Vì sao có thể nói Tuyên ngôn độc lập là một văn bản chính luận giàu tính nhân bản

Mở:

Tác phẩm là một áng văn chính luận đặc sắc có sức lay động sâu sắc hàng triệu trái tim người dân Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay. Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm thể hiện ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn đầy cảm xúc.

Thân:

- Mở đầu bản Tuyên Ngôn, Hồ Chí Minh đã nêu cao nguyên lý thuộc về lẽ phải trong hai bản tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, làm cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Mục đích là nêu cao chính nghĩa của phương ta và đập tan luận điệu xảo trá của kẻ thù.

- Trong tuyên ngôn của mình Pháp và Mỹ đều khẳng định con người có quyền tự do, bình đẳng. Nhưng trên thực tế chúng lại thủ tiêu quyền lợi của người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã vận dụng ý nghĩa ấy vừa khéo léo vừa thuyết phục.

- Từ trích dẫn tuyên ngôn của Mỹ, Hồ Chí Minh viết: "Suy rộng ra câu ấy nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và quyền tự do. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã nâng lên thành quyền dân tộc. Có thể nói, đây là "phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa".

Lời tuyên ngôn của Hồ Chí Minh vừa khéo léo, kiên quyết, vừa thể hiện rõ mục đích của nhà chính trị, nhà quân sự đại tài.

Từ cơ sở pháp lí, tác giả đưa ra cơ sở thực tiễn. Đây là những bằng chứng sống, những lí lẽ của sự thực tác động trực tiếp và có sức thuyết phục mạnh mẽ.

+Thực dân Pháp khoe khoang "công lao khai hóa" thì bản tuyên ngôn đã vạch rõ những hành động trái với "nhân đạo và chính nghĩa" trong 80 năm thống trị nước ta. Chúng thủ tiêu mọi quyền tự do, chia rẽ dân tộc, thi hành chính sách ngu dân, vơ vét của cải, đầu độc dân ta bằng nạn đói. Mạch văn tự nhiên, laajp luận mạch lạc, sắc bén với những câu văn giàu sức gợi cảm.

+ Thực dân Pháp kể công "bảo hộ", tác giả vạch rõ không phải công mà là tội. Vì "trong năm năm, chúng bán nước ta cho Nhật hai lần". Bộc lộ rõ bản chất đê hèn khi "quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật".

- Từ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn, Hồ Chí Minh đưa ra những tuyên bố chính thức. Tuyên bố thoát li hắn mọi quan hệ với Pháp, khẳng định sự thống nhất nhân dân, tuyên bố nền độc lập tự do dân tộc.

Hệ thống lập luận mạch lạc, từ ngữ dứt khoát, lí lẽ chặt chẽ, hàng loạt câu văn song hành, mó xích tạo nên những điệp khúc âm vang, vừa hào hùng, vừa đanh thép.

Kết:

Tác phẩm xứng đáng là một áng văn chính luận mẫu mực của thời đại mới. Và đằng sau lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm vóc văn hóa lớn, sánh ngang tinh hoa văn hóa nhân loại.

Tuyên ngôn Độc lập Hồ Chí Minh

I. BÀI TẬP

1. Theo anh [chị], tính cổ điển và tính hiện đại của bút pháp đã được thể hiện như thế nào trong thơ của Hồ Chí Minh ? Lấy dẫn chứng từ một vài bài thơ của Người.

2. Có ý kiến cho rằng đọc Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, chúng ta bắt gặp một bức chân dung tự hoạ của tác giả. Anh [chị] hiểu ý kiến trên như thế nào ?

3. Vì sao có thể nói Tuyên ngôn Độc lập là một văn bản chính luận giàu tính nhân bản ?

4. Tuyên ngôn Độc lập không chỉ hấp dẫn bởi nghệ thuật nghị luận mẫu mực mà còn lay động sâu sắc người đọc bởi tình cảm thắm thiết của tác giả. Anh [chị] hiểu ý kiến trên như thế nào ?

II. GỢI Ý LÀM BÀI

1. – Bài làm phân tích những biểu hiện của tính cổ điển và tính hiện đại trong bút pháp của Hồ Chí Minh, kèm theo những dẫn chứng cụ thể để minh hoạ.

