Theo triết học mác lênin phạm trù nội dung là

V. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC. 1. Định nghĩa. - Nội dung là tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. - Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của chúng. Ví dụ: + Nội dung cơ thể sống là toàn bộ yếu tố vật chất [tế bào, khí quan, quá trình tạo nên cơ thể đó]. Hình thức: là cách sắp xếp trình tự các tế bào của cơ thể để tạo thành con hay cây gì đó. + Một tác phẩm văn học thì nội dung là toàn bộ phần cuộc sống mà tác phẩm phản ánh. Hình thức là kết cấu bút pháp thể hiện [loại hình nghệ thuật: hát dân ca, tuồng, cải lương, chèo hay kịch nói…] + Phương thức sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất là nội dung. Quan hệ sản xuất là hình thức [Cơ sở hạ tầng là nội dung, kiến trúc thượng tầng là hình thức]. + Một cái bàn học: toàn bộ những vật liệu gỗ, đinh… là nội dung còn hình thức là sự sắp xếp nguyên vật liệu đó. + Quá trình nhận thức thế giới khách quan được phản ánh vào óc là nội dung,. Tiếp thu những hình ảnh đó bằng cách nào [khái niệm, phán đoán, suy luận] đó là hình thức. 2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức. - Nội dung và hình thức bao giờ cũng là thể thống nhất gắn bó với nhau. Không có hình thức nào lại không chứa đựng một nội dung và không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định. [Không có nội dung nói chung, chỉ có nội dung cụ thể. Không có hình thức thuần túy mà chỉ có hình thức cụ thể của một nội dung nhất định]. Giải thích: Nội dung và hình thức là sự thống nhất của 2 mặt đối lập, liên hệ tác động và chuyển hóa lẫn nhau. Nội dung và hình thức cũng chỉ là sự phân biệt tương đối, có cái ở mối liên hệ này là nội dung, ở mối liên hệ khác lại là hình thức. Ví dụ: lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức [Với tư cách là cơ sở hạ tầng thì nó lại là nội dung, kiến trúc thượng tầng lại là hình thức]. - Không phải lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ thể hiện trong một hình thức nhất định và một hình thức bao giờ cũng chỉ chứa một nội dung nhất định. Ví dụ: Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức. Thời gian đầu nó phù hợp với nhau nên lực lượng sản xuất đã phát triển mạnh mẽ. Sau đó lực lượng sản xuất nó mang tính chất xã hội mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt. Đến một lúc nào đó lực lượng sản xuất [nội dung] đòi hỏi phải phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa để thay thế quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa [là hình thức] phù hợp với nó, mở đường cho nó phát triển hơn nữa. - Một nội dung được thể hiện bằng nhiều hình thức. Ví dụ: Thạch Sanh và Lý Thông: Khen ngợi người hiền, dũng cảm, trung thực, được nhiều người yêu quý. Với nội dung đó được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau: dân ca, cải lương, phim… - Một hình thức được thể hiện cho nhiều nội dung: Ví dụ: Hình thức kịch nói: Vở kịch: Tôi và chúng ta [chống cửa quyền, mối quan hệ giữa quyền lợi của cá nhân và tập thể]. - So với hình thức thì nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. [Nội dung thể hiện khuynh hướng có tính chất biến đổi, hình thức là mặt tương đối bền vững ổn định -> cho nên sự biến đổi bao giờ cũng bắt đầu từ nội dung của sự vật. Ví dụ: Phương thức sản xuất: lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức. Lực lượng sản xuất với tư cách là nội dung bắt đầu biến đổi từ công cụ sản xuất, là yếu tố động, quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức nó tĩnh tại, ổn định hơn, có biến đổi nhưng biến đổi chậm hơn -> mâu thuẫn . - Trong sự thống nhất hữu cơ thì nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức, hình thức xuất hiện, hình thành là do ảnh hưởng của nội dung. Ví dụ: Để đáp ứng nội dung, nhiệm vụ, chức năng của nhà nước thay đổi thì hình thức bộ máy của nhà nước cũng thay đổi. Quốc hội - Nhà nước - Chính phủ. Giao quyền lập hiến. Quốc hội có một vị trí rất lớn. Nhà nước có quyền hành pháp. Chính phủ có trách nhiệm thi hành những pháp luật trên. Dù sao chăng nữa Chính phủ cũng có tính chất tập thể. Muốn giao quyền cho cá nhân cao hơn nữa: tổ chức Chính phủ dứng đầu chính phủ là Thủ tướng Quốc hội: Lập hiến, lập pháp. Nhà nước [Chính phủ + Thủ tướng] có quyền hành pháp. Viện kiểm soát, Tòa án: Tư pháp 3. Ý nghĩa và phương pháp luận. - Nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau. Trong hoạt động thực tiễn cần tránh sự tách rời, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt vốn có của nó. - Cùng một nội dung trong tình hình phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức và ngược lại, việc cải tạo xã hội phải biết sử dụng mọi hình thức có thể để phục vụ. - Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xét đoán sự vật trước hết phải căn cứ vào nội dung, đồng thời phải thấy vai trò của hình thức đối với nội dung. Ví dụ: Công cuộc đổi mới của chúng ta: + Nội dung về kinh tế: xây dựng kinh tế nhiều thành phần. + Hình thức được biểu hiện: + Kinh tế nhà nước : giai cấp công nhân + Kinh tế tập thể: Giai cấp nông dân + Kinh tế tư sản nhà nước: Giai cấp tư sản dân tộc. + Kinh tế tư sản nước ngoài: Giai cấp tư sản + Kinh tế tư nhân

