Nghĩ luận thái độ sống là tấm gương phản Anh toàn Bộ nhân cách của con người

Nghị luận văn hóa ứng xử của giới trẻ hiện nay

  • Dàn ý nghị luận về văn hóa ứng xử
  • Nghị luận về văn hóa ứng xử trên mạng xã hội
  • Đoạn văn nghị luận về văn hóa ứng xử
    • Đoạn văn mẫu 1
    • Đoạn văn mẫu 2
  • Nghị luận về văn hóa ứng xử ngắn gọn
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 1
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 2
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 3
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 4
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 5
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 6
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 7
  • Nghị luận về văn hóa ứng xử đầy đủ nhất
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 1
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 2
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 3
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 4
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 5
    • Nghị luận về văn hóa ứng xử - Mẫu 6

Dàn ý nghị luận về nhân cách và phẩm giá của con người

I. Mở bài:

- Giới thiệu về nhân cách và phẩm giá.

II. Thân bài:

1. Giải thích:

- Nhân cách:

- Phẩm giá:

2. Phân tích:

- Yếu tố hình thành nên nhân cách và phẩm giá:

- Tại sao con người lại cần phải giữ gìn nhân cách và phẩm giá?

- Làm sao để giữ gìn được nhân cách và phẩm giá?

III. Kết bài:

- Khẳng định lại tầm quan trọng của nhân cách và phẩm giá.

THÁI ĐỘ LÀ GÌ? BẢN CHẤT, Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA THÁI ĐỘ


Thái độ là gì? Điều gì tạo nên thái độ tốt? Ý nghĩa và tầm quan trọng của thái độ tích cực đối với cuộc sống mỗi người như thế nào? Trong bài viết này Trịnh Đức Dương Blog sẽ cùng các bạn đi trả lời những câu hỏi đó.

1. Thái độ là gì?

Chắc hẳn bạn đã từng nghe tới những câu đại loại như: Thằng này rất thái độ, hay thái độ làm việc của nó rất tốt. Đó là 2 trạng thái đối lập của thái độ. Vậy thái độ là gì?

1.1 Định nghĩa về thái độ.

Thái độ là gì? Thái độ là mộttrạng thái cảm xúcđược thể hiện thành hành vi của con người. Thông qua các hành vi về mặt cử chỉ, lời nói, hành động,cử chỉ và nét mặt; họ thực hiện việc phát biểu, nhật xét và đánh giá, cũng như phản ứng với thế giới xung quanh.

Theo các nhà nghiên cứu về thái độ thái độ được cấu thành từ 3 thành phần là: Thành phần nhận thức, thành phần ảnh hưởng và thành phần về hành vi. Cũng như các loại cảm xúc khác của con người thái độ có 2 loại và tích cực và tiêu cực.

1.2 Bản chất của Thái độ là gì?

Bản chất của thái độ hay còn gọi là thành phần cấu tạo của thái độ là gì? Như đã nói ở trên thái độ được cấu thành từ 3 yếu tố cơ bản là nhận thức, ảnh hưởng và hành vi.

Nhận thức:

Thành phần quan trọng nhất của thái độ là gì? Vâng đó là nhận thức. Nhận thức hay chúng tôi gọi đó là kiến thức nền, hay nền tảng kiến thức. Đó là những hiểu biết, niềm tin và đánh giá cá nhân về sự vật, sự việc đang diễn ra. Mỗi người có mức độ hiểu biết cũng như cảm nhận về thái độ khác nhau. Ví dụ “Bạo hành là hành vi trái đạo đức và chuẩn mực xã hội” với hiểu viết của tôi về xã hội học và quyền con người, tôi thấy ý kiến đó là đúng. Như vậy nó thể hiện nhận thức của bạn về vấn đề này

Ảnh hưởng:

Ảnh hưởng hay còn còn là cảm xúc, cảm nhận của chủ thể đối với sự vật sự việc đang diễn ra. Tức là phần cảm nhận cá nhân của chủ thể, chưa được bộc lộ ra bằng hành vi. Ví dụ như việc bạn gặp người yêu cảm xúc của bạn rất hồi hộp. Nhưng nó mới chỉ dùng lại ở cảm xúc chứ chưa bộc lộ ra bên ngoài

Hành vi của thái độ.

Đây là cách chủ thể tương tác trực tiếp thế giới quan. Đó là cách hành xử hay còn gọi là phản ứng lại, khi có tác động từ bên ngoài. Ví dụ: Tôi không vui vì người yêu đi chơi với người khác. Tôi bày tỏ tái độ bằng hành vi nhăn nhó, cau có.

