So sánh các nền văn minh có nguồn gốc phương Đông với phương Tây

Nói đến sự tiếp xúc giữa phương Đông và phương Tây, người ta thường nói đến sự đụng độ giữa các nền văn minh, hoặc dẫn ra câu nói của nhà văn Anh R. Kipling - người được giải Nobel về văn học năm 1907: "Phương Đông là phương Đông, phương Tây là phương Tây và hai bên sẽ chẳng thể bao giờ gặp nhau".

Thật ra xuất xứ của câu nói trên là câu đầu của khổ thơ trong bài thơ "Khúc ca Đông - Tây" được Kipling sáng tác năm 1889. Kipling sinh ra và lớn lên ở Ấn Độ, am hiểu văn hóa phương Đông, đặc biệt là văn hóa Ấn. Câu thơ trên chỉ là ước lệ. Vấn đề lớn mà tác giả muốn nói là sự gặp gỡ, thân thiện giữa các nền văn hóa, ảnh hưởng và bổ sung cho nhau. Lại nữa, nếu học tập, tiếp nhận của Người thì cũng có sự chọn lọc các giá trị phù hợp với truyền thống, tình cảm, tính cách của Ta, không sao chép, không đánh mất bản sắc, cốt cách của mình. Người xưa nói: "Tri kỷ, tri bi, bách chiến bất đãi" [có nghĩa khái quát: Biết mình, biết thời vận, trăm trận không chùn bước]. Thật ứng nghiệm với thời đại nhiều thách thức hôm nay. Nghĩ như vậy, chí ít là trong lĩnh vực văn hóa chúng ta đã đến sát biên giới của toàn cầu hóa.

Vậy giữa phương Đông và phương Tây có gì khác nhau: Qua nhiều tài liệu mà chúng tôi đã thống kê được có thể khái quát như sau về mặt văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng nhất:

- Phương Đông nghiêng về tư duy tổng hợp, trực giác, hướng nội, làm chủ bản thân; phương Tây vốn tư duy độc lập, phân tích, lý tính, làm chủ thiên nhiên.

- Phương Đông suy tưởng bằng trực giác, văn minh nông nghiệp là cơ sở chủ đạo của tư duy, tôn vinh siêu nhiên; phương Tây lấy con người, nguồn lực con người, chinh phục thiên nhiên làm chủ đạo cho các hành vi của mình.

- Về đạo đức, luân lý, phương Đông lấy đẳng cấp tôn ti trật tự làm cơ sở ứng xử: quân, sư, phụ, tứ đức, tam tòng; phương Tây là bình đẳng, đồng đẳng.

- Về tôn giáo, tín ngưỡng: phương Đông nghiêng về duy linh, duy cảm, tôn trọng truyền thống, tôn giáo như đạo phật là nhất quán, thông suốt; phương Tây là duy vật, là biện chứng, tồn tại các yếu tố phản biện trong các học thuyết ra đời sau; đạo cơ đốc luôn luôn thay đổi, cải cách, thậm chí ly giáo.

Về mặt mỹ học và lý luận nghệ thuật, chúng ta cũng thấy có sự khác nhau và ít nhiều có sự tương đồng. Từ thời cổ đại, ở phương Đông, các triết gia Lão giáo như Lão Tử, Trang Tử đã nêu một số quan niệm về cảm thụ và sáng tạo cái Đẹp trong các điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Lão Tử cho rằng, cái Đẹp có thể nhận biết qua cảm tính cá nhân. Cái Đẹp ở đây là của Đạo. Người cảm thụ và sáng tạo phải biết kiềm chế những dục vọng cá nhân, giải thoát những ức chế bản năng. Trang Tử thì lập luận đầy mâu thuẫn, vừa nhận thức cái Đẹp bằng cảm tính, vừa phủ nhận tính chân lý của nhận thức ấy, coi nó chỉ là chủ quan và tương đối.

Về phương diện này thì ở phương Tây được kiến giải có hệ thống hơn. Có thể khái quát thành bốn quan niệm cơ bản về lý luận nghệ thuật để giải quyết các vấn đề của sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ.

