So sánh nhân vật từ hải và lục vân tiên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ MAI HIỀN

NHÂN VẬT TỪ HẢI VÀ NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN NHÌN THEO QUAN ĐIỂM GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN - 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ MAI HIỀN

NHÂN VẬT TỪ HẢI VÀ NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN NHÌN THEO QUAN ĐIỂM GIỚI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS - TS. TRẦN NHO THÌN

THÁI NGUYÊN - 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn2

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012 Tác giả luận văn

Phạm Thị Mai Hiền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn3

LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Trần Nho Thìn - người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa sau đại học - Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên đã giảng dạy và giúp đã chúng tôi hoàn thành khóa học. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn BGH, các phòng ban Trường phổ thông Vùng cao Việt Bắc - TP Thái Nguyên đã tạo điểu kiện giúp tôi về mọi mặt trong suốt thời gian học tập và hoàn thành bản luận văn này. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012 Tác giả luận văn Phạm Thị Mai Hiền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn4

i

MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1 NỘI DUNG ................................................................................................... 9 Chương 1: LÝ LUẬN GIỚI VÀ VIỆC PHÂN TÍCH CÁC NHÂN VẬT NAM NHI – ANH HÙNG TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ......... 9 1.1 Những khái niệm về giới [gender] và giới tính [sex]............................. 9 1.2 Các kiểu nhân vật nam trong văn học trung đại Việt Nam .................. 14 1.2.1 Các nhân vật văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XV ........................ 16 1.2.2 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII.................. 24 1.2.3 Các nhân vật văn học từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX ... 27 1.2.4 Các nhân vật văn học cuối thế kỷ XIX: .......................................... 33 1.1 Tiểu kết .............................................................................................. 39 Chương 2: NHÂN VẬT TỪ HẢI TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU ............................................................................................. 41 2.1 Thân thế và thời đại Nguyễn Du ......................................................... 41 2.2 Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.......................... 44 2.2.1 Chân dung nhân vật Từ Hải......................................................... 44 2.2.2 Thái độ ứng xử với phụ nữ .......................................................... 49 2.2.3 Hành động của người anh hùng Từ Hải ....................................... 52 2.2.4 Những lời bình về nhân vật Từ Hải và các nhân vật nam............. 57 2.3 Tiểu kết .............................................................................................. 64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn5

ii

Chương 3: NHÂN VẬT LỤC VÂN TIÊN TRONG TRUYỆN LỤC

VÂN TIÊN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU .............................................. 65 3.1 Thân thế và thời đại Nguyễn Đình Chiểu............................................ 65 3.2 Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu ............................................................................................... 68 3.2.1 Lí tưởng nhân nghĩa của người anh hùng Lục Vân Tiên .............. 68 3.2.2 Mối tình Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga ............................... 75 3.2.3 Quan niệm đối lập nhân vật chính diện - phản diện ..................... 82 3.3 Tiểu kết .............................................................................................. 89 KẾT LUẬN ................................................................................................. 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 92

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn6

1

MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Từ Hải và Lục Vân Tiên-hai nhân vật nam giới. Chúng tôi chọn hai nhân vật nam giới của văn học trung đại để khảo sát có một số lý do sau. Văn hóa truyền thống phương Đông trong đó có văn hóa Việt Nam nếu xét từ góc độ văn hóa giới, là văn học nam quyền. Trong quan hệ xã hội giữa nam và nữ, nam giới thống trị .Từ xa xưa, sự thống trị của nam giới néo chắc vào vô thức của chúng ta đến mức ta không nhận thấy nó nữa và phù hợp với những trông đợi của chúng ta đến mức khó mà xét lại nó. Sự thống trị của nam giới không chỉ tồn tại trong xã hội mà nó còn ngự trị trong đời sống văn học nghệ thuật Văn học trung đại Việt Nam trong cái nhìn lịch sử, nhất là từ khi hệ thống văn tự được xác lập, phái nam gần như giữ vai trò thống trị tuyệt đối. Họ áp đặt các chuẩn mực của họ về cái đẹp, về hành vi, về đức hạnh cho người phụ nữ, bất công bất lợi cho người phụ nữ và có lợi cho nam giới. Đó là kiểu văn hóa nam quyền. Nghiên cứu các nhân vật nữ trong không gian văn hóa nam quyền đã được một số lv thạc sĩ gần đây tìm hiểu. Nhưng văn hóa truyền thống phương Đông cũng còn là văn hóa thanh giáo [puritanism], tuyên truyền con người khắc kỷ, và chủ nghĩa khắc kỷ này chi phối cả hai giới nam và nữ. Không gian văn hóa Thanh giáo với nhiều cấm kỵ về thân xác của xã hội Nho giáo hóa có ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng hình tượng nhân vật nam giới của văn học trung đại. Vấn đề này ít được quan tâm ở Việt Nam. Đó là lý do đầu tiên hướng chúng tôi chọn đề tài. Nhưng nhân vật đàn ông không phải luôn luôn hiện ra như những người khô khan, khắc kỳ chỉ biết chiến công hay sự nghiệp. Tùy theo giai đoạn văn học sử khác nhau, các tác giả có thể xử lý khác nhau đối với nhân vật nam của mình. Nguyễn Du tiếp tục phát triển những thành quả tích cực của trào lưu nhân đạo chủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn7

