Nguồn nhân lực có ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng giáo dục của nhà trường

Ngày 16/9, Hội nghị cấp Bộ trưởng Lao động và Giáo dục ASEAN về Phát triển nguồn nhân lực cho thế giới công việc đang đổi thay do Việt Nam đăng cai tổ chức đã diễn ra theo hình thức trực tuyến kết hợp trực tiếp.

Tham gia Hội nghị trực tuyến có 150 đại biểu từ 70 điểm cầu. Về phía Việt Nam, Hội nghị có sự tham dự trực tiếp của 150 đại biểu bao gồm Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Bộ LĐ-TBXH, Bộ trưởng Bộ GDĐT cùng đại diện nhiều bộ, ngành, tổ chức trong nước và nước ngoài.

Toàn cảnh Hội nghị tại điểm cầu Hà Nội. Ảnh: Cổng Thông tin Điện tử Bộ LĐ-TBXH 

Phát triển lực lượng lao động chất lượng cao

Phát biểu tại lễ khai mạc, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh, thách thức lớn nhất mà ASEAN phải đối mặt hiện nay là làm thế nào để phát triển lực lượng lao động chất lượng cao trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ, với những ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế, thị trường việc làm và những yêu cầu về kĩ năng thiết yếu.

Bộ trưởng GDĐT đánh giá, thành công của một nền giáo dục không chỉ đơn thuần là tỷ lệ sinh viên, học viên tốt nghiệp, khả năng tìm kiếm việc làm của người học hay vị trí trên bảng xếp hạng quốc tế, mà còn là sự phát triển bền vững và lâu dài, khả năng sẵn sàng chấp nhận rủi ro, năng lực đổi mới và sáng tạo của người lao động.

Do đó, theo ông Nhạ, để chuẩn bị cho nguồn nhân lực trong bối cảnh toàn cầu hoá, việc quan trọng là nâng cao chất lượng giáo dục tại mỗi quốc gia. Trong thập kỉ vừa qua, khối ASEAN nói chung đã có bước tiến đáng kể trong các chỉ số tiến bộ xã hội, đặc biệt là về giáo dục cơ bản. Chính phủ các nước thành viên cũng thể hiện quyết tâm và ủng hộ đối với hội nhập quốc tế giáo dục đại học.

Mặt khác, đầu tư phát triển nguồn nhân lực không chỉ là đào tạo mới và đào tạo lại mà còn là công nhận và tận dụng nhân lực có trình độ đã qua đào tạo. Cộng đồng kinh tế ASEAN đã thống nhất ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau về lao động kỹ năng ở tất cả các trình độ.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: Cổng Thông tin Điện tử Bộ GDĐT 

Cũng theo Bộ trưởng GDĐT, mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á được thành lập vào năm 1995 cho tới nay đã phát triển bao gồm 30 trường đại học thành viên chính thức thuộc 10 nước, trong đó có 3 trường đại học của Việt Nam. Đây là một dấu mốc lớn trong công nhận một cách công bằng về chất lượng lao động giữa các quốc gia trong nội khối ASEAN.

Đặc biệt, khung tham chiếu trình độ ASEAN được thông qua năm 2014 là một nỗ lực chung của các nước thành viên tạo ra một nền tảng để so sánh, đối chiếu các văn bằng, trình độ. Khung tham chiếu này cũng sẽ hướng đến hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của học tập suốt đời ở các nước thành viên.

“Ý thức được tầm quan trọng đó, các cơ quan của Việt Nam, đặc biệt là Bộ GDĐT đã nỗ lực xây dựng Khung trình độ quốc gia Việt Nam. Trong quá trình đó, Việt Nam đã và đang học hỏi rất nhiều từ các nước thành viên của ASEAN và cũng đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tiễn cho các đối tác” - Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ chia sẻ.

Hướng đến hình thành một thế hệ công dân số

Tại phiên thảo luận trong khuôn khổ Hội nghị với chủ đề “các hệ thống giáo dục và đào tạo sẵn sàng cho tương lai để thúc đẩy các kỹ năng của thế kỷ 21”, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ khẳng định, năng lực số là không thể thiếu đối với mỗi học sinh. Do vậy việc rèn luyện kĩ năng số phải được triển khai từ sớm, ngay từ những cấp học đầu tiên ở các dạng thức đơn giản, phù hợp với lứa tuổi.

