Phân tích lời de từ Người lái đò sông Đà

Trọn bộ câu hỏi ôn tập về bài Người lái đò sông Đà Ngữ văn lớp 12 chọn lọc, cực hay. Với bộ câu hỏi bài Người lái đò sông Đà này, học sinh sẽ ôn tập, nắm vững kiến thức môn Ngữ văn 12 để đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn 12.

Câu hỏi: Ý nghĩa lời đề từ của Người lái đò Sông Đà?

Trả lời:

Ý nghĩa lời đề từ của Người lái đò Sông Đà:

– Nguyễn Tuân đã lấy hai lời đề từ của hai nhà văn thuộc hai đất nước khác nhau:

+ Đầu tiên là câu thơ của nhà văn cách mạng người Ba Lan: Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông viết về hình ảnh của đất nước mình đầy thơ mộng trữ tình.

+ Lời đề từ thứ hai của nhà văn Nguyễn Quang Bích viết về dòng sông Đà: Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu nghĩa là mọi con sông đều chảy về hướng Đông, còn riêng sông đà lại chảy về hướng Bắc. hung bạo và có tính cách mới mẻ.

– Tác giả hướng người đọc đến đối tượng trung tâm của tùy bút – sông Đà và thể hiện phần nào vẻ đẹp riêng biệt, không trùng lặp với bất cứ con sông nào.

⇒ Như vậy, từ hai lời đề từ đã gợi ra cảm hứng chủ đạo cho toàn bài tùy bút. Sự kết hợp ấy nói lên một con sông Đà đầy hung bạo, mạnh mẽ nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình.

Trọn bộ câu hỏi ôn tập về bài Người lái đò sông Đà Ngữ văn lớp 12 chọn lọc, cực hay. Với bộ câu hỏi bài Người lái đò sông Đà này, học sinh sẽ ôn tập, nắm vững kiến thức môn Ngữ văn 12 để đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn 12.

Câu hỏi: Ý nghĩa lời đề từ của Người lái đò Sông Đà?

Trả lời:

Ý nghĩa lời đề từ của Người lái đò Sông Đà:

- Nguyễn Tuân đã lấy hai lời đề từ của hai nhà văn thuộc hai đất nước khác nhau:

+ Đầu tiên là câu thơ của nhà văn cách mạng người Ba Lan: Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông viết về hình ảnh của đất nước mình đầy thơ mộng trữ tình.

+ Lời đề từ thứ hai của nhà văn Nguyễn Quang Bích viết về dòng sông Đà: Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu nghĩa là mọi con sông đều chảy về hướng Đông, còn riêng sông đà lại chảy về hướng Bắc. hung bạo và có tính cách mới mẻ.

- Tác giả hướng người đọc đến đối tượng trung tâm của tùy bút – sông Đà và thể hiện phần nào vẻ đẹp riêng biệt, không trùng lặp với bất cứ con sông nào.

⇒ Như vậy, từ hai lời đề từ đã gợi ra cảm hứng chủ đạo cho toàn bài tùy bút. Sự kết hợp ấy nói lên một con sông Đà đầy hung bạo, mạnh mẽ nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình.

Dưới đây là bài làm chúng thủy giai đông tẩu đà giang độc bắc lưu mới nhất được tổng hợp với wikisecret cho các bạn tham khảo hãy theo dõi ngay bên dưới nhé

Mở đầu tùy bút “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân đã giới thiệu với người đọc đặc điểm con sông bằng hai lời đề từ:

“Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”

[Wladyslan Bronlewski]

“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”

Hãy giải thích ý nghĩa của lời đề từ và làm sáng tỏ qua hình tượng sông Đà.