– Về tính cổ điển, nên chú ý đến:

+ Thế giới thiên nhiên quen thuộc : một ánh nắng ban mai, một vầng trăng đẹp, một ngọn núi cao, một dòng sông xanh, cảnh núi rừng hùng vĩ hay cánh đồng quê vội tiếng sáo chăn trâu,…

+ Giọng điệu phảng phất phong vị thơ Đường, Tống.

+ Nhân vật trữ tình cũng có phong thái ung dung tự tại, hoà hợp với thiên nhiên, coi thiên nhiên là người bạn tâm tình.

– Về tính hiện đại, nên chú ý đến thiên nhiên không tĩnh lặng như trong thơ xưa mà vui tươi, khoẻ khoắn, vươn tới sự sống ; con người trong thơ không phải là ẩn sĩ mà là chiến sĩ.

– Về dẫn chứng minh hoạ, nên lấy từ các bài thơ tiêu biểu như Chiều tối, Giải đi sớm, Cảnh khuya, Rằm tháng giêng,…

2. – Trước khi nói đến bức chân dung tự hoạ, cần lưu ý Bác không bao giờ muốn nói về mình. Đây là hình tượng khách quan của nhân vật trữ tình toát lên từ những trang nhật kí.

– Về bức chân dung tự hoạ, có thể có nhiều cách viết khác nhau, hoặc đi từ nội dung Nhật kí trong tù hoặc dựa theo lời bình luận của một số chính khách, nhà văn hoá lớn để dàn dựng bài viết [ví dụ, theo Viên Ưng, Bác là một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng”], tuy nhiên cần nêu lên mấy ý chính sau đây :

+ Một bản lĩnh thép trước mọi gian nguy, bất trắc [“Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”].

+ Một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên và nỗi đau của cuộc đời và con người [Ngắm trăng, Giải đi sớm, Chiều tối, Người bạn tù thổi sáo,…].

+ Một con người hết lòng yêu nước thương dân, luôn khắc khoải lo âu cho vận mệnh nước nhà khi thức cũng như trong mộng [Ốm nặng, Đêm không ngủ, Việt Nam có báo động,… ; Trăng thu, Đêm lạnh,…].

+ Một con người ung dung tự tại, luôn lạc quan tin tưởng [Giải đi sớm ; Mới ra tù, tập leo núi,…].

3. – Trước khi trả lòi yêu cầu chính của đề [tính nhân bản], nên nói qua các giá trị chính trị, lịch sử, pháp lí,… của Tuyên ngôn Độc lập.

– Về nội dung chính là tính nhân bản, cần nêu được một số ý chính sau đây :

+ Khẳng định quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng của con người và của mọi dân tộc.

+ Lên án những tội ác đối với con người về các mặt : chính trị, luật pháp, văn hoá, kinh tế,…

+ Xót xa trước những đau thương của nhân dân Việt Nam dưói ách đô hộ của thực dân Pháp [dân ta chịu hai tầng xiềng xích… dân ta càng cực khổ, nghèo nàn… hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói…].

+ Đề cao những hành vi nhân đạo và khoan hồng của người Việt Nam đối với người Pháp.

+ Lên án những hành vi hèn hạ, lật lọng của thực dân Pháp, khẳng định hành động dũng cảm đứng lên giành quyền sống cũng như quyết tâm giữ vững quyền độc lập, tự do của người Việt Nam.

4. – Lâu nay, khi phân tích Tuyên ngôn Độc lập, nhiều người chỉ khai thác phương diện nghệ thuật nghị luận mẫu mực mà coi nhẹ hoặc bỏ qua một phương diện quan trọng khác là nội dung tình cảm, chất văn của văn bản. Chế Lan Viên sớm chú ý đến phương diện thứ hai này trong bài viết Trời cao xanh ngắt sáng Tuyên ngôn.

– Theo yêu cầu của đề, khi làm bài này, anh [chị] cũng cần đề cập đến phương diện thứ nhất nhưng trọng tâm là phương diện thứ hai.

– Về sức lay động của những “tình cảm thắm thiết” của bản tuyên ngôn, nên chú ý đến mấy ý chính sau đây:

+ Thái độ căm phẫn của tác giả khi vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta [Chúng thi hành… Chúng lập ra… Chúng thẳng tay… Chúng ràng buộc… Chúng dùng… Chúng cướp… Chúng giữ độc quyền… Chúng đặt ra… Chúng không cho…].

