Vai trò của nhà nước trong quản lý và phát triển đô thị

Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam phát triển nhanh chóng; trở thành điểm nhấn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và là yếu tố quan trọng hình thành lối sống văn minh công nghiệp, lối sống đô thị. Tuy nhiên, sự dịch chuyển dân cư từ nông thôn ra thành thị và sự chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp… làm nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp trong quá trình đô thị hóa, cụ thể là quá trình quy hoạch, cải tạo, chỉnh trang, phát triển đô thị ở nước ta trên bình diện không gian đô thị và không gian xã hội trong đó có việc nghiên cứu xây dựng một mô hình[1] về lối sống đô thị vừa mang tính hiện đại, vừa kế thừa những nét truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam.

Ảnh minh họa

Đặc điểm, vai trò của chính quyền đô thị

Thứ nhất, chính quyền đô thị đóng vai trò cung ứng các dịch vụ công, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường tuân thủ theo các quy luật của thị trường [quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu,...] và các dịch vụ công, với tính chất đặc thù là phục vụ, ổn định đời sống và đáp ứng các nhu cầu của người dân. Thông qua điều tiết đầu tư từ nguồn tài chính công, chính quyền đô thị chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng, triển khai, cung ứng các dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp như hạ tầng giao thông, phương tiện giao thông công cộng, thông tin liên lạc và các cơ sở thiết yếu phục vụ trong đời sống xã hội.

Thứ hai, chính quyền đô thị đóng vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô. Do đó, vai trò quản lý nhà nước của chính quyền vào quá trình vận hành kinh tế đảm bảo có hiệu lực, hiệu quả là rất quan trọng. Chính quyền đô thị sẽ điều chỉnh quan hệ cung cầu nhằm giải quyết các nhu cầu xã hội, ổn định và cân bằng kinh tế đô thị thông qua các biện pháp, chính sách, đề án quy hoạch để đảm bảo phát triển đô thị bền vững. Bên cạnh đó, để đảm bảo đô thị vận hành hiệu quả, chính quyền đặt ra và thực thi một số chính sách cụ thể về việc làm, cơ cấu ngành nghề, cơ chế đầu tư, thu hút nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. 

Thứ ba, hoạt động của chính quyền đô thị phải giải quyết các vấn đề phát sinh, phức tạp trong đời sống xã hội của đô thị. Vấn đề xã hội rất đa dạng, phong phú và có tính chất, quy mô khác nhau. Hiện nay, các vấn đề đô thị chủ yếu là vấn đề dân số [bao gồm cả hiện tượng di dân, gây nên quá tải đô thị], vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị [kể cả môi trường tự nhiên và môi trường nhân văn], vấn đề tệ nạn xã hội [mại dâm, ma túy…], vấn đề đói nghèo đô thị, vấn đề ngập úng đô thị, vấn đề giao thông đô thị [bao gồm sự thiếu hụt các nguồn cung giao thông công cộng, ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông].v.v. Ngoài ra, chính quyền đô thị còn chịu tác động bởi các yếu tố chủ quan và khách quan. Ví dụ, trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư khiến cho “thế giới phẳng đô thị” cũng chịu tác động về bản sắc, nét đẹp văn hóa, lối sống đặc thù của người dân. 

Thứ tư, chính quyền đô thị và người đứng đầu có vai trò phân phối, tái phân phối thu nhập, giải quyết các vấn đề an ninh, an toàn và an sinh xã hội đô thị. Mặc dù kinh tế thị trường là một trong những nhân tố góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu suất sản xuất nhưng kinh tế thị trường không thể tự giải quyết được vấn đề công bằng xã hội. Dưới thể chế kinh tế thị trường [tự do] thì cơ hội không “chia đều” cho mọi người, và do đó chỉ có một số người biết chớp lấy “cơ may thị trường” mới có thể làm giàu. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng và phân tầng xã hội, hình thành kiểu phân tầng xã hội bất hợp lý. Bất bình đẳng xã hội là nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh; không để ai bị bỏ lại phía sau; phát triển đô thị thông minh bền vững.

