Mọi giao dịch đều có thể được thực hiện thông qua người đại diện

Tình tiết sự kiện:

Công ty Cyprus [Nguyên đơn] xác lập hợp đồng với Công ty Việt Nam [Bị đơn]. Trong phần đại diện, Công ty Việt Nam có Phó tổng giám đốc nhưng không thấy thể hiện có giấy ủy quyền. Mặc dù vậy, Hội đồng Trọng tài vẫn khẳng định giao dịch này ràng buộc Bị đơn.

Bài học kinh nghiệm:

Trong thực tế, không hiếm trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không tham gia vào việc xác lập giao dịch mà một người khác tham gia vào xác lập giao dịch nhưng không thấy có ủy quyền. Trong trường hợp như vậy, giao dịch có ràng buộc doanh nghiệp không?

Trong vụ việc trên, hợp đồng có con dấu của Bị đơn và chữ ký của ông Q với tư cách Phó tổng giám đốc của Bị đơn. Hợp đồng không nêu rõ ông Q có được ủy quyền của người đại diện hợp pháp của Bị đơn hay không. Mặc dù vậy, Hội đồng Trọng tài vẫn khẳng định hợp đồng này ràng buộc Bị đơn.

Cụ thể, theo Hội đồng Trọng tài, hợp đồng đã được các Bên thực hiện [Nguyên đơn đã chuyển tiền và Bị đơn thừa nhận đã nhận tiền], người đại diện theo pháp luật của Bị đơn đã biết và chấp nhận hợp đồng. Chẳng hạn, trong Văn thư ngày 10/01/2014 gửi Nguyên đơn, bà P [là Chủ tịch Hội đồng quản trị, đại diện theo pháp luật của Bị đơn] đã nêu rõ hợp đồng hợp tác kinh doanh số 68 và 69/HĐ-HTĐT ký ngày 09/01/2012 và khẳng định “chúng tôi rất trân trọng những nội dung và công việc mà các Bên đã làm việc và đã ký kết trước đây”. Do đó, ngay cả khi ông Q không nhận được ủy quyền ký hợp đồng làm phát sinh tranh chấp [có thỏa thuận trọng tài] thì hợp đồng cũng như thỏa thuận trọng tài ràng buộc Bị đơn trên cơ sở Điều 145 và 146 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó “Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý”, “Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối”.

Như vậy, giao dịch do người không có quyền đại diện xác lập cho doanh nghiệp vẫn ràng buộc doanh nghiệp khi người có thẩm quyền của doanh nghiệp biết sự tồn tại của giao dịch mà không phản đối, hoặc có những ứng xử cho thấy người có thẩm quyền chấp nhận giao dịch. Hướng giải quyết như vừa nêu là thuyết phục vì tạo ra sự an toàn pháp lý cho các doanh nghiệp đồng thời loại trừ những ứng xử mâu thuẫn của bên được đại diện: nếu giao dịch có lợi cho mình thì chấp nhận còn nếu giao dịch bất lợi cho mình thì lại phủ nhận.

Do đó, khi xác lập giao dịch với người không có quyền đại diện, doanh nghiệp đối tác nên có những minh chứng để cho thấy người có thẩm quyền của doanh nghiệp được đại diện đã chấp nhận giao dịch hay biết mà không phản đối giao dịch [trong một Phán quyết trọng tài năm 2018, Hội đồng Trọng tài còn khai thác việc chuyển tiền qua tài khoản để khẳng định giao dịch hợp pháp[1]]. Đồng thời doanh nghiệp được đại diện cũng không được phủ nhận giao dịch nếu người có thẩm quyền của mình đã có những ứng xử cho thấy đã chấp nhận giao dịch hay biết giao dịch nhưng không phản đối.

 *Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam [VIAC]. Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

[1] Ví dụ, một Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “căn cứ vào giấy chuyển tiền của Bị đơn thông qua Ngân hàng TNHH một thành viên H [Việt Nam] vào tài khoản của Nguyên đơn vào các ngày 07/10/2016 và ngày 04/11/2016, đã thể hiện Bị đơn chuyển tiền cho Nguyên đơn từ tài khoản của Bị đơn. Theo quy định, chủ tài khoản tại Ngân hàng là người đại diện theo pháp luật của Bị đơn nên có cơ sở để khẳng định thêm rằng, người đại diện theo pháp luật của Bị đơn tại thời điểm đó đã biết và đồng ý với việc ký kết và thực hiện hợp đồng, trong đó có thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng”.

Nội dung chi tiết

Đại diện là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Không chỉ cá nhân, mà pháp nhân hoặc chủ thể khác đều có quyền và có thể xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự thông qua người đại diện của mình. Vậy người đại diện theo pháp luật bao gồm những ai ? Sau đây luật Thiên Minh sẽ giải đáp thắc mắc bạn đọc thông qua bài viết này.

Đại diện pháp luật là gì

Căn cứ theo bộ luật dân sự 2015

Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân [sau đây gọi chung là người đại diện] nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác [sau đây gọi chung là người được đại diện] xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.

Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.

Người đại diện theo pháp luật bao gồm những ai ?

Người đại diện theo pháp luật bao gồm:

Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

Người giám hộ đối với người được giám hộ.

Người được Toà án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình.

Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác.

Những người khác theo quy định của pháp luật.

Căn cứ xác lập quyền đại diện

Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện [sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền]; theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật [sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật].

Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện

Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.

Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện.

Trường hợp người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.

Thời hạn đại diện

Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.

Trường hợp không xác định được thời hạn đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì thời hạn đại diện được xác định như sau:

– Nếu quyền đại diện được xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện được tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó.

– Nếu quyền đại diện không được xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.

Đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong trường hợp sau đây:

– Theo thỏa thuận.

– Thời hạn ủy quyền đã hết.

– Công việc được ủy quyền đã hoàn thành.

– Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền.

– Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại.

– Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật này;

– Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.

Đại diện theo pháp luật chấm dứt trong trường hợp sau đây:

– Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục.

– Người được đại diện là cá nhân chết.

– Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại.

– Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.

Phạm vi đại diện

Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:

– Quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

– Điều lệ của pháp nhân.

– Nội dung ủy quyền.

– Quy định khác của pháp luật.

Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.

Xem thêm:

>>> Quyền xác định lại giới tính của cá nhân

>>> Một số vướng mắc về địa vị pháp lý của chấp hành viên

CÔNG TY TNHH TƯ VẤN PHÁP LUẬT THIÊN MINH

Add: Tòa AQUA 1 109OT12B Vinhomes Golden River, số 2 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1

Tel: 0839 400 004 – 0836 400 004

Trân trọng !

Video liên quan

Chủ Đề