diễn đàn chi bộ năm 2018” đảm bảo yêu cầu nội dung, kế hoạch đề ra.

Đối với cán bộ, đảng viên việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng phong công tác, phong cách lãnh đạo là nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Để làm tốt việc đó, mỗi người tự mình xác định rõ, vững vàng về lập trường tư tưởng chính trị, rèn luyện cái tâm trong sáng, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, tích luỹ kinh nghiệm từ thực tiễn, hoàn thiện nhân cách người cán bộ, đảng viên. Chỉ có như vậy, mới xứng đáng với vai trò lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

Xây dựng phong cách công tác, phong cách lãnh đạo, mỗi cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm túc Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương. Quy định về trách nhiệm nêu gương yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện về phong cách công tác, phong cách lãnh đạo. Hàng năm, mỗi cán bộ, đảng viên phải có Bản đăng ký và cam kết “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; không suy thoái, không “tự diễn biến, không “tự chuyển hóa”” theo mẫu chung quy định tại Công văn số 504-CV/BTGTU, ngày 23/1/2018 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy về “Gợi ý một số nội dung thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW gắn với Nghị quyết số 4-NQ/TW”, để chi bộ có có sự giám sát, giúp đỡ.

4. Nhóm giải pháp tăng cường kiểm tra, đôn đốc: Các tổ chức cơ sở đảng, cấp ủy, ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng đối với việc xây dựng, thực hiện phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên, phong cách lãnh đạo của người đứng đầu các cấp. Thông qua kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên từng cán bộ, đảng viên ở nơi công tác, nơi cư trú, có ý kiến đánh giá, uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong phong cách công tác, phong cách lãnh đạo có tác đụng rất tích cực trong đổi mới phong cách công tác, phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 03/10/2017 của Bộ Chính trị về ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phát huy mặt tích cực, đấu tranh với mặt tiêu cực. Các cơ quan thông tin đại chúng cần quan tâm đúng mức đến các hoạt động tuyên truyền về nội dung thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, chủ đề năm 2018 là “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu”. Xây dựng chuyên trang, chuyên mục, duy trì thường xuyên với các nội dung phong phú cập nhật về xây dựng phong cách công tác, phong cách lãnh đạo trong Đảng và hệ thống chính trị.

Xây dựng phong cách công tác, phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có vai trò to lớn trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đó còn là một trong những biện pháp quan trọng để góp phần ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và xã hội, một nguy cơ lớn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay./.Từ Quang Hóa

Lê Thùy Trang
Lần xem: 28121
Go top

Video liên quan

Chủ Đề