+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

a] Phạm trù nội dung, hình thức

Phạm trùnội dung dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng. Phạm trù hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.

b] Quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau. Vì vậy, không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, đồng thời không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định. Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức và cùng một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung.

Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng, trong đó nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Khuynh hướng chủ đạo của nội dung là khuynh hướng biến đổi, còn hình thức là mặt tương đối ổn định trong mỗi sự vật, hiện tượng. Nội dung thay đổi bắt buộc hình thức phải thay đổi theo cho phù hợp. Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp tuyệt đối giữa nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội dung phát triển. Nếu hình thức không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.

c]  Ý nghĩa phương pháp luận

Nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó.

Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước phải căn cứ vào nội dung. Muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.

Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung trên cơ sở tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác, cũng cần phải thực hiện những thay đổi đối với những hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở sự phát triển của nội dung.

Loigiaihay.com

Cặp phạm trù nội dung và hình thức khá quen thuộc đối với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Về mặt triết học, nắm vững cặp phạm trù này cũng sẽ giúp chúng ta sớm đạt được tiến bộ trong nhận thức cũng như trong thực tiễn.

I. Khái niệm 

Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.

Ví dụ: Nội dung của chiếc xe hơi là có 04 bánh cao su, chứa được 4-6 người, sử dụng nhiên liệu là xăng hoặc dầu, tốc độ chạy từ 30 – 200 km/h.

Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.

Cần phân biệt giữa phạm trù “hình thức” trong triết học với hình thức bên ngoài của sự vật. Phạm trù “hình thức” chủ yếu để chỉ hình thức bên trong của sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung.

Ví dụ: Hình thức của chiếc xe hơi là các bộ phận được làm từ thép, nhựa, cao su…, động cơ được bố trí ở phần trước của xe, có nút đề khởi động động cơ, có ghế lái xe và ghế ngồi đệm mút…

Bức tranh: Nội dung là chân dung chú sư tử. Hình thức là sự kết hợp giữa các màu sắc tạo nên một bộ mặt sư tử rất ấn tượng.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nội dung và hình thức có mối quan hệ biện chứng như sau:

1. Nội dung và hình thức thống nhất và gắn bó khăng khít với nhau.

 – Bất kỳ sự vật nào cũng phải có đồng thời nội dung và hình thức. Không có sự vật nào chỉ có nội dung mà không có hình thức, hoặc chỉ có hình thức mà không có nội dung. Do vậy, nội dung và hình thức phải thống nhất với nhau thì sự vật mới tồn tại.

– Sự vật được cấu tạo nên từ những mặt, những yếu tố… Nhưng những mặt, những yếu tố này không tách rời nhau, mà thống nhất, gắn kết với nhau.

Như thế, những mặt, những yếu tố… vừa là chất liệu làm nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Do đó, nội dung và hình thức không tách rời nhau mà gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.

Không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, và cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong hình thức.

– Cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình thức. Ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau.

Ví dụ:

Nội dung của ngôi nhà là để ở, ở trong có nhiều đồ gia dụng. Hình thức ban đầu của ngôi nhà là có 02 phòng ngủ, 01 phòng khách… Chủ nhà thu hẹp diện tích phòng khách để có 03 phòng ngủ. Như vậy, hình thức ngôi là đã thay đổi.

Một thời gian sau, chủ nhà bán nhà, người khác sử dụng chính căn nhà đó làm văn phòng. Khi đó, nội dung căn nhà đã thay đổi.