Loại thứ nhất coi sáng tạo và cảm thụ cái Đẹp là lĩnh vực huyền bí gắn liền với Thần Thánh. Platon - trong tác phẩm "Ion" [427 - 347] trước công nguyên - cho rằng, cảm thụ và sáng tạo của nghệ sĩ chủ yếu dựa vào Thần hứng, Thần nhập sinh ra Thần lực. Ở đây không có tính người, vì nghệ sĩ là người phát ngôn cho Thần Thánh. Suốt hàng nghìn năm sau, các đồ đệ của Platon giải thích sáng tạo và cảm thụ cái Đẹp bằng giáo lý Thần học, bắt nguồn từ Chúa. Trong tác phẩm "Đại thành về thần học", Thomas D'aquin tuy có tìm thấy các giác quan khi bàn đến cái Đẹp, nhưng xuất phát từ Chúa Trời, nên ông không sao giải thích được nguồn gốc trần thế của mỹ cảm và sáng tạo cái Đẹp.

Loại thứ hai mà tiêu biểu là Hegel [1770 - 1831]. Theo Hegel, năng lực liên tưởng, sức tưởng tượng phản ánh hiện thực, đó là năng lực sáng tạo, cảm thụ đặc trưng của nghệ sĩ. Năng lực cảm quan nghệ sĩ không chỉ là thuộc tính của từng nghệ sĩ, mà còn là của một dân tộc: người Ý có thẩm âm rất tốt và năng khiếu âm nhạc vượt trội; người Hy Lạp có con mắt tuyệt vời tạo nên tài năng hàng đầu về điêu khắc và tạc tượng v.v…

Loại quan niệm thứ ba mà tiêu biểu là I.Kant coi cái sáng tạo và cảm thụ cái Đẹp bằng sự thích thú vô tư, là sự thỏa mãn về tinh thần chứ không phải là lý trí, chủ yếu dựa vào năng khiếu và thị hiếu. Sau Kant và trước Freud, các nhà triết học Shiller, Spencer đã phát triển sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ bắt nguồn từ sinh lực dư thừa của con người. Freud tiến xa hơn, coi sự thỏa mãn tình dục, dục vọng là động lực của sáng tạo nghệ thuật, là những khoái cảm nồng nhiệt lúc thăng hoa của vô thức và dục vọng [libido].

Loại quan niệm thứ tư giải thích sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ là sự tái hiện những hình ảnh của thế giới khách quan trong ý thức chủ quan của con người.

Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhiều quan niệm về sáng tạo nghệ thuật đã bị thời đại vượt qua, nhưng cũng có nhiều ý tưởng có thể phù hợp với tư duy, tâm trạng, tình cảm của nhiều nghệ sĩ thời đại chúng ta, cho dù là những hệ thống triết - mỹ đó bắt nguồn từ phương Đông hay phương Tây, từ nền văn minh Hy La hay nền văn minh cổ đại Ai Cập, Trung Hoa, Ấn Độ.

Sự gặp gỡ nhau giữa phương Đông và phương Tây là một sự thật lịch sử, có từ xa xưa. Chỉ riêng về nguồn lực con người, chúng ta cũng có thể dẫn ra những tổng kết khái quát của cổ nhân. Nếu ở phương Đông có: Thiên, Địa, Nhân thì ở phương Tây có: Con người, Trí tuệ, Đất [Man, Mind, Land]; nếu ở Việt Nam có phương châm Chân - Thiện - Mỹ thì ở Nhật Bản có một mô hình hình trụ mà đỉnh là Đức, đoạn giữa là Kinh tế, đáy là Thẩm mỹ v.v… Do đặc điểm của thời đại, đặc biệt là do thành tựu các ngành: Công nghệ sinh học, Công nghệ thông tin, Kinh tế trí thức, Công nghệ vật liệu… v.v… đang đi vào mọi lĩnh vực đời sống, nền văn học, nghệ thuật nước ta phát triển theo phương châm: dân tộc, khoa học, đại chúng, dân chủ, nhân văn. Hiện tượng đó cũng xảy ra với hầu hết các nước. Hàng ngày, hàng giờ, các sản phẩm văn học, nghệ thuật vừa tốt, vừa phế phẩm, độc hại như những đợt sóng ùa vào thị trường văn hóa các dân tộc. Bây giờ không thể chỉ "đóng cửa", chỉ sợ "gió độc" tràn vào. Toàn cầu hóa vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Cơ hội là học tập cái hay, cái đẹp của bên ngoài. Thách thức là tâm lý sùng ngoại, phục ngoại, sao chép của ngoại, làm mất bản chất, bản lĩnh dân tộc. Đây là một cuộc đấu tranh, cạnh tranh triền miên giữa ý thức, hành vi bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc với những dòng đục, yếu tố phi đạo lý, phi nhân tính, không phù hợp với tâm lý, thị hiếu, phong tục, trình độ mặt bằng dân trí của dân tộc ta, nhân dân ta