2

nghĩa của văn học Thăng Long. Nguyễn Đình Chiểu lại là tác giả trưởng thành trong không khí phục hồi Nho giáo của triều Nguyễn ở Đàng Trong. Hai nhà nho sống ở hai thời điểm gần nhau[ cuối thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX] nhưng lại có nhưng quan điểm trái ngược nhau khi xậy dựng nhân vật nam nhi anh hùng. Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là một nam nhi anh hùng nhưng lại không tuân theo những quy tắc ứng xử như các nhân vật anh hùng theo quan điểm của Nho giáo. Từ Hải có những nét phi thường nhưng cũng có những yếu tố của con người phàm bình với mọi cung bậc cảm xúc không bị kiểm soát bởi chủ nghĩa dân bản. Đây là một điểm mới trong quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Du. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu ra đời trong một thời điểm lịch sử đầy biến động ở vùng đất Nam Bộ. Chính vì thế hình tượng người nam nhi anh hùng có phần chịu ảnh hưởng giáo lí Nho giáo mang đậm tính khắc kỉ. Nghiên cứu đề tài " Nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên nhìn theo quan điểm giới", chúng tôi chọn cách tiếp cận nhân vật dưới góc nhìn văn hoá để có thể khai thác nhân vật toàn diện hơn ở mọi khía cạnh. Chúng tôi hi vọng kết quả nghiên cứu của mình sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập và giảng dạy văn thơ trung đại trong nhà trường. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Hai tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu từ lâu đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, khi nói về nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên, các nhà nho, các nhà nghiên cứu văn học mới chỉ dừng lại ở việc bình phẩm các nhân vật hoặc nhấn mạnh giá trị phản ánh hiện thực xã hội phong kiến; về quan niệm con người, chú trọng phân tích nhân vật theo nghĩa không phải là một cá nhân mà là một phần tử của một giai cấp, một tầng lớp, lý luận điển hình hóa xem xét nhân vật theo nghĩa điển hình giai cấp. Cho đến thời điểm hiện tại, hầu như chưa có hay ít