+ Tình cảm xót thương của tác giả khi nói đến những nỗi đau của dân tộc ta [tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu… nòi giống ta suy nhược… dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều…].

+ Tình cảm thiết tha, mãnh liệt ; thái độ cương quyết, đanh thép khi nói đến quyền được hưởng tự do, độc lập… của nhân dân Việt Nam cũng như quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập dân tộc [Sự thật là… Sự thật là… Chúng tôi tin rằng… quyết không thể không công nhận… Một dân tộc đã gan góc… một dân tộc đã gan góc… dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!].

+ Bài văn toát lên khát vọng tự do, độc lập, ý chí mãnh liệt của tác giả và cũng là khát vọng muôn đời của dân tộc ta.

Tất cả những tình cảm trên được biểu lộ qua một giọng điệu đặc biệt: khi thì nồng nàn thiết tha, khi thì xót xa thương cảm, khi thì hừng hực căm thù, khi thì hùng hồn, đanh thép,…

Related

Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập

  • Khái quát chung về văn bản Tuyên ngôn độc lập
  • Dàn ý phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập
  • Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 1
  • Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 2
  • Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 3

Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập sẽ giúp bạn hiểu thêm về nghệ thuật trong văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua bản "Tuyên ngôn độc lập". Hy vọng tài liệu hữu ích cho việc học tập và giảng dạy của các bạn.

  • Ôn thi đại học môn văn theo chuyên đề: Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
  • Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh

Đề bài: Phân tích giá trị lịch sử của Tuyên ngôn độc lập. Nêu một vài cảm nhận của anh [chị] về phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập này.

Khái quát chung về văn bản Tuyên ngôn độc lập

1. Mục đích sáng tác

Chính thức tuyên bố trước quốc dân, trước thế giới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Ngăn chặn âm mưu chuẩn bị chiếm lại nước ta của bọn đế quốc thực dân.

Tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta suốt 80 năm qua và tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, xóa bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Khẳng định ý chí của cả dân tộc Việt Nam kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của tổ quốc.

2. Giá trị lịch sử

"Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử đúc kết nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt Nam về quyền độc lập, tự do, cũng là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh gần một trăm năm của dân tộc ta để có quyền thiêng liêng đó.

Bản tuyên ngôn đã tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam và mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập, tự do, kỷ nguyên nhân dân làm chủ đất nước.

3. Giá trị văn học

“Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn yêu nước lớn của thời đại. Tác phẩm khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập dân tộc gắn liền với quyền sống của con người, nêu cao truyền thống yêu nước, truyền thống nhân đạo của Việt Nam.

“Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng tác phẩm ngắn gọn, cô đọng, gây ấn tượng sâu sắc. Kết cấu tác phẩm mạch lạc, chặt chẽ, chứng cứ cụ thể, xác thực, lập luận sắc bén, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ tác phẩm chính xác, gợi cảm, tác động mạnh mẽ vào tình cảm, nhận thức của người nghe, người đọc.

Dàn ý phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác phẩm và tác giả Hồ Chí Minh

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh ra đời của Tuyên ngôn độc lập:

+ Được viết khi Bác Hồ từ Việt Bắc trở về ngôi nhà tại số 48 Hàng Ngang Hà Nội ngày 26/8/145, sau khi quân ta làm chủ Hà Nội ngày 19/8/1945.

+ Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đứng trước hàng triệu người Việt Nam tại quảng trường Ba Đình, đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

b. Ý nghĩa:

+ Tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố với cả thế giới sự ra đời của nhà nước Việt Nam, độc lập, có chủ quyền.

+ Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xóa bỏ quyền lợi của Pháp tại Việt Nam.

+ Khẳng định lòng quyết tâm của dân tộc ta quyết bảo vệ Tổ quốc tới cùng

=> Tuyên ngôn độc lập được viết bằng ngòi bút chính luận cực kì xuất sắc của Hồ Chí Minh, khẳng định phong cách nghệ thuật văn chính luận của Người.

c. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Người:

- Người thể hiện lối viết văn ngắn gọn, cực kì dễ hiểu:

+ Bản Tuyên ngôn chỉ dài chưa đầy hai mặt giấy, với 1010 chữ, 49 câu nhưng đầy đủ nội dung, từ cơ sở pháp lý để khẳng định quyền độc lập dân tộc của Việt Nam.