Như vậy yếu tố ảnh hưởng hay bản chất Thái độ là gì? Đó là cách phản ứng của cá nhân chủ thể được bộc lộ ra bên ngoài bằng hành vi dựa trên nền tảng kiến thức và sự hiểu biết của họ đối với sự vật, sự việc cụ thể. Vì vậy để có thái độ tốt bạn cần đầu tưphát triển bản thânmột cách toàn diện. Có như vậy hành vi và thái độ của bạn mới được cải thiện

2. Những thái độ nên có

Chúng ta đã tìm hiểu về Thái độ là gì? Vậy bạn nên rèn luyện những thái độ như thế nào để có cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc. Cùng chúng tôi điểm qua 5 thái độ tích cực dưới đây, qua đó nâng cao chất lượng cuộc sống của chính bạn

2.1 Thái độ Nhiệt tình.

Ai cũng thích sự nhiệt tình của người khác đối với mình hoặc công việc. Những người nhiệt tình luôn luôn bày tỏ thái độ tích cực và năng lượng tốt đến người xung quanh. Nhưng thế nào là nhiệt tình, rõ ràng nhiệt tình thái quá, và trốn tránh là 2 trạng thái không tốt.

Về quan điểm nhiệt tình. Nhiệt tình là việc sẵn sàng làm việc, giúp đỡ người khác với năng lượng tràn đầy. Tuy nhiên nhiệt tình không phải là làm tất cả những gì người khác ngại làm. Điều quan trọng về mặt bản chất con người luôn làm việc dựa trên lợi ích và chi phí. Người nhiệt tình là người làm việc dựa trên yêu cầu và lợi ích của số đông. Đồng thời nó phải mang lại cảm xúc tích cực cho người khác.

Trong quá trìnhlàm việc nhóm, những người nhiệt tình luôn tạo không khí tốt. Thúc đẩy công việc chung của cả đội đi nhanh hơn. Bằng khả năng cùng mình họ sẽ lấp đầy những thiếu hụt của khi tồn tại công việc mà không ai muốn làm.

Nhiệt tình là 1 dạng thái độ tích cực. Thế nhưng như đã nói ở trên nếu nhiệt tình thái quá sẽ trở thành phá hoại. Bạn chỉ nên làm những gì nằm trong khả năng của mình. Vì nếu động viên cho thằng ngu làm việc gấp 5 lần bạn sẽ có 5 thằng ngu. Hãy nhớ rằng thái đội luôn đi cùng trình độ. Vì kiến thức nền cấu tạo nên hành vi của thái độ.

2.2. Thái độ Lạc quan

Lạc quan là sống và tư duy tích cực. Người lạc quan luôn suy nghĩ và hành động một cách hào hứng và đầy tin tưởng. Người lạc quan là người luôn luôn nhìn thấy mặt tốt trong khó khăn. Đứng trước những gian nan người lạc quan luôn tin tưởng vào thành công của tương lai. Họ thấy và tạo động lực to lớn cho mọi người xung quanh. Nếu bạn có thái độ sống lạc quan thì điều đó thật tuyệt vời. Tôi đã từng chia sẻ, Nguy cơ có nghĩa là trong nguy cơ có cơ hội. Vậy tại sao bạn không sống lạc quan.

Người lạc quan là người tích cực vì vậy họ sống thiên về hành động nhiều hơn. Bởi lẽ thái độ chỉ được bộc lộ thông qua hành vi. Không có ai được xem là sống lạc quan mà không làm gì cả. Người lạc quan luôn biết cách xoa dịu nỗi đau của người khác.

Nếu bạn muốn thành công và hạnh phúc bạn cần rèn luyện cho mình tinh thần và thái độ lạc quan. Từ những việc nhỏ như tha thứ, tin tưởng, vui vẻ thoải mái trước khó khăn. Tất nhiên bạn cũng luôn luôn duy trì, và truyền năng lượng đó cho những người xung quanh

2.3. Thái độ Kỷ luật

Kỉ luật là một trong những thái độ quan trọng bậc nhất mà bạn cần có. Bạn muốn thành công nhất định cần có thái độ kỉ luật tốt. Kỉ luật không chỉ là việc chấp hành nghiêm ngặt các quy định của cơ quan và tổ chức. Kỷ luật với chính bản thân mình quyết định việc thành công hay thất bại của bạn trong tương lai.