Đề bài: Ý Nghĩa Lời Đề Từ Người Lái Đò Sông Đà Của Nguyễn Tuân

“Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” – [Wladyslan Bronlewski]

“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”

Bài làm

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hòa những con tài

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”

Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng trên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây dựng lại những miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng, đến với nhân dân. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mạng lại những “Tờ hoa” thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà” – thành quả từ chuyến đi thực tế gian khổ mà đầy hứng thú lên Tây Bắc của người nghệ sĩ. Và chuyến đi ấy không chỉ nhằm mục đích thỏa mãn khát khao “xê dịch” của Nguyễn Tuân, mà còn giúp nhà văn tìm hiểu được “thứ càng trắng” nơ núi rừng Tây Bắc. Đó là con sông Đà hùng vĩ thơ mộng đã nhiều lần đi vào trong thơ ca, khơi gợi biết bao nguồn cảm hứng cho các nhà nghệ sĩ như: Tản Đà, Nguyễn Quang Bích,…

Vẻ đẹp của Đà giang như đã được Nguyễn Tuân khái quát gọn gang qua hai lời đề từ mở đầu tác phẩm. Đầu tiên đó là lời của nhà thơ Ba Lan Bronlewski:

“Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”

Bản thân của câu thơ mang cấu trúc của một lời cảm thán đã cho ta thấy được cảm xúc trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà thơ. và đến lượt Nguyễn Tuân, ông đã mượn chính câu thơ tràn đầy xúc cảm ấy để nói về vẻ đẹp của dòng sông gói trọn trong đó trạng thái cảm xúc của nhà thơ Việt Nam. Âm thanh “tiếng hát trên dòng sông” như khơi gợi tâm hồn người đọc để mở ra vô vàn những nét nghĩa khác nhau. Tiếng hát ấy phải chăng là tiếng của những người dân sống xung quanh, gắn bó với dòng sông hay tiếng hát ấy còn là tiếng lòng đang rạo rực, say mê của chính người nghệ sĩ. Nhưng có lẽ, sẽ còn đẹp hơn nữa khi tiếng hát ấy lại chính là tiếng của dòng sông Đà, ta nghe đâu đây như có tiếng róc rách của nước chảy, hay tiếng gió vi vu thổi mặt nước trên dòng sông, Đà giang qua câu thơ như trở nên biết bao kiều diễm,biết bao thơ mộng. Và đó cũng chính là nét vẽ đầu tiên của Nguyễn Tuân về con sông Đà rất đỗi trữ tình này. Nhưng cây độc huyền cầm Nguyễn Tuân làm sao được người đời nhớ mãi là một nhà văn độc đáo, tài hoa nếu chỉ dừng lại ở điểm rất giống các nhà thơ trước đó. Bởi vậy, Nguyễn Tuân còn cảm nhận Sông Đà ở một phương diện khác nữa, vô cùng ấn tượng:

“Chúng giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”

Tạm dịch: “Mọi dòng sông đều chảy về phía Đông, duy chỉ có Sông Đà chảy theo hướng Bắc”. Câu thơ tương đối hiển ngôn giúp cho chúng ta ngay lần đầu tiên đọc tới có thể phần nào hiểu được sự độc đáo của dòng sông. Với một hướng đi khác, không giống với bất kì con sông nào, Nguyễn Tuân đã hé mở cho chúng ta một nét chưa biết về Đà giang. Đó là một dòng sông có cả tính mạnh mẽ, khác biệt hay dùng từ của chính Nguyễn Tuân là dòng sông Đà hung bạo. Như vậy với tùy bút “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân đã dành tới hai lời đề từ tựa như bức gấm thêu để dệt lên ở đó mỗ bức một nét đẹp của Đà giang. Một con sông vừa mang một nội lực mãnh liệt, vừa mang một vẻ đẹp nên thơ, một dòng sông vừa hung bạo mà cũng rất đỗi trữ tình. Hình tượng Sông Đà chính là một điển hình cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân luôn khám phá thiên nhiên dưới cái nhìn của chủ nghĩa xê dịch đẩy mạnh mẽ và vô cùng cuốn hút người đọc.