+ Nội dung cô đọng trong từng câu chữ, toàn bộ lịch sử Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật hơn tám mươi năm được đúc kết trong 622 chữ.

+ Bác dùng 186 chữ để khẳng định quyền độc lập, tự do của Việt Nam, dựa trên những cơ sở pháp lý quốc tế, qua hai bản Tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ.

+ 58 chữ, Bác dùng để xóa gọn những ràng buộc của Pháp với ta mà Pháp đã tạo dựng ngót một thế kỷ.

+ 144 chữ Bác dùng để khẳng định sức mạnh ý chí, tinh thần của dân tộc Việt Nam, tương lai của Tổ quốc Việt Nam.

=> Mỗi vấn đề Người đều thể hiện hết sức ngắn gọn, hết sức dễ hiểu và giản dị, bằng những bằng chứng không thể chối cãi.

- Ngôn ngữ Người dùng vô cùng đơn giản, mộc mạc, dễ hiểu, dễ nghe:

- Lập luận trong Tuyên ngôn độc lập vô cùng chặt chẽ, thuyết phục người nghe:

+ Về quyền độc lập của dân tộc, Bác dẫn ra những lời trích của hai bản Tuyên ngôn của hai đất nước văn minh là Pháp và Mỹ để chứng minh cho luận điểm của mình

+ Về tội ác của giặc, Bác đưa ra cụ thể tội ác tàn bạo của chúng trong từng khía cạnh và nhấn mạnh hậu quả mà chúng để lại.

=> Bằng ngòi bút lập luận cực kì sắc sảo của mình, Hồ chí Minh đã đanh thép buộc tội kẻ thù và sự thành công của Cách mạng tháng Tám chỉ với chín chữ "Pháp chạy ...thoái vị", khai sinh ra một đất nước mới: nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

+ Cuối bản Tuyên ngôn, Người dùng băn câu để khẳng định lòng yêu nước, sự quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam bảo vệ nền độc lập chủ quyền.

- Ngoài ra, Người còn thể hiện phong cách ở sự đa dạng về bút pháp khi viết Tuyên ngôn độc lập.

d. Kết luận chung:

- Ngòi bút chính luận của Hồ Chí Minh hết sức đặc sắc, có phong cách rất riêng

3. Kết bài

- Khẳng định lại vấn đề

Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 1

19.8.1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23.8 tại Huế, trước 15 vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 15.7, hơn 80 vạn đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài 80 năm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.

Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập. Dự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.

Đọc bản Tuyên ngôn Độc lập đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và hỏi: “Tôi nói đồng bao nghe rõ không?” Tức thì một tiếng “có” của một triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm.

“Việt Nam độc lập muôn năm”. Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chí Minh vừa kết thúc bản Tuyên ngôn:

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Có thể nói: bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn, khát vọng ý chí và sức mạnh Việt Nam. Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.

Nếu như Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", Bình ngô đại cáo khẳng định một chân lý lịch sử: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", thì Tuyên ngôn Độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản "Tuyên ngôn" nổi tiếng thế giới.

Câu thứ nhất trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776:

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc".

Câu thứ hai rút từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra" "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và tự do", và đi tới khẳng định: "đó là những lẽ phải không ai chối cãi được." Qua đó, ta thấy lý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam và độc lập dân tộc. Và "Độc lập – Tự do – Hạnh phúc" là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 2

“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước ta. Đồng thời bản tuyên ngôn cũng thể hiện phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh trong văn chính luận.

Đây không chỉ là văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử trọng đại mà còn là áng văn chính luận tiêu biểu, mẫu mực. Hồ Chí Minh đã quan niệm, văn chương phải có sức chiến đấu, phục vụ cho cách mạng. Khi cầm bút, Người bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để từ đó quyết định nội dung và hình thức tác phẩm.