Thông qua việc thực thi các chính sách liên quan đến an sinh xã hội, chính quyền đô thị hướng đến các nhóm thu nhập thấp, nhóm yếu thế để nâng cao năng lực và tạo điều kiện phát triển cho mọi tầng lớp xã hội trong đô thị; giải quyết bất bình đẳng xã hội [thu nhập, chi tiêu, sở hữu tài sản, tiếp cận dịch vụ...], điều hòa lợi ích xã hội nhằm hướng đến một đô thị phát triển hài hòa, bền vững. Đồng thời, giữ vững an ninh, trật tự đô thị, tạo môi trường thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Điều kiện và nguyên tắc hình thành mô hình chính quyền đô thị 

Hình thành mô hình “chính quyền đô thị” gắn với “chế độ thị trưởng” là sự chấp nhận cách nghĩ, cách làm, các mối quan hệ từ các chủ thể lợi ích mới các thiết chế mới của đô thị và đặc biệt là tư duy quản lý mới. Khi đã “hình thành” thể chế quản lý theo kiểu chính quyền đô thị sẽ luôn “vận động” theo những nhu cầu nội tại của sự phát triển. Ví dụ, tại Mỹ từ khi thiết lập chính quyền đô thị đến nay đã thay đổi nhiều mô thức để thích ứng và phù hợp với nhu cầu quản lý mới về đô thị. Một số loại mô thức chính quyền đô thị như: chế độ thị trưởng yếu; chế độ thị trưởng mạnh; chế độ ủy ban - ban chấp hành; chế độ hội đồng - quản lý[2]. 

Như vậy, về bản chất thì “chính quyền đô thị” gắn với chế độ thị trưởng là sự phát triển xã hội nói chung, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa cũng như mức sống và đời sống dân trí của người dân được nâng lên. Chính quyền đô thị ra đời nhằm đáp ứng sự giao lưu, giao thương quốc tế theo kiểu thành phố - thành phố; đòi hỏi sự “thống nhất tương đối” về vị trí, địa vị và phương thức quản lý xã hội. Khi đời sống được nâng cao, nếu người dân [một chủ thể trọng yếu của đô thị] muốn được thể hiện vai trò, vị trí của mình trong tiến trình xây dựng, quản lý, giám sát, bảo vệ, phát triển đô thị, đòi hỏi phải có một hình thức quản lý đô thị mới phù hợp [có thể là chế độ thị trưởng hoặc phương thức quản lý phù hợp khác] để họ thể hiện được quyền và nghĩa vụ, vai trò và vị trí của mình. 

Sự hình thành chế độ thị trưởng không phải là từ ý chí cá nhân mà cần những điều kiện từ nhu cầu của đời sống xã hội đô thị. Chính quyền đô thị gắn với chức danh của người đứng đầu là “thị trưởng” [dù cả ở chế độ thủ trưởng - thị trưởng hay chế độ hội đồng thị trưởng]. Ưu điểm của “chế độ thủ trưởng” là quyền lực được tập trung gần như tuyệt đối về tay thị trưởng, vì vậy khi tiến hành giải quyết một vấn đề nào đó liên quan đến sự phát triển thì trách nhiệm của người đứng đầu là cao nhất, hành động nhanh chóng, khoa học, hiệu suất cao. Do đó, đòi hỏi người đứng đầu thành phố phải có phẩm chất, năng lực thực sự và các kỹ năng lãnh đạo tương ứng. 

Tuy nhiên, không phải “thị trưởng” có quyền quyết định tất cả mọi vấn đề mà cần tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, những quyết định của thị trưởng phải hợp hiến, hợp pháp và phù hợp với điều kiện của chính quyền đô thị. Ở góc độ quản lý xã hội, mô hình quản lý đô thị của Việt Nam hiện nay trong một số đô thị lớn vẫn còn phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nhận thức và cách điều hành của người đứng đầu đô thị còn thiếu tầm chiến lược trong công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý [quản lý không gian vật chất và quản lý cả không gian xã hội] làm cho sự phát triển không đồng đều, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng và lợi thế. 

Như vậy, dù vận hành theo mô thức nào, kiểu quản lý nào cũng cần phải hướng đến và tuân thủ các nguyên tắc phát triển đô thị bền vững, lấy người dân làm chủ thể phục vụ, lấy đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, lấy sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo; người lãnh đạo, quản trị đô thị phải cầu thị, nắm bắt nhu cầu và tạo điều kiện để các tầng lớp trong đô thị thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao.

Vai trò của người đứng đầu trong mô hình chính quyền đô thị

Vị trí, vai trò

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, việc lựa chọn và xây dựng phương thức phát triển đô thị bền vững gắn với mô hình chính quyền đô thị là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, nhiều đô thị trong cả nước vẫn còn tồn tại những yếu kém về quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, trong đó có cả những yếu kém về nhận thức, tổ chức thực hiện, giám sát... Cụ thể, việc công bố, công khai quy hoạch xây dựng theo luật định của pháp luật chưa được thực hiện nghiêm ở một số địa phương. Nguyên nhân là do trình độ, năng lực của một số đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế; chưa thực hiện đúng vai trò của mình trong công tác quản lý xây dựng đô thị. Điều này dẫn đến tình trạng xây dựng không phép, trái phép làm cho kiến trúc của đô thị còn lộn xộn, không thống nhất. Mặt khác, công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý xây dựng đô thị còn quá chậm và còn nhiều bất cập. Một số chính quyền địa phương chưa làm tốt việc thực hiện phân cấp trong việc lập và quản lý quy hoạch, cấp giấy phép xây dựng và giảm thủ tục hành chính. 