Hồ Sĩ Vịnh

Kể đến lịch sử phát triển của nhân loại thì không thể không kể đến sự hình thành và phát triển của hai nền quốc gia, đó là các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại Phương Tây.

Do vậy với nội dung bài viết dưới đây hãy cùng chúng tôi đi tìm hiểu về sự khác biệt giữa các quốc gia này thông qua việc So sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây.

Tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Đông

Các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời vào khoảng thế kỉ IV-III TCN, tồn tạ nhiều tàn dư của xã hội nguyên thủy trước đó, với trình độ sản xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ như đá, đồng… Tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Đông thì đều thấy có chung một điểm đó là các quốc gia này đều hình thành bên các lưu vực sông lớn, ví dụ như:

– Ai Cập hình thành bên lưu vực sông Nin;

– Ấn Độ hình thành bên lưu vực sông Hằng, sông Ấn;

– Trung Quốc hình thành bên lưu vực sông Hoàng Hà, sông Trường Giang

Chính vì sự thuận lợi này mà hầu hết các quốc gia cổ đại phương Đồng đều tập trung phát triển nông nghiệp, chăn nuôi.

Về quá trình hình thành nhà nước được bắt đầu từ quá trình liên kết thị tộc, liên minh bộ lạc xuất phát từ nhu cầu của việc trị thủy, tuy nhiên vẫn bảo lưu dai dẳng những tàn dư của xã hội nguyên thủy. Do vậy mà các quốc gia cổ đại Phương Đông là quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, mọi quyền lực đều được tập trung vào tay người đứng đầu đất nước là vui, là người sở hữu quyền lực tối cao, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và chỉ huy quân đội.

Xã hội của các quốc gia cổ đại Phương Đông được chia thành 3 tầng lớp chính đó là:

– Tầng lớp quý tộc, gồm có quý tộc tăng lữ và quý tộc quan lại

– Tầng lớp nông dân công xã chiếm trên 90% dân cư trong xã hội, đây được xác định là lực lượng sản xuất chính;

– Tầng lớp nô lệ, phục vụ trong các cung điện và quan lại giàu có, là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội.

Trong quá trình phát triển kinh tế thì các quốc gia cổ đại phương Đông tập trung phát triển chính là nông nghiệp, như thủ công nghiệp, chăn nuôi theo hình thức tự cung tự cấp. Việc này cũng nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi, mưa thuận gió hòa, lưu vực các dong sông lớn đem lại phù sa màu mỡ.

Loại hình chữ viết nào ra đời sớm nhất ở các quốc gia cổ đại phương Đông?

Sự ra đời của chữ viết là một trong những thành tựu nổi bật về văn hóa các quốc gia cổ đại phương Đông, bên cạnh thành tựu về lịch pháp thiên văn học, kiến trúc,…

Chữ viết ra đời do nhu cầu ghi chép và lưu trữ thông tin. Vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN, chữ viết đã xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng Hà.

Ban đầu là chữ tượng hình [hình vẽ những gì mà họ muốn nói], sau đó họ sáng tạo thêm những kí hiệu biểu hiện khái niệm trừu tượng. Sau này, người ta cách điệu hoá chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo quy ước để phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý. Chữ tượng ý chưa tách khỏi chữ tượng hình mà thường được ghép với một thanh để phản ánh tiếng nói, tiếng gọi có âm sắc, thanh điệu của con người.