Cũng theo ông Nhạ, “Nhận thức được vấn đề này, ngành Giáo dục đã tập trung trang bị cho học sinh những kĩ năng về chuyển đổi số ở mọi cấp học, hướng đến hình thành một thế hệ công dân số. Trong đó, môn Ngoại ngữ và Tin học đã đưa vào giảng dạy ngay từ đầu cấp tiểu học”.

Liên hệ với quá trình chuyển đổi số ngay trong thời điểm dịch Covid-19 bùng phát, trường học phải tạm thời đóng cửa, Bộ trưởng GDĐT cho biết, với phương châm “tạm dừng đến trường, không ngừng việc học”, Bộ đã chỉ đạo và hướng dẫn nhà trường nhanh chóng chuyển sang tổ chức dạy học trực tuyến, những nơi khó khăn áp dụng dạy học trên truyền hình; đồng thời có hướng dẫn kiểm tra đánh giá, công nhận kết quả dạy học trực tuyến.

Theo đó, đã có hơn 80% nhà trường áp dụng dạy học và đánh giá trực tuyến ở các mức độ khác nhau, đảm bảo thực hiện kế hoạch năm học 2019-2020.

Nhân Hội nghị lần này, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đề nghị các Bộ trưởng Giáo dục ASEAN “chung tay xây dựng thống nhất bộ chuẩn kỹ năng nhân lực số trong khu vực, hướng đến một mặt bằng nhân lực số giữa các nước thành viên, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, sẵn sàng kết nối, chia sẻ, tham gia nền kinh tế số, xã hội số không chỉ ở mỗi quốc gia mà còn trong toàn bộ cộng đồng ASEAN”.

Minh Vy

Mục lục bài viết

  • 1. Chính sách về phát triển nguồn nhân lực
  • 2. Nguồn và chất lượng đầu vào của nguồn nhân lực
  • 3. Trình độ cơ sở vật chất và khả năng tài chính ở các cơ sở đào tạo
  • 4. Trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy và cán bộ quản lý
  • 5. Chất lượng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trình độ trang thiết bị kỹ thuật - công nghệ
  • 6. Thị trường lao động

Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực:

1. Chính sách về phát triển nguồn nhân lực

Các chủ trương, chính sách của chính phủ, quy định pháp luật và chính trị: các nhân tố chính phủ, pháp luật và chính trị tác động đến tổ chức cũng như công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực [NNL] theo các hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra cơ hội nhưng cũng có thể gây trở ngại, thậm chí là rủi ro thật sự cho tổ chức. Sự ổn định về chính trị, sự nhất quán về quan điểm chính sách sẽ tạo điều kiện cho công tác đào tạo và phát triển được thực hiện một cách suôn sẻ; nó cũng luôn là sự hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư mà đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không phải là ngoại lệ. Hệ thống pháp luật về việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được xây dựng và hoàn thiện cũng là điều kiện thuận lợi cho công tác này cũng như các tổ chức.

Qua đây, chúng ta nhận thấy các các nhà quản lý không chỉ quan tâm đến các yếu tố của con người mà cần chú ý đến các yếu tố quản lý để có những hướng điều chỉnh, phát triển hay duy trì và thay đổi chương trình đào tạo và phát triển cho người lao động nhằm đem lại hiệu quả và đồng thời tạo động lực cho cá nhân người lao động làm việc tốt hơn.

2. Nguồn và chất lượng đầu vào của nguồn nhân lực

Ở nước ta hiện nay, giáo dục phổ thông là nền tảng sẽ tạo ra nguyên liệu cho giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề trực tiếp tạo ra nguồn nhân lực. Giáo dục phổ thông có ảnh hưởng lớn đối với đào tạo nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng đầu vào, do đó ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.