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn8

3

có công trình nghiên cứu nhân vật Từ Hải và Lục Vân Tiên theo lý thuyết về giới. Học giả Vũ Đình Trác với luận án tiến sĩ Triết lý nhân bản trong Truyện Kiều bảo vệ tại Nhật Bản năm 1984 có đề cập đến tư tưởng nhân bản của Nguyễn Du qua vấn đề giới như: cuộc đối thoại đầu tiên ở vườn Thuý, "nguyên tác đã để Thuý Kiều trở thành chủ động, nói năng huyên thuyên và tống tình Kim Trọng một cách khiêu khích. Nguyễn Du trái lại, trả Thuý Kiều về với bản tính thanh cao của giai nhân tài trí, để cho Kim Trọng trở thành chủ động, theo quan niệm Dương chinh phục Âm". Hoặc "những cảnh báo oán của Thúy Kiều trong truyện Hán văn có vẻ nhuốm màu bạo dâm [sadism] biểu lộ hết ác tâm của kẻ báo thù và đường lối dã man của xã hội loài người. Dưới ngòi bút Nguyễn Du, những cảnh đó cần phải có tối thiểu, để trọn ý nghĩa nhân quả và tâm lý thường tình của con người, nhưng ông muốn tránh mọi cử chỉ và hành động vô nhân đạo". Trần Đình Hượu và Trần Ngọc Vương có nêu vấn đề về loại hình " nhà nho tài tử" với hai nét thị tài, đa tình: "Tài tử cũng là nho sĩ [...] [...] nhưng lí tưởng làm người của họ [...] không ở chỗ tu thân, hành đạo, trí quân trạch dân mà là thoả mãn tính cách thị tài và đa tình […]. Họ không quan tâm nhiều đến nghĩa quân thần, [...]đến trách nhiệm với xã hội và còn đi xa hơn nữa đối lập tình với tính, tài với đức, tự coi là những cá nhân chứ không còn là thần tử [...]. Ước mong tự do và hạnh phúc chỉ mới đặt ra trong một phạm vi hẹp là tình yêu [...]. Tài tử là những nhà nho chưa thể gọi là “bội đạo”, “li kinh” nhưng rõ ràng đã xa rời quĩ đạo chính thống, tức là những nhà nho tu thân hành đạo hay ẩn dật theo lẽ xuất xử”[64]. Thực chất đây cũng là cách nhìn ít nhiều mang tính chất của giới tính [ nhà nho là đàn ông thì đa tình, đa dục và đề cao tài], song tiếc là không đề cập đến nhân vật Từ Hải. Tại hải ngoại, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc cũng có tiếp cận thú vị từ góc nhìn giới đối với nhân vật Lục Vân Tiên khi viết bài " Đọc... chơi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn9

4

vài bài ca dao" đã giải thích vì sao cái tục lại được dân Nam Bộ áp dụng để "xuyên tạc" nhân vật Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Theo ông, câu ca dao tục tĩu, nhảm nhí: Vân Tiên ngồi dưới gốc môn, Chờ cho trăng lặn bóp ... Nguyệt Nga. không dành cho nhân vật "máu dê" như Bùi Kiệm hay một nhân vật nào đó trong Truyện Kiều như Thúc Sinh, Từ Hải, Mã Giám Sinh...lại chọn ngay chính Lục Vân Tiên, một nhân vật được xem là nghiêm trang, nghiêm túc, thậm chí nghiêm khắc, có thể xem như một khuôn mẫu về đạo đức, để bắt làm cái chuyện phàm phu tục tử ấy là bởi vì có lí do của nó. Câu ca dao trên là "một cách phản ứng chống lại thái độ đạo đức khắt khe, có phần giả tạo của Lục Vân Tiên, và phần nào cũng là của Nguyễn Đình Chiểu". Vì mục tiêu "tải đạo", các nhân vật Lục Vân Tiên đã trở thành biểu tượng luân lý do đó mất cả tự nhiên! Truyện Lục Vân Tiên được truyền bá sâu rộng trong giới bình dân, cứ "nói thơ" đạo nghĩa hoài cũng sẽ có lúc có người làm "thơ" hay đặt vè phê phán lại Lục Vân Tiên và tác giả của nó, một phản ứng tâm lý bình thường chê giới có học, nhà nho vốn đại diện cho uy quyền. Nguyễn Hưng Quốc đã có lý khi cho rằng qua hai câu ca dao đó, người bình dân muốn Vân Tiên gần gũi họ, một "người" như họ. Tuy nhiên, đây mới là một gợi mở cho hướng phê bình văn học nhìn theo quan điểm giới của Nguyễn Hưng Quốc. Tóm lại, còn rất ít người nghiên cứu nhân vật nam giới ở hai tác phẩm này theo lý thuyết giới. Điều này khiến các nhân vật nam đôi khi bị nhìn nhận thiên lệch về vấn đề giai cấp hoặc đạo đức mà mờ nhạt về đặc điểm giới. Chính vì thế mà luận văn hy vọng góp phần nhỏ xới lên hướng nghiên cứu giới của nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên, góp phần giúp người đọc thấy thêm những phương diện khác của nhân vật trong hai tác phẩm này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn10