Tại sao tôi đưa kỉ luật vào trong hành vi của thái độ. Kỷ luật giúp điều chỉnh hành vi, tuy nhiên cách bạn tự đưa ra những khuôn phép yêu cần buộc bản thân hành xử đúng nó lại là hành vi thuộc về thai độ. Cách bạn hành xử đúng chuẩn sẽ có tác động tích cực. Nó hoàn toàn khác với sử dụng thủ đoạn, để chấp hành quy định.

Những biểu hiện tiêu biểu của thái độ sống có kỉ luật là: Tuân thủ đúng cam kết của bản thân. Nghiêm ngặt trong việc thực hiện mục tiêu, quản lý thời gian. Kỷ luật là hành động có mục tiêu và tính nhất quán. Họ luôn biết cáchbiến suy nghĩ thành hành độngcó mục tiêu và lý tưởng rõ ràng.

Người có kỉ luật tốt sẽ giúp đưa đội nhóm đi đúng hướng. Kỉ luật tạo ra sự chính xác và nhất quán trong quy trình quản lý. Người tôn trọng kỉ luận có khả năng tập trung vào công việc, tạo dựng được uy tín với những người xung quanh.

2.4. Thái độ ham học hỏi

Tinh thần học hỏi, hay Thái độ ham học luôn được đánh giá cao. Người ham học hỏi có tính tự giác cao, nên nó được xếp vào 1 phần của thái độ. Ham học hỏi giúp bạn có được kiến thức và kĩ năng tốt. Học là con đường giúp bạn tiến đến thành công nhanh nhất.

Hãy cố gắng biến việc học hỏi trở thành chủ động và thường xuyên. Người có thái độ ham học hỏi sẽ luôn được yêu quý và tôn trọng. Hầu hết các đơn vị luôn muốn có được người ham học hỏi. Vì người ham học hỏi có khả năng thích nghi cao giúp giải quyết công việc khó khăn thử thách.

Nên nhớ rằng kiến thức nền quyết định thái độ. Thái độ tốt, tiêu cực hay tích cực phụ thuộc hoàn toàn vào kiến thức của bạn. Chính vì vậy hãy đưa việc ham học hỏi lên hàng đầu trong việc rèn luyện thái độ tốt.

2.5 Thái độ biết ơn.

Thái độ biết ơn là thứ thái độ quan trọng bậc nhất cấu thành nhân cách con người. Người có thái độ biết ơn người khác xuất phát từ tâm, nhẫn, và trí. Người tốt luôn giúp đỡ mà không cần trả ơn. Nhưng nếu bạn biết ơn những người đã giúp đỡ mình, thì đó là điều tuyệt vời. Thái độ trân quý luôn được đánh giá cao trong cộng đồng.

Hãy biết ơn vì tất cả, bạn biết ơn cha mẹ sinh bạn ra trên cuộc đời. biết ơn bạn bè thầy cô, biết ơi cuộc sống này…. Mọi thứ dù hạnh phúc hay tồi đệ cũng đều rèn luyện nên con người bạn ngày hôm nay. Biết hơn là thái độ cho thấy bạn là người có tâm và có tầm trong xã hội.

Một người biết ơn sẽ luôn biết tập trung vào những gì họ có thay vì những gì họ thiếu. Họ quý trọng hiện tại, biết ơn và sử dụng hiệu quả tất cả các nguồn lực mình có. Không chỉ quý trọng biết ơn người khác họ còn là người quý trọng thời gian sức khoẻ và hạnh phúc nhỏ của mình.

Có thể bạn quan tâm:

  • Cách thu hút khách hàng mới hiệu quả.
  • Thiết kế website Uy tín, Chuyên nghiệp, Giá rẻ.

Như vậy chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu vềThái độ là gì? Điều gì tạo nên thái độ tốt? Ý nghĩa và tầm quan trọng của thái độ tích cực. Đồng thời chúng ta cũng đã điểm quan những loại thái độ cần nhất cho cuộc sống của bạn. Mong rằng với những gì chúng tôi vừa chia sẻ sẽ giúp bạn hiểu sâu hơn về định nghĩa thái độ là gì. cũng như có được cách nhìn và thái độ sống tích cực.

Nguồn: trinhducduong.com

Sưu tầm: Mộng Vi - P. Kế toán

Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách

bởi quản trị viên | Ngày đăng: 13-04-2018

Vấn đề nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi nhất, là chỗ sâu sắc và tinh tế nhất của triết lý giáo dục.