3. Trình độ cơ sở vật chất và khả năng tài chính ở các cơ sở đào tạo

Cơ sở đào tạo nguồn nhân lực đều phải dựa trên những điều kiện cơ sở vật chất nhất định để cho các hoạt động giảng dạy trong các trường đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện được cần có sự hỗ trợ rất lớn về tài chính và những điều kiện vật chất. Ngoài nguồn lực tài chính dùng để trả lương cho đội ngũ cán bộ giảng dạy và quản lý trong các trường, còn cần một lượng không nhỏ để xây dựng mở mang trường lớp, các thiết bị văn phòng, máy tính, dụng cụ vật tư kỹ thuật cho thí nghiệm thực hành, các thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy có chất lượng cao, giáo trình và tài liệu cho sinh viên học và tham khảo. Thực tế đã chứng minh để đáp ứng yêu cầu nhân lực kỹ thuật không thể thiếu điều kiện trang thiết bị và xưởng thực hành. Không có các điều kiện trên việc tiếp xúc với trang thiết bị trở nên xa lạ, sinh viên không được làm quen với các thao tác nghề, những kiến thức lý thuyết thu nhận được sẽ mai một dần theo năm tháng, kỹ năng của người thợ không được hình thành. Hơn nữa, nếu không có nguồn tài chính để bổ sung các thiết bị hiện đại cho sinh viên thực hành sẽ không đáp ứng khoa học công nghệ hiện nay và cũng không thể đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực theo hướng kinh tế tri thức.

4. Trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy và cán bộ quản lý

Các mục tiêu của giáo dục đào tạo sẽ không thực hiện được nếu không có đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ mạnh. Chất lượng của đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm giáo dục đào tạo, mặc dù lấy người học làm trung tâm của đào tạo. Mọi sự bất cập về số lượng, chất lượng, trách nhiệm của người thầy so với yêu cầu đào tạo đều có ảnh hưởng đến kết quả đào tạo. Đối với sinh viên, tấm gương về đạo đức, nhân cách, tài năng của người thầy có tác dụng rất lớn đối với việc hình thành nhân cách, tài năng của họ. Muốn có trò giỏi [nguồn nhân lực có chất lượng] ắt phải có thầy giỏi, bởi trong thực tế người thầy không thể cho học sinh của mình cái mà mình chưa có được. Trình độ chuyên môn của thầy yếu dẫn tới việc truyền tải tri thức và tay nghề cho sinh viên không đầy đủ, thậm chí còn sai lệch, học sinh thông minh nhưng không có thầy giỏi dẫn dắt thì sự thông minh ấy không thể trở thành nhân tài được. Vì vậy phải xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đồng thời phải chú trọng việc nâng cao trình độ giáo viên trong các trường, tạo điều kiện cho họ được cập nhật với các tri thức khoa học hiện đại và phát triển đội ngũ giáo viên tài năng. Trong các nhà trường để hoạt động đào tạo đạt được kết quả, ngoài đội ngũ cán bộ giảng dạy không thể thiếu đội ngũ cán bộ quản lý với năng lực, trình độ, trách nhiệm cao trong bộ máy quản lý hành chính. Thực tế cho ta thấy mọi hoạt động trong nhà trường cần được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất. Vì vậy cần phải có hệ thống quản lý từ Ban giám hiệu đến các phòng, ban chức năng để thực hiện các công việc từ quản lý con người đến quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục rèn luyện ý thức đạo đức cho sinh viên, cũng như hoạt động giảng dạy, hoạt động phục vụ cho giảng dạy, hoạch toán thu chi, mua sắm và vận hành, bảo quản các trang thiết bị, cơ sở vật chất… Một bộ phận nào đó trong hệ thống trên bị trục trặc hay suy yếu đều ảnh hưởng và gây ách tắc tới hoạt động của các bộ phận khác, do đó ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng đào tạo và tăng chi phí đào tạo nguồn nhân lực. Nhưng việc thực hiện tốt các hoạt động trong hệ thống trên lại phụ thuộc vào trình độ năng lực và ý thức trách nhiệm của chính những con người được quyền phân công và sử dụng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Cho nên phải có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực trình độ phù hợp với công việc và ý thức trách nhiệm cao.

5. Chất lượng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trình độ trang thiết bị kỹ thuật - công nghệ

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đào tạo nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thực hiện quy hoạch phát triển trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn cho thu hút lao động, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân bố lao động. Việc xây dựng những công trình kinh tế lớn của quốc gia, mở mang và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các khu kinh tế với những mô hình thích hợp ở các vùng chậm phát triển, tăng cường các hoạt động đầu tư nước ngoài và liên doanh liên kết rộng với các cơ sở kinh tế địa phương… đều tạo khả năng thu hút nguồn lao động lớn và đặt ra yêu cầu lớn về đào tạo nguồn nhân lực. Chiến lược phát triển KT-XH thời kỳ 2001-2010 của nước ta yêu cầu chú trọng đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế tạo, xây dựng một số ngành công nghệ kỹ thuật cao, nâng cao từng bước trình độ công nghệ trong mọi ngành sản xuất, phát triển công nghiệp nhỏ và dịch vụ nông thôn theo hướng văn minh hiện đại, nâng chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá để tăng sức cạnh tranh, phát triển đa dạng thương mại dịch vụ, phát triển du lịch sớm trở thành mũi nhọn…

Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các ngành kinh tế, cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, các trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng ngày càng thay đổi theo hướng hiện đại, do đó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực phù hợp để trước hết có thể sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hiện có để nâng cao hiệu quả đầu tư sau đó là sự tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng tạo các thiết bị công nghệ mới. Thực tế cho thấy đầu tư xây dựng cơ bản tăng nhưng thiếu người lao động và thiếu sự đồng bộ giữa trình độ công cụ lao động với trình độ chuyên môn của người lao động thì hiệu quả lao động không cao, gây lãng phí vốn đầu tư trong xã hội. Tính đồng bộ giữa trình độ công nghệ cao với trình độ kỹ thuật và công nhân lành nghề đòi hỏi hoạt động đào tạo phải đáp ứng đủ và đúng chuyên môn, ngành nghề, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để có thể làm chủ các công nghệ mới. Trong xu thế hội nhập hiện nay, muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải tổ chức đào tạo nguồn nhân lực tốt hơn; đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập trong khi trình độ chuyên môn người lao động trong nước còn non yếu. Nếu thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề thì không thể ứng dụng được công nghệ mới, do đó phải đào tạo nguồn nhân lực. Việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng mà còn phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho việc sắp xếp, phân công đó phải đảm bảo sự hợp lý, đúng người đúng việc như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy “Xem người ấy xứng với việc gì, nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc” .

6. Thị trường lao động

Việc hình thành và quản lý tốt thị trường lao động hiện nay có vai trò quan trọng đối với đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Nó cung cấp thông tin cho đào tạo nguồn nhân lực để có thể cung ứng nhu cầu nhân lực cả về quy mô, cơ cấu, đồng thời thông qua thị trường lao động, các cơ quan đơn vị kinh tế có điều kiện để tuyển chọn lao động theo yêu cầu của mình. Thông qua thị trường lao động, người lao động tìm được công việc phù hợp với trình độ chuyên môn và sở trường của mình. Do đó cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực;

Cơ chế chính sách tuyển dụng nguồn nhân lực: đây là yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả đào tạo và khai thác, sử dụng nguồn nhân lực. Trong cơ chế cũ Nhà nước chủ trương kế hoạch hoá từ việc đào tạo nguồn nhân lực, tuyển dụng, sử dụng cho đến khi thôi việc. Việc thực hiện kéo dài chính sách này đã làm nảy sinh những hiện tượng không tích cực như đào tạo và sử dụng không ăn khớp, dư thừa lao động trình độ đại học, thiếu công nhân lành nghề, triệt tiêu động không kích thích người lao động làm việc có hiệu quả, không khuyến khích nâng cao trình độ tay nghề, chạy theo số lượng trong tuyển dụng lao động mà không chú trọng đến hiệu quả. Quan điểm sử dụng hết nguồn lao động xã hội đã dẫn tới tình trạng tuyển dụng ồ ạt làm cho bộ máy làm việc trở nên cồng kềnh, kém hiệu lực.Với việc tuyển dụng lao động theo cơ chế thị trường, người lao động nào đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng thì người đó có việc làm. Cơ chế này đã tạo điều kiện cho người lao động có thể nhận được công việc phù hợp với trình độ năng lực của mình nên hiệu quả lao động cao, đồng thời thông qua việc được nhận thù lao lao động tương xứng với trình độ năng lực, người lao động có ý thức cao hơn trong việc học tập, rèn luyện nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp và do đó lại làm cho kết quả đào tạo nguồn nhân lực được nâng cao hơn nữa về chất.

Để biết thêm thông tin chi tiết, bạn vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn trực tiếp. Luật sư tư vấn pháp luật lao động trực tiếp qua điện thoại gọi1900.6162.Trân trọng cảm ơn!

Video liên quan

Chủ Đề