5

Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này là nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. 4. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu nhân vật nam trong Truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên trên cơ sở xem xét việc tác giả miêu tả, đánh giá, lý giải các phương diện giới tính nam của nhân vật. Qua đó làm nổi bật sự chi phối của quan điểm giới trong thời trung đại như một vấn đề văn hóa ảnh hưởng đến nghệ thuật xây dựng hình tượng người anh hùng lí tưởng và người anh hùng đã bị thế tục hoá. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như: khái niệm giới; điểm qua các kiểu nhân vật nam trong văn học trung đại Việt nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX. - Phân tích, cắt nghĩa hai kiểu nhân vật nam trong Truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên từ góc nhìn giới. Từ đó có sự so sánh hai nhân vật để thấy sự giống và khác nhau trong biểu hiện nam tính cũng như quan niệm của hai tác giả về việc xây dựng những hình mẫu nam nhi lí tưởng trong xã hội phong kiến. 6. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp văn hóa học: Chúng tôi vận dụng phương pháp tiếp cận văn hoá học để giải mã hình tượng người nam nhi anh hùng, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng. Trong xã hội phong kiến, giá trị đạo đức được coi là thước đo chuẩn mực người đàn ông chính là những giáo lí Nho gia. Nho giáo chủ trương xây dựng con người xã hội theo lí tưởng thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, con người nội thánh ngoại vương, tu kỉ trị nhân. Quan điểm văn hoá này đã chi phối đến cách xây dựng hình tượng người nam nhi anh hùng trong các tác phẩm văn học trong đó có nhân vật Từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn11

6

Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu . - Phương pháp thống kê: Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để khảo sát các nhân vật nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, từ đó đi tìm hiểu nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống kê để xử lý thông tin trong các tư liệu lịch sử, tư liệu văn học được sử dụng để chứng minh các luận điểm đã đưa ra. - Phương pháp so sánh: Chúng tôi lựa chọn phương pháp so sánh để thấy được các mối liên hệ đa dạng, đa chiều cũng như nét chung, nét riêng độc đáo của nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên. - Phương pháp hệ thống: Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống nhằm mục đích giúp cho việc tìm hiểu nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên có được cái nhìn sâu sắc, đầy đủ hơn. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai trong ba chương: Chương I: Lý thuyết giới và các kiểu nhân vật nam trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam Chúng tôi dành chương I làm cơ sở đi vào lý luận về Giới. Xã hội phương Đông truyền thống là xã hội nam quyền. Trong quan hệ giới giữa hai phái nam-nữ, người đàn ông thống trị, các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ của phụ nữ do nam giới đặt ra, thường có biểu hiện bất công đối với người phụ nữ [trinh tiết, tam tòng tứ đức…]. Nhưng mẫu hình lý tưởng về nam giới cũng lại mang tính khắc kỷ đậm nét. Những nhân vật nam giới được văn học nhà nho ca ngợi thường là các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn12

7

anh hùng, nam nhi quân tử, kẻ sĩ khắc kỷ, coi thường sắc đẹp, khô khan. Những nhân vật nam bị phê phán thường là những kẻ phóng đãng, dâm loạn. Sự phân tuyến chính diện-phản diện nhiều khi rạch ròi, không có trung gian. Khái niệm Thân và Tâm của văn hóa truyền thống phương Đông đã chi phối sâu sắc cách xử lý này. Người xưa dường như có quan niệm rằng sắc đẹp phụ nữ và những dục tính thân thể có ảnh hưởng xấu, tiêu cực đến việc tu dưỡng đạo đức, thực hiện lý tưởng của người thánh nhân, quân tử, trượng phu [những người đàn ông]. Vì thế nên họ có tư tưởng cảnh giác hay kỳ thị cao độ đối với nữ sắc. Tuy nhiên, trong văn học, cũng có những trường hợp đột phá các chuẩn mực đạo đức thẩm mỹ nho giáo chính thống như Truyện Kiều của Nguyễn Du mà ta sẽ nghiên cứu. Chúng tôi chọn nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong Truyện Lục Vân Tiên: đây là nhân vật của hai tác phẩm thuộc hai giai đoạn văn học khác nhau, một tác phẩm [Truyện Kiều ] vay mượn cốt truyện tiểu thuyết tài tử giai nhân [Kim Vân Kiều truyện], một tác phẩm [Lục Vân Tiên] có tính chất tự truyện. Nguyễn Du tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo, chủ tình, mang tư tưởng nữ quyền; còn Nguyễn Đình Chiểu sống ở Nam Bộ, một vùng đất mới khẩn hoang, cư dân từ mọi miền hội tụ rất cần có đạo nghĩa trong ứng xử, ông lại tiêu biểu cho giai đoạn nhà Nguyễn phục hồi Nho giáo, giai đoạn văn học mà nhà Nguyễn ưu tiên cho tuồng, đề cao con người phận sự, chức năng trong luân thường mà coi nhẹ con người trần thế, cá nhân. So sánh để xem hai tác giả khác nhau xử lý như thế nào với nhân vật nam giới, sự khác nhau, giống nhau, góp phần hình dung bức tranh văn học sử. Chương II: Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du Chọn nhân vật Từ Hải làm đối tượng khảo sát, chúng tôi có ý tìm hiểu những đột phá của Nguyễn Du trong quan niệm đạo đức thẩm mỹ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn13