Ở bản “Tuyên ngôn độc lập”, đối tượng mà bản tuyên ngôn này hướng đến là đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang lăm le xâm lược nước ta lần nữa. Bằng những lí lẽ, lập luận đanh thép, Hồ Chí Minh đã nêu ra những tội ác của thực dân Pháp và khẳng định rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Lối lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn, bằng chứng thuyết phục, Hồ Chí Minh đã tố cáo, vạch trần tội ác của thực dân Pháp gây ra cho nước ta. Chúng thi hành những luật pháp dã man, lập ba chế độ khác nhau ở ba miền để ngăn cản việc thống nhất đất nước và ngăn cản tình đoàn kết của nhân dân ta. Chúng thi hành chính sách ngu dân, dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, đặt ra nhiều thứ thuế vô lí, trong 5 năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học, chúng “tắm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong bể máu”, chúng còn gây ra tội diệt chủng khi khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói trong nạn đói 1945. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp liệt kê để tố cáo những tội ác của thực dân Pháp. Tất cả những dẫn chứng trên đã làm cho bản tuyên ngôn trở nên đanh thép, hùng hồn hơn. Đó cũng là những bằng chứng không thể chối cãi được về những tội ác mà thực dân Pháp gây ra cho đất nước ta.

Bên cạnh đó, phong cách trong văn chính luận của Người còn được thể hiện ở lối viết ngắn gọn, hàm súc, cách dùng từ chính xác, hình ảnh xúc động như “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”. Từ “tắm” có giá trị biểu cảm rất cao. Biện pháp nhân hóa đã nhấn mạnh tội ác và sự đàn áp của chúng đối với nhân dân ta.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn sử dụng hàng loạt các động từ mạnh: “thẳng tay chém giết”, “xóa bỏ hết”, “thoát li hẳn”… cùng với các cấu trúc trùng điệp làm câu văn trở nên uyển chuyển, mềm mại nhưng hết sức đanh thép.

Như vậy, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh trong văn chính luận. Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm được thể hiện chủ yếu ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc.

Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập mẫu 3

Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, Người không chỉ là một nhà chính trị quân sự xuất sắc mà còn là thi sĩ, nhà văn với những tác phẩm để lại dấu ấn cực kì đậm nét. Sự nghiệp sáng tác của Người khá đồ sộ, không chỉ các tác phẩm truyện, kí mà còn là thơ văn và các bài chính luận rất đặc sắc. Các tác phẩm của Người đều ghi lại một phong cách rất riêng, rất Hồ Chí Minh. Với thơ ca, Người chau chuốt trong từng lời thơ, vừa đẹp lại vừa giản dị, với truyện, Người viết một cách hài hước, nhưng đầy sự châm biếm, mỉa mai, còn với các áng văn chính luận, Người lại có một phong cách rất khác biệt ngắn gọn, súc tích nhưng đầy thuyết phục. Và điều đó được thể hiện thật rõ qua tác phẩm Tuyên ngôn độc lập mà Người đã đọc vào ngày 2/9/1945.

Trong lịch sử của dân tộc ta, có tới ba áng văn thơ được công nhân là những bản Tuyên ngôn độc lập của đất nước, đó là Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Thế nhưng, nếu như hai tác phẩm trên được viết bằng thể loại thơ thì Hồ Chí Minh lại viết tác phẩm của mình bằng lối văn chính luận.

Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh được viết ngay sau khi Người từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945, Người đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập ấy trước toàn thể người dân Việt Nam tại quảng trường Ba Đình lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

Tuyên ngôn độc lập là lời tuyên bố của nhân dân Việt Nam với thế giới sự ra đời của một nhà nước non trẻ nhưng có độc lập, có chủ quyền, dân tộc Việt Nam đã được tự do sau tám mươi năm Pháp thuộc. Nó còn là lời tố cáo đanh thép tội ác của kẻ thù xâm lược với đất nước và nhân dân Việt Nam và khẳng định sự đoàn kết, lòng yêu nước và tình thần quyết chiến của dân tộc ta với bất cứ kẻ thù xâm lược nào!

Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập bằng ngòi bút chính luận cực kì xuất sắc của mình, khẳng định phong cách nghệ thuật văn chính luận rất riêng của Người. Đó là lối viết ngắn gọn, súc tích nhưng đơn giản và dễ hiểu, được thể hiện bằng ngôn ngữ mộc mạc, giọng điệu mạnh mẽ, đanh thép. Đồng thời, Người cũng đưa ra những lập luận cực kì sắc bén, cực kì chặt chẽ và thuyết phục đối với người nghe. Và hơn thế, phong cách viết của Người còn được xen kẽ với đa dạng các loại bút pháp thể hiện.

Hồ Chí Minh luôn tâm niệm rằng, ngòi bút của mình là viết cho nhân dân, cho quần chúng, "viết cho đại đa số nhân dân đọc", "viết để phục vụ nhân dân", vậy nên mỗi tác phẩm của Người đều được chọn lựa kĩ càng câu chữ cũng như lối viết sao cho ngắn gọn nhất. Như bản Tuyên ngôn độc lập, một áng văn mà khai sinh ra một đất nước cũng chỉ dài có 1010 chữ và chỉ gồm 49 câu chữ ngắn ngủi, ấy vậy mà nó đã hàm chứa những nội dung cực kì sâu sắc. Không chỉ là sự đúc kết một cách cô đọng nhất nội dung của cuộc Cách mạng tháng Tám mà còn là một lời tuyên bố mà người dân Việt Nam ta đã mong đợi gần ngót một thế kỷ nay.

Nội dung của Tuyên ngôn độc lập được cô đọng trong từng câu từng chữ, không hề có một chữ thừa nào trong văn bản này. Trước tiên, khi lấy cơ sở để khẳng định quyền độc lập của đất nước ta, Bác đưa ra cơ sở pháp lý quốc tế đó là hai bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Pháp. Chỉ với 186 chữ, Người đã dùng hai bản Tuyên ngôn kia làm tiền đề khẳng định quyền được độc lập, được tự do, được hạnh phúc của người dân Việt Nam.

Không chỉ thế, Người còn tiếp tục đưa ra những lời lẽ để tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã làm với nước ta trong suốt hơn tám mươi năm qua. Những tội ác ấy được thể hiện ở tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Ở mỗi phần ấy, Người chỉ dùng một câu nêu luận điểm rồi diễn giải bằng bốn hoặc năm câu nhưng đã tóm gọn được hết những ý chính tội ác của thực dân Pháp. Người còn đặt rõ ràng từng phần để người nghe hiểu rõ hơn về những điểm chính ấy. Từng tội ác của bè lũ thực dân xâm lược đều hiện lên một cách rõ ràng, cực kì đanh thép, ngắn gọn nhưng rõ ràng.

Và cũng chỉ bằng 58 chữ, Người đã dùng để xóa bỏ hoàn toàn những ràng buộc, những hiệp định mà thực dân Pháp đã áp lên nước ta ngót một thế kỉ "Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Ngắn gọn nhưng đầy sức thuyết phục, súc tích và vô cùng rõ ràng, Việt Nam đã chính thức thoát khỏi ách đô hộ mà thực dân Pháp đã cất công xây dựng lên đất nước ta bao lâu nay

Không chỉ vô cùng ngắn gọn, Hồ Chí Minh còn sử dụng trong bản Tuyên ngôn ngôn ngữ vô cùng dễ hiểu, bởi Người nói "viết để phục vụ quần chúng nhân dân". Đặt vào hoàn cảnh khi ấy, đất nước ta vừa mới đi qua chiến tranh, với hơn hai triệu đồng bào chết đói, còn nghèo đói, lạc hậu, vậy nên không phải ai cũng có điều kiện được học hành, chính vì thế, Người đã diễn giải bằng ngôn ngữ mộc mạc nhất, dễ hiểu nhất và đọc đến tận tai, để cho tất cả mọi người dân Việt Nam đều có thể hiểu được ý nghĩa của bản Tuyên ngôn này. Còn đối với kẻ thù, mỗi câu mỗi chữ mà Người viết là một mũi tên, một loại vũ khí mạnh mẽ và sắc bén đánh lên bè lũ cướp nước và bán nước.