Để giải quyết những vấn đề bất cập trên, vai trò của người đứng đầu chính quyền đô thị là rất quan trọng. Vì vậy, người đứng đầu chính quyền cần nhận thức rõ “sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị cốt lõi” của đô thị mà mình đang quản lý. Nói cách khác, cần có cơ chế phù hợp, tương xứng đối với người đứng đầu chính quyền, cũng như phân định rõ trách nhiệm và chịu trách nhiệm trong quản lý, điều hành nhằm phát huy các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của chính quyền đô thị.

Phẩm chất, năng lực

Người đứng đầu thành phố [hay thị trưởng] cần có phẩm chất, năng lực tiên quyết là có kinh nghiệm về quản lý nói chung và quản lý đô thị nói riêng. Đô thị là một hệ thống phức hợp đa chức năng về văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh… vì vậy, người đứng đầu chính quyền đô thị cần phải có năng lực về quản lý đô thị. Trong đó, kiến thức và tầm nhìn về quản lý đô thị phải được đặt lên hàng đầu trong tiêu chí lựa chọn người đứng đầu chính quyền đô thị. 

Thực tế đã chứng minh những hạn chế trong công tác quy hoạch và quản lý đô thị trong các đô thị lớn của nước ta trong thời gian qua phần lớn bắt nguồn từ sự thiếu thống nhất trong công tác quy hoạch, thiếu đồng bộ và quyết đoán trong công tác xây dựng, kiến thiết, quản lý, vận hành đô thị. Do đó, người đứng đầu chính quyền đô thị phải biết lắng nghe, biết tập hợp sức mạnh khoa học từ những nhà chuyên môn về đô thị, về quản lý hành chính, quản lý thị chính để từ đó xây dựng được những mối quan hệ từ các cơ cấu [mới và phức tạp] trong “thiết chế thị trưởng” [mối quan hệ giữa cơ cấu tư pháp, cơ cấu hành chính, cơ cấu các cơ quan đại diện của thành phố; mối quan hệ giữa các tổ chức chính trị - xã hội]; các mối quan hệ từ các chủ thể lợi ích mới; các thiết chế mới của đô thị và đặc biệt là tư duy quản lý mới. Xây dựng và vận hành mô hình chính quyền đô thị hay phương thức quản lý kiểu mới về đô thị phải vừa phù hợp với tình hình quản lý hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa, vừa đảm bảo mục tiêu quản lý của Nhà nước trong điều kiện cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý, về dân số, văn hóa, thể chế… 

Thực tế quá trình thành lập và quản lý một số mô hình chính quyền đô thị ở nước ta thời gian qua cho thấy, đã và đang có những hạn chế như: sự gia tăng dân số cơ học quá nhanh ở một số đô thị; bất cập giữa nhu cầu về nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng với sự cung ứng nguồn nhân lực từ thị trường lao động và biến động dân số; giữa năng lực tổ chức, quản lý đô thị của đội ngũ quản lý hiện hữu với nhu cầu và đòi hỏi của phương thức quản lý đô thị kiểu mới; giữa cơ cấu kinh tế - xã hội với năng lực và trình độ điều hành của đội ngũ quản lý đô thị, giữa trình độ quản lý đô thị lạc hậu với nhu cầu hiện đại hóa, quốc tế hóa về phương thức quản lý phù hợp với tốc độ đô thị hóa cao; giữa mong muốn thay đổi mô thức quản lý, vận hành đô thị theo hướng bền vững với năng lực nội tại về khả năng kiến tạo, phát triển… những mâu thuẫn đó đã tạo nên sức ép khi phải tiến hành xây dựng và vận hành mô hình chính quyền đô thị, điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo, quản lý và các chuyên gia về đô thị cần nghiên cứu để có giải pháp hiệu quả.

Những yêu cầu và thực tiễn phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, trong đó có đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tư duy đổi mới và các nguồn lực, tiềm năng cho thấy chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định xây dựng và vận hành mô hình chính quyền đô thị là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; phát huy được tiềm năng, thế mạnh của các địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội để xây dựng đô thị xanh, đô thị thông minh, hiện đại và bền vững./.

---------------------------------------

Ghi chú:

[1] Trong những trường hợp cụ thể, chúng tôi gọi là “mô hình”, “mô thức”, “phương thức”, “thể chế” đều có một hàm nghĩa như nhau - kiểu tổ chức quản trị đô thị trong tình hình mới.

[2] Phạm Đi, Quản lý đô thị - một góc nhìn, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, tr.6.

TS Phạm Đi - Học viện Chính trị khu vực III, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

tcnn.vn

Video liên quan

Chủ Đề