Nét vẽ đầu tiên về sông Đà đó chính là vẻ đệp cá tính của dòng sông. Để khắc họa sự hung bạo của dòng sông, nhà văn đã chọn được những chi tiết thật đắt, thật ấn tượng để miêu tả. và ta hãy cùng theo chân Nguyễn Tuân để đến với ấn tượng đầu tiên đó là cảnh đá hai bên bờ sông “dựng vách thành”. Ấn tượng trực đến mắt người đọc đó chính là hình ảnh ẩn dụ “vách thành”. Ta vẫn thường nhắc đến “thành” như một khối kiến trúc quân sự vô cùng kiên cố: “thành cao hào sâu”. Hình ảnh ẩn dụ như khiến vách thành dá ở hai bên bờ sông Đà như vững chãi, như cao và bó ẩn hơn bao gườ hết. Nhà văn mới thật tài tình làm sao khi có những liên tưởng thật độc đáo, kiến trúc của công trình mĩ thuật tự nhiên ấy cũng đúng như là sự sắp đặt với vách đá thì như thành cao, với dòng nước phía dưới thì như hào sâu hun hút, thăm thẳm. Và còn tài tình hơn khi Nguyễn Tuân viết một số câu văn có vẻ như bang quơ, ngẫu nhiên: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời”. “Đứng bên này nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”, “có quãng con nai con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia” lại mang sức biểu đạt hiệu quả vô cùng. Đúng ngọ là giữa trưa khi mặt trời lên cao và chiếu những tia nắng vuông góc xuống mặt đất. Và phải chăng, vách đá cao sừng sững đến độ nắng không thể chiếu xiên ngang mà chỉ có thể hắt xuống từng giọt nắng hiếm hoi xuống lòng sông khi đúng ngọ.

Và quả thực, những hình ảnh dường như ngẫu nhiên như “mặt trời hay hành động nhẹ tau ném hòn đá, con nai, con hổ,” lại nằm trong dụng ý của tác giả, để gián tiếp miêu tả tài tình độ cao và hẹp của vách đá hai bên bờ sông, tạo nên không gian như lạnh hơn như tăm tối hơn gợi ta nhớ tới những câu thơ của Đỗ Phủ: “Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm”. Độ hẹp của lòng sông tiếp tục được nhà văn miêu tả trong một câu văn với động từ vô cùng biểu cảm. “Có vách đá thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu”, lòng sông Đà được so sánh như “cái yết hầu” gợi liên tưởng cảm nhận qua chính xúc giác của người đọc. Vách đá thành sừng sững, uy nghiêm “chẹt” từ hai bên của lòng sông hẹp tới mức như nghẹt thở, ngột ngạt là sao. Và chính độ hẹp ấy đã khiến cho lưu tốc của dòng sông thật khỏe, nhanh, xiết và tạo nên những đoạn ghềnh sông vô cùng dữ dằn. “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Mặt ghềnh hiện lên là sự hợp sức chặt chẽ của đầy đủ những yếu tố thiên nhiên: nước, đá, sóng, gió. Điều đặc biệt là cả dốn danh từ đều là thanh trắc cùng với lối điệp cấu trúc, điệp từ nối các vế đã cộng hưởng tạo nên trước mắt người đọc là cả một quãng ghềnh đầy nguy hiểm. nhưng con sóng như chồm lên nhau nối tiếp mà trải dài mãi, không chỉ vậy, âm hưởng của thanh sắc như khiến chúng ta còn vút lên cao hơn và thỏa sức tung hoành chức năng câu văn như dồn lại vào điệp từ cố định “xô” nghĩa mỗi câu. Động từ mạnh đã lột tả được sức nước, sức gió mạnh mẽ và mãnh liệt đến tận cùng để cho người nghệ sĩ nảy lên một phép so sánh vô cùng độc đáo: “cuồn cuộn, luồng gió gùn ghề” cùng biện pháp so sánh nhân cách hóa như “đòi nợ xuýt” hay đây chính là sự lì lợm, thách đố, hàm ẩn sự đe dọa của sức mạnh đến vô lý của dòng sông Đà. Sức mạnh ấy trở nên vĩnh hằng khôn nguôi khi Nguyễn Tuân viết nên Người lái đò Sông Đà.

Video liên quan

Chủ Đề