8

Những biểu hiện nam giới của Từ Hải: thân thể kỳ vĩ, cường tráng, sức dư muôn người, có lòng trọng nghĩa khinh tài... Đây là nét truyền thống của nhân vật anh hùng hảo hán, giang hồ nghĩa hiệp, nhưng có nét mới, cách tân, biết trân trọng sắc đẹp phụ nữ, có tình yêu lãng mạn Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Đôi bên cùng liếc đôi lòng cùng ưa. Từ Hải là nam nhi, anh hùng [Nguyễn Du nhiều lần gọi Từ Hải là anh hùng]. Nhưng Từ Hải không khắc kỷ, cũng lãng mạn, đi tìm hình bóng giai nhân, đến với Kiều như việc đi tìm người tri kỷ, có tình yêu, có hạnh phúc ân ái "trai anh hùng, gái thuyền quyên / đẹp nguyền sánh phượng phỉ duyên cưỡi rồng"... Điều này có từ Kim Vân Kiều Truyện nhưng đã được Nguyễn Du sáng tạo, tô đậm. Đây là đặc điểm chung cho các nhân vật nam chính diện ở Truyện Kiều. Truyện Kiều còn có nhân vật Thúc Sinh với biểu hiện nam tính thiên về sắc tình nhưng tấm lòng độ lượng bao dung của Nguyễn Du không phê phán, lên án. Chương III: Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu Ở chương III này, chúng tôi tìm hiểu nhân vật nam Lục Vân Tiên để thấy xu hướng tôn nho trở lại của vùng đất phương Nam dưới thời Nguyễn đã ảnh hưởng đến sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Lục Vân Tiên có những vẻ đẹp truyền thống của nam nhi, anh hùng, nhưng thiếu chất lãng mạn, thiếu sự đa tình. So sánh nhân vật Lục Vân Tiên với nhân vật Từ Hải để thấy sự giống nhau và khác nhau trong biểu hiện nam tính. Một điểm khác biệt quan trọng là tính chất khắc kỷ, là vẻ nghiêm nghị đạo mạo quá mức trước phụ nữ. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu cũng đối lập gay gắt hai kiểu chính diện -phản diện bằng đối lập những biểu hiện yếu tố nam tính.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn14

9

NỘI DUNG Chương 1 LÝ LUẬN GIỚI VÀ VIỆC PHÂN TÍCH CÁC NHÂN VẬT NAM NHI –ANH HÙNG TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI 1.1 Những khái niệm về giới [gender] và giới tính [sex] Trong những năm gần trở lại đây, thuật ngữ “Giới” [gender] – khác biệt với thuật ngữ “Giới tính” [sex], thường xuất hiện trong các bài viết, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam. Giới thường được nói đến ở hai khía cạnh sinh học và xã hội. Ở vấn đề này, chúng tôi không có tham vọng đi sâu nghiên cứu những vấn đề chuyên môn thuộc lĩnh vực này mà chỉ đi tìm hiểu khái niệm " giới" và "giới tính" để phục vụ cho những vấn đề có liên quan đến bài viết của mình. Khái niêm "giới" mà chúng tôi đề cập ở đây được hiểu theo góc độ xã hội. Theo Hoàng Bá Thịnh trong bài Tiểu luận xã hội học về giới thì "giới" được hiểu như sau: Khái niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả mối quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ này có sự phân biệt vai trò, trách nhiệm, hành vi xã hội mong đợi và quy định cho mỗi giới, phù hợp với những đặc điểm văn hoá, chính trị, kinh tế và tôn giáo. Do vậy, nó luôn biến đổi theo thời gian và có sự khác biệt theo không gian; vì thế nó luôn biến đổi theo các giai đoạn lịch sử và có khác biệt giữa các cộng đồng, xã hội” [52.54]. Reiter 1975: 159: Giới là một thành phần của hệ thống giới tính. Hệ thống giới tính [gender/sex sytem] chỉ "sự sắp xếp mà trong đó xã hội qui định sự tương ứng giữa giới tính sinh học và hành vi con người, trong đó những nhu cầu được thỏa mãn". [Nguồn: Dịch từ //en.wikipedia.org/wiki/Gender- role ]

Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam định nghĩa: “Giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Xã hội tạo ra gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn15

10

giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi được” [13.33]. Trong cuốn tài liêu giáo dục Giới và các vấn đề đô thị của TS.Trần Thi Kim Xuyến thì giới được định nghĩa: "Giới [ gender] là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ từ góc độ xã hội; giới đề cập đến sự phân công lao động, các kiểu phân chia nguồn lựcvà lợi ích giữa nam và nữ trong một bối cảnh xã hội cụ thể" [67.3]. Theo Bem và Coltrane, các nhà nghiên cứu xã hội học của đại học Oregon đã xác định 3 “thấu kính giới” chủ chốt [các giả thuyết ẩn]: sự phân cực giới [đàn ông và đàn bà là khác nhau và sự khác biệt này một nguyên tắc tổ chức trung tâm của cuộc sống xã hội], androcentrism [nam giới ưu trội hơn nữ giới; kinh nghiệm nam giới là tiêu chuẩn, nam quyền]; và chủ nghĩa thiên về những kiến giải sinh học [hai thấu kính đầu tiên là do sự khác biệt về sinh học giữa các giới tính]. Đây là một cách tiếp cận cấu trúc xã hội đã nhìn nhận sự tiếp nhận đặc điểm về giới như sự đoán trước hoàn thiện nhân cách cá nhân. Như vậy, "giới là sự khác biệt mang tính xã hội [không phải sự khác biệt về sinh học], chỉ sự tương quan về vai trò xã hội, vị trí và giá trị xã hội giữa phụ nữ và nam giới". Sự khác biệt về giới không phải vốn có cùng với sự tồn tại của nam và nữ mà là sự tập hợp các hành vi học được từ xã hội và những kỳ vọng về các đặc điểm, phẩm chất, năng lực được cân nhắc nhằm xác định thế nào là một người nam giới hay một người phụ nữ [hoặc cậu bé – cô bé], trong một xã hội hay nền văn hóa nhất định. Như vậy, "giới" là những đặc điểm mà xã hội đã tạo nên ở người nam và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và người nữ, là những đặc trưng xã hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã hội thường bao gồm nhiều vấn đề như: vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi giới trong xã hội… Những vấn đế này thường do xã hội quy định và biến đổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn16

11

theo từng giai đoạn lịch sử, từng quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục tập quán của mỗi dân tộc… Giới tính[Sex]: các đặc điểm về cấu tạo cơ thể, liên quan đến chức năng sinh sản của phụ nữ và nam giới được gọi là giới tính. Đây là những đặc điểm mà phụ nữ và nam giới không thể đổi chỗ cho nhau. Cụ thể là phụ nữ mang thai, sinh con, cho con bú, nam giới tạo ra tinh trùng để thụ thai. Giới và giới tính có mối quan hệ rất chặt chẽ và phức tạp. Giới là cơ sở để tạo nên giới tính. Những đặc điểm sinh học của giớí xác định giới tính về mặt sinh học đồng thời cũng là những biểu hiện của giới tính về mặt sinh học. Ở góc độ này, giới là một bộ phận của giới tính, đồng thời giới chi phối và quyết định giới tính. Những đặc điểm xã hội của giới cũng góp phần hình thành những đặc điểm xã hội của giới tính. Chúng cũng chi phối và quyết định sự hình thành giới tính. Sự phân cực vai trò giới trong xã hội ngày càng trở nên rõ nét. Nữ giới thì được gắn với những đặc điểm như là giàu tình cảm, thận trọng, tính hợp tác, tinh thần cộng đồng và sự phục tùng. Còn nam giới có xu hướng được gắn với các đặc điểm như duy lý, có năng lực, thích ganh đua, chủ nghĩa cá nhân và sự tàn nhẫn. Nam giới theo bản năng tự nhiên của mình luôn thể hiện sự phân tích và tính cạnh tranh nhiều hơn, trong khi đó phụ nữ giàu lòng trắc ẩn và thiên về sự chăm chút tỉ mỉ cho những người xung quanh. Có nhiều giả thuyết và lý giải khác nhau cho sự khác biệt độc đáo này. Theo tiến sĩ người Mỹ Cordelia Fine, đồng thời là tác giả cuốn Ảo giác về giới tính [Delusions of gender], sự khác biệt giữa hai giới không chỉ xuất phát từ cấu tạo tự nhiên khác nhau của não hay sứ mệnh sinh học của mỗi giới mà còn là do yếu tố tác động của xã hội và môi trường sống. Trong văn hoá người Việt, giới có tác động không nhỏ đến sự phân công lao động giữa người phụ nữ và nam giới trong gia đình. Người đàn ông luôn là người giữ vai trò trụ cột trong gia đình. Mọi lĩnh vực có liên quan đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn17