1. Một con người đạt tới sự trưởng thành xã hội phải là một con người có nhân cách.

Nhân cách là nhân cách của từng người, trong tính cá thể sinh động của nó, trong sự tự biểu hiện và tự khẳng định chặt lượng phát triển người của nó với tư cách một cá nhân, một chủ thể mang nhân cách. Đây là sự phát triển đặc trưng của cái riêng, của từng cái riêng một trong mối liên hệ mật thiết về bản chất với cái chung. Mỗi cái riêng đó là một con người cá thể, cá nhân mà nhân cách của nó phản ánh nhân cách xã hội, là sản phẩm của sự phát triển xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Mỗi một cái Tôi nhân cách đều mang dấu ấn của nhân cách xã hội, chịu ảnh hưởng và tác động của hoàn cảnh xã hội, điều kiện sống, truyền thống lịch sử, văn hoá cũng như trình độ và tính chất phát triển của xã hội đương thời. Cái chung của nhân cách xã hội chi phối nhân cách cá nhân thông qua hệ giá trị và chuẩn mực của nó, biểu hiện thành thế giới quan và nhân sinh quan, thành tư tưởng và đạo đức, tình cảm và niềm tin, thành hành vi trong hoạt động và ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội. Do đó, mỗi cá nhân mang cái tôi nhân cách như một hình ảnh thu nhỏ của nhân cách xã hội. Đời sống hiện thực, hàng ngày của nó diễn ra trong môi trường xã hội, giữa những người khác, trong công việc, trong giao tiếp và ứng xử. Môi trường xã hội, hoạt động của con người và những quan hệ xã hội của nó là những nhân tố trực tiếp nhất tham gia vào sự hình thành và thực hiện nhân cách của mỗi cá nhân. Tính hiện thực này của nhân cách xác định hình thức biểu hiện của nhân cách ở lẽ sống, lối sống và nếp sống. Lẽ sống biểu đạt một quan niệm sống, một thái độ lựa chọn và định hướng giá trị cuộc sống của bản thân, chứa đựng trong đó cả mục đích, động cơ, nhu cầu và lý tưởng xã hội mà cá nhân hướng tới. Nó đo lường trình độ trưởng thành xã hội của cá nhân về mặt nhận thức, lý trí, tình cảm… ý thức và tự ý thức về mình – cải tạo thành bản ngã, hay ý thức về cái tôi cá thể và chủ thể, trước hết được định hình ở lẽ sống. Nó như một triết lý về con người và cuộc sống.

Hồ Chí Minh khái quát triết lý ấy trên hai phương diện của cùng một vấn đề: Sống ở đời và Làm người. Làm người và sống ở đời thì phải chính tâm và thân dân. Với những con người trẻ tuổi mới bước vào đời, lập thân và lập nghiệp, lẽ sống là cả một vấn đề hệ trọng của cuộc đời. Xã hội, trước hết là gia đình, nhà trường, các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục và những thế hệ đi trước phải giúp đỡ thế hệ trẻ tự mình tìm thấy câu trả lời đúng và tôi, tôi và đẹp về lẽ sống. Đây thực sự là một định hướng mang ý nghĩa sâu xa về văn hoá, về văn hoá nhân cách.

Xác định đúng đắn về lẽ sống đối với một con người là điểm tựa tinh thần đầu tiên để con người phát triển thành một nhân cách với nghĩa là biết sống lương thiện, tử tế, có trách nhiệm với chính mình và xã hội.

2. Một năm khởi đầu từ mùa xuân.

Cuộc đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Giáo dục lẽ sống phải bắt đầu từ những năm tháng còn trẻ, còn rất trẻ của cuộc đời. Khoảng thời gian đó là cơ hội thuận lợi nhất đối với nhà giáo dục để giáo dục lẽ sống đối với các công dân tương lai khi mà những va đập của cuộc đời chưa làm cho họ tập nhiễm phải những cái xấu, cái ác, khi mà sự trong sáng của tâm hồn và tình cảm của họ làm cho họ dễ tiếp thụ những giá trị đạo đức, dễ nảy nở nhưng khát vọng trở nên tôn đẹp thông qua những phương thức giáo dục biểu cảm, truyền cảm bởi văn hoá nghệ thuật và những tấm gương sống động về người thực, việc thực ở đời. Có lẽ sống đúng, có lý tưởng sống cao thượng, con người được đặt vào một xu hướng phát triển tích cực về nhân cách, tức là một khả năng nảy nở và hoàn thiện nhân tính, cái mà nhà giáo dục lỗi lạc xô viết trước đây, Xukhômlinxki gọi là “Khả năng dễ giáo dục”.