Người Ai Cập viết trên giấy làm bằng vỏ cây papirút. Người Su-me ở Lưỡng Hà dùng một loại cây sậy vót nhọn làm bút viết lên trên những tấm đất sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô. Người Trung Quốc: lúc đầu khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau họ đã biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên lụa.

Tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Tây

Khác với các quốc gia cổ đại phương Đông, các quốc gia cổ đại phương Tây có sự ra đời khá là muộn vào thế kỉ I TCN, hình thành dựa trên cơ sở trình độ sản xuất cao với cong cụ chủ yếu là sắt.

Các quốc gia cổ đại phương Tây được hình thành chủ yếu ở khu vực vùng ven biển địa Trung hải, điều kiện đất đai khô cằn và rất khó cho hoạt động canh tác, phát triển nông nghiệp, nhưng lại thuận lợi cho quá trình phát triển hải cảng, thương nghiệp.

Về thể chế chính trị thì các quốc gia cổ đại phương Tây xây dựng theo nền dân chủ chủ nô hoặc công hòa quý tộc, đế chế. Xã hội chia ra làm 2 giai cấp chính đó là:

– Chủ nô, đây là những chủ xưởng, chủ buồn giàu có…nắm giữ nhiều của cải nên rất giàu có, cuộc sống sung túc và nắm trong tay nhiều quyền lực, họ bóc lột nô lệ rất nặng nề và sở hữu nhiều nô lệ

– Nô lệ, đây cũng là thành phần chiếm số đông trong xã hội, là lực lượng lao động chính nhưng lại không được hưởng bất cứ quyền lợi nào, chịu sự bóc lột nặng nề của chủ nô, hay còn được gọi là vật sở hữu của chủ nô

Về kinh tế thì do địa hình tư nhiên không mấy thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp nên chỉ tập trung vào phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp.

Ngoài giải đáp cho Qúy khách về các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây. Với nội dung tiếp theo của bài viết, chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp thêm cho Qúy khách về So sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây

So sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây

– Do hình thành trên lưu vực các con sông lớn nên các quốc gia này có điều kiện đồng bằng phù sa màu mỡ, tơi xốp, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp

– Nguồn nước vô cùng dồi dào, tạo điều kiện quan trọng trong việc cung cấp nước cho hoạt động sản xuất và nước dùng trong sinh hoạt, đồng thời cung cấp nước cho nguồn thủy sản, và đây cũng là đường giao thông quan trọng của đất nước

– Có đường bờ biển kéo dài, nhiều vũng vịnh sâu và kín gió, thuận lợi cho việc phát triển giao thông đường biển.

– Đất đai thích hợp để trồng các loại cây như nho, ôliu

Nền kinh tế nông nghiệp được chú trọng và rất phát triển , đồng thời gắn liền với công tác thủy lợi

– Nền kinh tế công thương, mậu dịch hàng hải phát triển, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.

– Ngành nông nghiệp chỉ được xác định là thứ yếu

Chế độ chuyên chế cổ đại hay nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền Bộ máy nhà nước 100% là quý tộc, đất nước mang tính dân chủ chủ nô hay cộng hòa quý tộc
Xã hội tồn tại hai giai cấp chính là:

– Giai cấp thống trị, gồm vua, quý tộc, quan lại

– Giai cấp bị trị, là nông dân, nô lệ, thợ thủ công…

Có hai giai cấp cơ bản và luôn tồn tại mối quan hệ đối kháng nhau là: Chủ nô và nô lệ
– Sáng tạo ra nông lịch;

– Chữ viết tượng hình, tượng ý;

– Phát minh và nghiên cứu ra toán học [số pi, diện tích hình tròn…]

– Kiến trúc nổi trội: Kim tự tháp [Ai Cập], thành Babilon [Lưỡng Hà]…

– Sáng tạo ra lịch;

– Hệ chữ cái Latinh;

– Số La Mã;

– Toán học với các định lý Pitago, Ta lét…

– Nghệ thuật: Tượng nữ thần Atena, đấu trường Roma…

Với nội dung bài viết phía trên, chúng tôi đã giải thích cho Quý khách về So sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây. Nếu còn gì thắc mắc về vấn đề này thì Qúy khách hãy liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ trực tiếp.

Video liên quan

Chủ Đề