12

đời sống gia đình như: làm nhà, dạm vợ, gả chồng cho con cái, chăn nuôi, trồng trọt… nhất nhất đều do người đàn ông chủ gia đình quyết định. Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo góp phần làm cho chế độ phụ hệ gia trưởng trong người Việt thêm củng cố. Trong một gia đình nếu không có con trai nối dõi tông đường thì dù có bao nhiêu con gái thì dư luận xã hội cũng đều cho là không có con [Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô]. Đến tuổi lấy chồng, người con gái không có quyền được lựa chọn người chồng. Với tục “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và với lệ thách cưới người con gái trở thành một vật trao đổi mua bán. Người phụ nữ sau khi đi lấy chồng trở thành thành viên của

gia đình chồng "Con gái là con người ta, con dâu mới thật mẹ cha mua về" và cũng từ đây họ và tên của người đàn bà sẽ biến mất. Ngay cả cách dạy con của bà mẹ trong bài ca dao ở Quốc văn giáo khoa thư cũng thể hiện rất rõ vị trí của người nữ giới và nam giới trong xã hội: Con ơi muốn nên thân người, Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha: Gái thì giữ việc trong nhà, Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa, Trai thì đọc sách ngâm thơ, Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa, Mai sau nối được nghiệp nhà, Trước là đẹp mặt sau là ấm thân. Trong văn hoá làng xã, chỉ có đàn ông mới được lên đình làng bàn việc, phụ nữ ở nhà, việc tổ chức các lễ nghi tôn giáo cũng do người đàn ông thực hiện. Cái nhìn của nam giới về phụ nữ cũng có phần khinh miệt. Trong quan hệ nam nữ, phạm trù trinh tiết như là biểu hiện của đạo đức chỉ áp dụng cho người phụ nữ; còn người đàn ông không bị ràng buộc bởi phạm trù này. Không ai lại đi khen hay chê người đàn ông vì giữ [hay không giữ] trinh tiết với vợ, song trinh tiết là một trong những chuẩn mực để khen chê đức hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn18