Cũng vì vậy, sự sai lệch chuẩn mực xã hội về lẽ sống, tức là những lệch lạc về quan niệm sống ở những người trẻ tuổi là một trở ngại căn bản để hình thành nhân cách của họ, đặt họ trước nguy cơ hư hỏng, có khi hỏng cả một cuộc đời. Trong trường hợp này, giáo dục vấp phải không ít những nhọc nhằn, nan giải, mà nếu nhà giáo dục không đủ tài năng, bản lĩnh, cao hơn nữa là không đủ sức mạnh của lòng nhân ái, của tấm lòng và trái tim nhân hậu thì thất bại trong giáo dục nhân cách đối với tuổi trẻ là khó tránh khỏi.

Nếu lẽ sống là tiếng nói lý trí của nhân cách con người thì lối sống là bước chuyển hoá cực kỳ quan trọng từ ý thức lựa chọn mẫu nhân cách của cá nhân, của nhóm và tập thể đến thực hành nhân cách trong đời sống hàng ngày, trong cuộc đời của họ. Trong một lối sống đã hình thành, đã định hình, những cái ổn định và có xu hướng trở nên bền vững thuộc về ý thức, tâm lý, thói quen và nhu cầu, lý trí và tình cảm, nhận thức hành động... như những thuộc tính và phẩm chất cá nhân được bộc lộ ra. Tính hiện thực của nhân cách được thể hiện trong lối sống. Nó như một tập hợp các giá trị, được khảo nghiệm và chứng thực trong hoạt động và hành vi của con người, trong các mối quan hệ con người với nhau, trong những ảnh hưởng qua lại giữa nhân cách này với nhân cách khác. Xây dựng lối sống và đời sống văn hoá tinh thần là tạo ra môi trường văn hoá theo các chuẩn mực giá trị về đạo đức, khoa học, thẩm mỹ để hình thành văn hoá nhân cách của cá nhân cũng như tập thể. Lối sống vừa phản ánh nhân cách vừa đánh giá nhân cách của cá nhân mỗi người.

Văn hoá nhân cách của cá nhân biểu hiện trình độ phát triển nhân cách của cá nhân đó ở mức độ điển hình, trong đó những thuộc tính giá trị của nhân cách đã trở nên ổn định, bền vững. Ý thức về cái đúng [chân], cái tốt [thiện], cái đẹp [mỹ] đã gắn liền với năng lực thực hành lối sống theo những giá trị đó. Nó trở thành xu hướng chủ đạo dẫn dắt cá nhân tới những hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo, tới những hành vi giao tiếp và ứng xử với những người xung quanh một cách có văn hoá, đặc biệt là văn hoá đạo đức. Đó là những nét đẹp thuộc về tư tưởng, tâm hồn, tính cách như sự trung thực, lòng chân thành, tính vị tha, bao dung, sự ân cần chu đáo với con người, thái độ tôn trọng nhân cách con người và coi trọng đạo lý làm người.

Tóm lại, văn hoá nhân cách biểu hiện trình độ phát triển nhân cách thông qua lối sống có văn hoá, là cái đã trở thành lối sống văn hoá, thành chất lượng văn hoá lối sống của cá nhân. Đây là mục tiêu cần đạt tới của giáo dục văn hoá nhân cách đối với con người, nhất là đối với thế hệ trẻ. Người đạt đến văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người không chỉ đạt đến trình độ phát triển của năng lực, của đạo đức và các giá trị, các chuẩn mực xã hội khác của nhân cách, mà còn đạt tới sự phát triển về nhu cầu - những nhu cầu bên

trong thuộc về đời sống văn hoá tinh thần của mình, tự khẳng định mình về tư tưởng, đạo đức, lối sống theo các chuẩn mực giá trị Chân - Thiện - Mỹ.

Người có văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người có sự phát triển bền vững của văn hoá đạo đức. Văn hoá đạo đức là nền tảng và giá trị cốt lõi nhất tạo nên đặc trưng điển hình và bao trùm cho một nhân cách đã chín muồi.

3. Trong khi nhấn mạnh cả hai mặt đức và tài của nhân cách, Hồ Chí Minh vẫn coi đức là gốc, là quyết định, là hàng đầu chính là vì vậy.