2. Nội dung quyết định hình thức.

Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, nội dung có vai trò quyết định đến hình thức.

Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất; nó có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi. Còn hình thức là mặt tương đối bền vững; khuynh hướng chủ đạo của nó là ổn định.

Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của nội dung. Còn hình thức cũng biến đổi, nhưng chậm hơn, ít hơn so với nội dung.

Khi nội dung biến đổi thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.

Ví dụ: Nội dung quan hệ giữa anh A và chị B là quan hệ bạn bè, khi đó hình thức quan hệ giữa hai người không có “giấy chứng nhận”. Khi anh A và chị B kết hôn, nội dung quan hệ đã thay đổi, thì hình thức quan hệ buộc phải thay đổi khi hai người buộc phải có “giấy chứng nhận kết hôn”.

3. Hình thức không thụ động mà tác động trở lại nội dung.

– Tuy nội dung giữ vai trò quyết định so với hình thức nhưng điều đó không có nghĩa là hình thức chỉ “ngoan ngoãn” đi theo nội dung. Trái lại, hình thức luôn độc lập nhất định và tác động tích cực trở lại nội dung.

Khi phù hợp với nội dung, hình thức sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung. Ngược lại, nếu không phù hợp, hình thức sẽ kìm hãm nội dung phát triển.

– Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình phát triển của sự vật.

Lúc đầu, những biến đổi trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hệ thống mối liên hệ tương đối bền vững của hình thức. Nhưng khi những biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó, hệ thống mối liên hệ tương đối cứng nhắc đó trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển của nội dung. Lúc này, hình thức không phù hợp với nội dung nữa.

Tới một lúc nào đó, nội dung và hình thức xung đột sâu sắc. Nội dung mới sẽ phá bỏ hình thức cũ, hình thức mới sẽ hình thành. Trên cơ sở hình thức mới, nội dung mới tiếp tục biến đổi, phát triển và chuyển sang trạng thái mới về chất.

III. Ý nghĩa phương pháp luận

1. Không tách rời nội dung với hình thức.

Do nội dụng và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần chống lại mọi khuynh hướng tách rời nội dung với hình thức. Ở đây cần chống lại hai thái cực sai lầm:

+ Hoặc là tuyệt đối hóa hình thức, xem thường nội dung.

Ví dụ: Trong cuộc sống chỉ coi trọng vật chất xa hoa mà coi nhẹ tâm hồn con người.

+ Hoặc là tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức.

Ví dụ: Trong cuộc sống, chỉ biết đến rèn luyện nhân cách, tâm hồn mà không chú ý đến phương tiện vật chất tối thiểu.

2. Cần căn cứ trước hết vào nội dung để xét đoán sự vật.

nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đấy, cần căn cứ trước hết vào nội dung của nó. Và nếu muốn làm biến đổi sự vật thì cần tác động để thay đổi trước hết nội dung của nó.

3. Phải theo dõi sát mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.

hình thức có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của nội dung, nên trong hoạt động thực tiễn cần luôn theo dõi mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của sự vật để có thể  kịp thời phát hiện, can thiệp vào tiến trình phát triển của sự vật theo hướng có lợi nhất.

Nếu muốn sự vật phát triển tiếp, cần tạo điều kiện để hình thức phù hợp với nội dung. Ngược lại, nếu thấy sự vật phát triển lên sẽ có hại, cần tìm cách để hình thức không phù hợp với nội dung.

4. Cần sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự vật.

– Vì cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình thức, ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau, nên cần sử dụng một cách sáng tạo mọi loại hình thức có thể có [mới và cũ], kể cả phải cải biến những hình thức cũ vốn có, để phục vụ hiệu quả cho việc thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn.

– Ở đây cũng cần tránh hai thái cực sai lầm:

+ Hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ mà không áp dụng cái mới.

+ Hoặc phủ nhận, bỏ qua hoàn toàn cái cũ trong hoàn cảnh mới. Chủ quan, nóng vội, thay đổi hình thức một cách tùy tiện, không có căn cứ.

8910X.com

Xin mời các bạn đưa ra một vài bình luận để bài viết có thể hoàn thiện hơn.

Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn hãy để lại câu hỏi ở phần comment để mình có thể giải đáp khi thời gian cho phép nhé!

Sáu cặp phạm trù cơ bản: 

Bài liên quan:

  • //baigiang.violet.vn
  • //kienthuc.theki.vn

Video liên quan

Chủ Đề