13

người phụ nữ. Một nhà nho có thể có hàng chục vợ hay một ông vua có hàng trăm cung nữ, nhưng vẫn “vô tư” bàn về trinh tiết phụ nữ, vẫn sẵn sàng làm thơ, viết văn ngợi ca những người phụ nữ “tiết hạnh khả phong”. Và, với quan niệm “tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, những người phụ nữ nạn nhân của chế độ đa thê [bất kể là vợ cả hay vợ lẽ], suốt đời chìm đắm trong những mối mâu thuẫn, bất hòa, khổ đau nhiều khi chỉ vì những chuyện rất vụn vặt. Từ luật Hồng Đức đến luật Gia Long là quá trình phát triển ngày càng phản động của chế độ phong kiến đối với phụ nữ. Những cực hình, chỉ áp dụng riêng đối với phu nữ khi bị coi là làm những việc trái với luân thường đạo lí: thả bè trôi sông, gọt gáy bôi vôi, ngựa xé, voi giày... Thực tế về cái nhìn nam quyền rất phổ biến trong văn học trung đại. Các nhà nho xưa thường coi phụ nữ là lực cản trên con đường tu dưỡng đạo đức nên phải xa lánh nữ sắc, coi nữ sắc nguy hiểm như ma quái, quỉ, hồ ly tinh, rắn báo oán. Truyền thuyết về Thị Lộ là rắn báo oán, các nhân vật phụ nữ ma quái trong Truyền kỳ mạn lục... ra đời cũng bởi xuất phát từ chính những quan niệm này. Trong Gia huấn ca của Nguyễn Trãi, phần lớn những bài giáo huấn là để răn dạy người phụ nữ trong gia đình phải biết đối nhân xử thế trong mọi trường hợp với cha mẹ, với chồng, với bạn chồng, với trong họ, ngoài làng...Trái lại, cái nhìn của xã hội [cũng là nam giới thống trị] về người nam giới thường là ca ngợi mẫu hình nam nhi, quân tử, anh hùng, trượng phu, con người trên phương diện xã hội mà tỏ ra khinh miệt những kẻ mê đắm nữ sắc, coi như những nhân vật phản diện. Những hiện tượng này vẫn còn tồn tại dai dẳng cho đến tận ngày nay. Người đàn ông theo quan niệm Nho giáo phải lập công danh sự nghiệp, có chí khí nam nhi, chí khí anh hùng. Để thực hiện lý tưởng cao cả đó, họ phải gạt bỏ tình cảm nhi nữ, không đam mê sắc đẹp như thiền sư [nam nhân] hy sinh đời sống tình dục để tu luyện những phép thuật để đạt được những khả năng phi thường hay nhà nho tiết dục, quay lưng lại tiếng gọi của thân xác, của sắc đẹp bởi nó chính là nguyên nhân gây nên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn19

14

suy vong, sụp đổ cho của các triều đình, bất hạnh tai hoạ cho gia đình và nỗi đâu khổ cho cá nhân Đó là lý do sâu xa của việc họ coi thường sắc đẹp. Quan niệm văn hóa về đặc điểm và vai trò của giới có vai trò chi phối, tác động đến cách xây dựng hình tượng nhân vật [cả nam và nữ]. Trong nghiên cứu văn học, người ta có thể vận dụng phương pháp nghiên cứu giới của nhân vật văn học để tìm hiểu các kiểu hình tượng nam, nữ. Trước đây, nhân vật nam, nữ thường chỉ được nhìn theo quan điểm giai cấp, áp bức hay bị áp bức, theo quan điểm đạo đức, đáng khen hay đáng chê thì với điểm nhìn giới, chúng ta thấy thêm những phương diện khác của nhân vật. Từ đó, chúng ta có thể phân tích một cách toàn diện sự ảnh hưởng của các quan niệm giới thời trung đại tới cách nhìn nhận và sự xây dựng hình tượng nhân vật. 1.2 Các kiểu nhân vật nam trong văn học trung đại Việt Nam Mỗi nền văn học ở một quốc gia nào đó đều có sự vận động theo tiến trình vận động của lịch sử. Văn học Việt Nam trung đại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đặt văn học vào tiến trình vận động của nó sẽ giúp người đọc có cái nhìn toàn diện hơn về đề tài, thể loại, ngôn ngữ, nhân vật ... Tuy nhiên, các vấn đề về phân kì lịch sử dân tộc và quy luật vận động của văn học dân tộc vẫn luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận trong các cuộc hội thảo. Có rất nhiều quan niệm về phân kì lịch sử văn học dân tộc Việt Nam được đưa ra. Theo giới nghiên cứu mácxít thì quy luật vận động của tiến trình văn học trung đại đều dựa vào nội dung được phản ánh trong các giai đoạn khác nhau để phân định ranh giới giữa chúng. Cách phân kì này còn bộc lộ những vấn đề bất cập bởi "đời sống văn học là kết quả của mối quan hệ tương tác giữa chủ thể và khách thể. Sự thay đổi của các yếu tố thuộc về hiện thực xã hội lịch sử với tư cách là đối tượng của sự phản ánh phải được chủ thể là nhà văn nhận thức để chuyển hoá thành tác phẩm văn học. Tất nhiên, sự thay đổi của chủ thể cũng là do nhân tố khách thể quy định, song là sự quy định phức tạp. Vả lại, chủ thể có sự độc lập tương đối với khách thể. Chủ thể sáng tạo nhìn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

//www.lrc-tnu.edu.vn20

Chủ Đề