Theo quan niệm đó, người được coi là có nhân cách, trước hết là người có đạo đức, được đánh giá về đạo đức bởi những người khác, bởi dư luận xã hội. Sự đánh giá này tập trung vào lối sống của con người, trong quan hệ với công việc, với những người xung quanh, với cả bản thân mình từ thái độ đến hành vi, ứng xử. Tính ích kỷ, sự vụ lợi mà rộng hơn là cá nhân chủ nghĩa xa lạ với những gì thuộc về nhân cách con người cả trên bình diện đạo đức lẫn bình diện văn hoá. Sống đúng, sống tốt và sống đẹp giữa mọi người, không phải vì mình mà vì người khác, coi lối sống, cách sống đó như một nhu cầu, một sự thoả mãn đạo đức và văn hoá làm người - đó là thước đo giá trị nhân cách trong lối sống. Người mang lối sống ấy sẽ biểu hiện nhân cách của mình bằng cách làm việc hết mình, tận tuy thực hiện bổn phận, nghĩa vụ, nhất quán giữa lời nói là việc làm - những cái mà ta thường nói, sống có tâm, có tình, có nghĩa. Với cái tâm đó, người ta mới biết đem cái tài ra để giúp ích cho đời, cho người. Vị tha là nét cao quý, đáng nể trọng của đạo làm người. Không nhân ái thì không thể vị tha được. Cũng như vậy, không có lòng vị tha thì không thể khiêm nhường, thành thật, bao dung, độ lượng với người và nghiêm khắc với mình được. Phải có những phẩm chất ấy, con người ta mới có thể đem vào trong nếp sống hàng ngày của mình những biểu hiện của sự quan tâm, ân cần, chu đáo với người khác, tính cẩn thận, nề nếp, tận tâm, tận lực trong mọi công việc lớn, nhỏ vì người khác. Đó là sự hy sinh, sự quên mình, chỉ với một tình cảm thiết tha được sống vì người khác, được góp phần nhỏ bé của mình vào sự lớn rộng thêm những niềm vui và hạnh phúc cho người khác, làm vợi đi những khó khăn, vất vả làm dịu đi những nỗi buồn, những đau khổ của người khác, cũng như làm được ngày một nhiều hơn những điều, những việc hữu ích cho cuộc đời.

Là sự cụ thể hoá lối sống, củng cố sự bền vững những giá trị và chuẩn mực của văn hoá lối sống, nếp sống thường ngày của mỗi cá nhân như những chỉ báo xác thực để đo lường mức độ trưởng thành cũng như xu hướng phát triển nhân cách của cá nhân đó. Với những biểu hiện của nếp sống, con người tự bộc lộ mình là người như thế nào, là một nhân cách như thế nào. Qua nếp sống của một con người cụ thể, có thể đánh giá được người ấy đã tự giáo dục mình đến đâu, đã chuyển hoá học vấn thành văn hoá nhân cách của mình đến mức nào.

Từ những điều trình bày trên đây, cần nhấn mạnh rằng, nhân cách và văn hoá, nhân cách liên quan trên toàn bộ chất lượng phát triển con người ảnh hưởng và có sức chi phối sâu xa đến cuộc sống của con người với sự toàn vẹn của chỉnh thể cá nhân, cá thể của nó cũng như sự tác động qua lại giữa nó với những cá nhân, cá thể khác với cộng đồng xã hội mà nó là một phần tử hợp thành, không thể tách rời.

4. Con người mang một bản chất xã hội nhất định; bản chất ấy có cơ sở vật chất - sinh học của nó, bởi con người trước hết là một thực thể sinh vật. Nhân cách của nó không tách rời mà trái lại gắn liền với những cội rễ của di truyền sinh vật mà nó thừa hưởng từ những thế hệ trước để lại. Song, trong sự hình thành bản chất xã hội của từng cá thể, cá nhân thì tính ưu trội và vai trò quyết định lại thuộc về cơ sở xã hội - lịch sử và văn hoá, thuộc về thực thể xã hội. Con người mang bản chất xã hội và hình thành nhân cách của mình tư sự tổng hoà các quan hệ xã hội, từ hoàn cảnh xã hội mà trong đó nó tồn tại, nó thực hiện hoạt động sống của mình. Mác đã vạch ra những luận đề nổi tiếng về những đặc trưng xã hội và qui luật xã hội tác động tới sự hình thành bản chất người, nhân cách người. Đó là:

  • Nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì vấn đề là ở chỗ, phải tạo ra hoàn cảnh có tính người. Đó là nhân tính, là những sức mạnh [lực lượng] bản chất người của con người. Đó là con đường phát triển theo xu hướng nhân đạo hoá hoàn cảnh để hình thành nên nhân cách người.
  • Hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực mà con người tác động cải biến trở lại đối với hoàn cảnh. Con vật là một tồn tại bản năng trong khi con người là một thực thể xã hội có hoạt động sống sáng tạo dựa trên tiền đề tồn tại.
  • Sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ, những quan hệ xã hội của nó. Con người trở thành thực thể và chủ thể xã hội bằng hoạt động của nó từ cá thể đến loài, từ bản chất loài, tộc loại tiến đến bản chất xã hội. Đó là cả lịch sử của nó - lịch sử sáng tạo ra một tự nhiên thứ hai như là sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật của chính mình. Con người sáng tạo ra xã hội con người theo qui luật của cái đẹp. Đó là cái đẹp của văn hoá, của nhân tính.

Điều đó chứng tỏ rằng, con người sáng tạo ra văn hoá và văn hoá sáng tạo ra con người ở phương diện làm cho con người hoàn thiện, con người mang nhân cách văn hoá mà trong hình thái lý tưởng của nó là sự hài hoà Chân - Thiện - Mỹ. Đây là một tổng hoà các giá trị Nhân bản [thuộc phạm trù khoa học], Nhân đạo [thuộc phạm trù đạo đức] và Nhân văn [thuộc phạm trù văn hoá]. Văn hoá thống nhất trong bản thân nó khoa học và đạo đức.. Nhân văn bao hàm trong nó những giá trị nhân bản và nhân đạo. Đạt đến trình độ phát triển nhân văn là đạt đến văn hoá, đạt đến nhưng thành quả sáng tạo của con người và loài người nhằm thoát mỹ hoá hiện thực.

5. Nhân cách là toàn bộ các giá trị mà con người đạt được trong sự trưởng thành xã hội của nó. Những giá trị đó gắn liền với những chức năng và vị thế của con người trong các quan hệ xã hội mà nó biểu hiện ra bằng hoạt động, với tất cả sự phong phú và toàn vẹn của đời sống cá nhân trong môi trường xã hội, trong sự phát triển của cá nhân và xã hội.

Đạo đức cũng như năng lực là những thành phần chủ yếu của cấu trúc nhân cách, nhưng chỉ riêng đạo đức hay năng lực không đủ để xác định một nhân cách. Nói đạo đức là yếu tố quan trọng hàng đầu là gốc, là cái quyết định của nhân cách không có nghĩa là đồng nhất đạo đức với nhân cách, coi nhân cách chỉ là đạo đức. Cần phải khắc phục một quan niệm đơn giản khi lược quy nhân cách vào mặt duy nhất là đạo đức, cũng như đồng nhất học vấn với văn hoá như vẫn thường thấy khi đánh giá sự phát triển của cá nhân về mặt học vấn, học thức. Mặt khác, nếu tách rời đạo đức với năng lực, tuyệt đối hoá đạo đức mà xem nhẹ năng lực, hoặc cho rằng dường như những hạn chế, yếu kém, thiết hụt về năng lực có thể được bù trừ, châm chước bằng phẩm chất đạo đức, thì đó sẽ là một quan niệm không đúng về nhân cách. Ngược lại, đề cao năng lực đến mức coi năng lực là tất cả, chỉ cần rèn luyện năng lực để làm việc, còn đạo đức không có vai trò quyết định... thì quan niệm đó càng sai lệch nhiều hơn. Đó là những biểu hiện khác nhau của cách hiểu phiến diện, siêu hình về nhân cách.

Trên thực tế, đạo đức chi phối và quyết định năng lực, đồng thời đạo đức phải biểu hiện qua năng lực, ở tác dụng và hiệu quả của năng lực trong hoạt động.

Đạo đức và năng lực phải được hình dung cụ thể trong công việc và trong các quan hệ mà con người phải giải quyết và ứng xử hàng ngày, tức là trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Thông qua những công việc và quan hệ đó, con người tỏ rõ mình đã làm được những gì, đã sống như thế nào giữa những người khác, nhờ đó mà nhân cách cá nhân của nó được định bơm và cũng có thể tự đánh giá. Phải thông qua những đánh giá xã hội thì nhân cách cá nhân mới có tính hiện thực. Tính hiện thực đó biểu hiện ở ảnh hưởng và uy tín mà người này có được ở người khác, trong những người khác và ngược lại.

Mỗi cá nhân là một chủ thể mang nhân cách của mình, đồng thời là đối tượng; khách thể được đánh giá về nhân cách bởi một chả thể khác, bởi cộng đồng xã hội.

6. Nhân cách của mỗi cá nhân được hình thành trong các mối liên hệ xã hội, trong các quan hệ liên nhân cách. Điều đó được thể hiện trước tiên trong giao tiếp văn hoá.

Giao tiếp văn hoá để học cách sống, cách ứng xử văn hoá, tập luyện hành vi, thói quen tốt cho từng cá nhân theo những chuẩn mực và giá trị của văn hoá giao tiếp, văn hoá đối thoại, tranh luận, văn hoá ứng xử. Làm cho từng cá nhân nảy nở và phát triển nhu cầu văn hoá trên những phương diện đó chính là con đường giáo dục văn hoá nhân cách cho họ.

Cảm nhận một cách tinh tế yêu cầu lý, Nêru, nhà hoạt động văn hoá lỗi lạc Ấn Độ nhấn mạnh rằng, “Văn hoá chính là khả năng hiểu biết người khác và làm cho người khác hiểu mình”. Còn viện sĩ Lik- hachốp coi “Văn hoá là biết lắng nghe” và Xukhômlinxki, nhà giáo dục xô viết nổi tiếng, người đã dồn hết tâm huyết và tinh lực cả đời mình cho công việc giáo dục thế hệ trẻ, với tác phẩm vĩ đại “Giáo dục con người chân chính như thế nào?” lại đặc biệt chú ý tới phẩm chất làm người thông qua giáo dục văn hoá nhân cách. Ông quan niệm “Văn hoá chính là khả năng biết nhìn thấy người bên cạnh”.

Biết lắng nghe, ấy là sự khiêm nhường, là sự tôn trọng con người. Biết nhìn thấy người khác, ấy là sự ân cần, chu đáo, sự thông cảm, chia xẻ với những số phận con người - một biểu hiện cao quí của nhân tính. Mác đã từng nói: chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng tính. Mác đã từng nói: chỉ nói có súc vật mới quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng loại.

Tập luyện, gieo trồng, vun trồng nhân tính là gốc rễ bền bỉ nhất của văn hoá. Nhân tính đó, chính là chiều sâu của sự hiểu biết, sự đồng cảm của con người với con người. Đó cũng là nhu cầu văn hoá đạo đức của mỗi cá nhân trong lao động, hoạt động, trong gian tiếp, ứng xử với những người khác.

Những thuộc tính giá trị cộng đồng và cộng cảm ấy của văn hoá làm người, văn hoá nhân cách tỏ rõ rằng, nhân cách con người không bao giờ độc lập, biệt lập trong cái trạng thái cô đơn, ốc đảo khép kín ở một cá thế. Nó là sự giao hoà giữa nhân cách của nó với những nhân cách ngoài nó, của những con người, những cuộc đời và của cả cộng đồng xã hội nói chung. Nhân cách là một quan hệ liên nhân cách chính là vì thế.

Sự phối hợp đồng bộ các lực lượng giáo dục cũng như sự thống nhất giữa mục tiêu và phương pháp giáo dục trở nên hết sức cần thiết. Nó tạo ra những tác động tích cực cùng chiều tới sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Muốn vậy, phải khai thác tối đa sức mạnh của giáo đục truyền, thống lịch sử dân tộc, truyền thống cách mạng; kết hợp giáo dục khoa học để rèn luyện phương pháp tư duy sáng tạo và phát triển trí tuệ với giáo dục đạo đức và trau dồi sự tinh tế trong cảm thụ nghệ thuật, nâng cao khiếu thẩm mỹ để làm phong phú thế giới tinh thần của họ. Đó là những lực đẩy cần thiết giúp con người phát triển và hoàn thiện nhân cách. Nó còn cần thiết để thức tỉnh những người đã bị lệch lạc về nhân cách, thậm chí đánh mất nhân cách của mình mà trong hoàn cảnh và ở thời điểm nào đó, họ có thể hoàn lương và hướng thiện.

Vấn đề nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi nhất, là chỗ sâu sắc và tinh tế nhất của triết lý giáo dục.

Hoàng Chí Bảo
Phó giáo sư, tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh-Tạp chí Triết học

T.L.H

Video liên quan

Chủ Đề