Mỗi từ ngữ đều được Hồ Chí Minh chọn lựa cực kì kĩ lưỡng để nó mang một tầng ý nghĩa lớn, ví như từ "tắm". Đây là một trong những từ ngữ đắt giá nhất tác phẩm, "chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong bể máu"! Một từ thôi nhưng đã nêu bật lên được sự tàn ác của kẻ thù xâm lược đối với nhân dân ta, sự đàn áp dã man của chúng lên những cuộc nổi dậy. Vậy nên mới nói, mỗi lời, mỗi câu , mỗi chữ trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đều khiến người ta phải khâm phục và tự hào.

Không chỉ là sự ngắn gọn, súc tích với ngôn từ ý nghĩa, dễ hiểu, văn chính luận của Hồ Chí Minh nói chung và tác phẩm Tuyên ngôn độc lập nói riêng còn khiến người ta phải trầm trồ khi có những lập luận sắc bén, thuyết phục, đặc biệt ở đoạn nêu lên tội ác của thực dân Pháp.

Bác vạch trần bộ mặt của thực dân Pháp với những tội ác dã man chúng gây nên cho dân tộc Việt Nam qua những khía cạnh khác nhau từ chính trị, kinh tế đến xã hội. Bác đưa ra những luận điểm rõ ràng rồi diễn giải chúng bằng những dẫn chứng thuyết phục.

Bác ví trên phương diện chính trị, thực dân Pháp đã "tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào". Để chứng minh cho luận điểm này, Người đưa ra những bằng chứng như sự thi hành luật pháp dã man ở ba miền, "chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học", "chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu", ...

Còn về phương diện kinh tế, Người cũng đưa ra một luận điểm đó là "chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thống, nước ta xơ xác, tiêu điều". Sau đó, bằng phương pháp liệt kê, Người đưa ra một loạt những chứng cứ xác thực để chứng minh cho luận điểm của mình như "chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu", "chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý", ...

Có thể nói, mỗi lập luận của Người đều vô cùng sắc sảo, những bằng chứng và lý lẽ thấu tình đạt lý. Người đã minh chứng cho sự tàn ác của thực dân Pháp - một đất nước tự nhận là đưa văn minh đến thuộc địa của mình, tự nhận mình là "nước Mẹ" mà lại đối xử dã man với "đứa con" của mình. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn khẳng định sự phản bội của "nước Mẹ" với đứa con Việt Nam khi Người đưa ra bằng chứng hai lần Pháp đã dâng Việt Nam cho Phát xít Nhật "trái lại, trong vòng năm năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho NHật" khiến cho nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích và khiến chúng ta phải chịu một tổn thất vô cùng nặng nề "hai triệu đồng bào ta bị chết đói'.

Có thế nói bằng ngòi bút chính luận xuất sắc của mình, Hồ Chí Minh đã dùng những lập luận sắc sảo, lý lẽ đanh thép mà buộc tội kẻ thù xâm lược, khiến chúng không còn một lời nào có thể biện hộ nữa. Không chỉ thế, Người còn đi tới một kết luận, một lời khẳng định chỉ với chín chữ ngắn ngủi nhưng chứa đựng toàn bộ kết tinh sự chiến đấu của dân tộc ta trong cuộc Cách mạng tháng Tám vừa qua "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị" - bức tranh về toàn bộ kẻ thù được dựng lên và hình ảnh một đất nước mới được ra đời.

Những lập luận của Người còn thể hiện ở những dòng cuối trong bản Tuyên ngôn ấy, chỉ với năm câu, Người khẳng định một cách mạnh mẽ, đanh thép rằng "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Đó là ý chí, là niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Có thể nói, chỉ với 49 câu, với những lập luận sắc sảo, ngôn từ chặt chẽ, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với cả thế giới sự khai sinh của một Nhà nước non trẻ nhưng có đầy đủ quyền độc lập và tự do. Người sử dụng những cơ sở pháp lý quốc tế để chứng minh cho sự tự do ấy.

Ngoài ra, phong cách nghệ thuật văn chính luận Hồ Chí Minh còn được chú ý bởi bút pháp cực kì đa dạng. Người sử dụng bút pháp cổ điển pha lẫn với hiện đại để chứng minh cho những luận điểm nêu ra trong bản tuyên ngôn. Ví như câu đầu tiên "Hỡi đồng bào cả nước", đó như một lời hiệu triệu mang âm hưởng của Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Văn chính luận của Hồ Chí Minh - bản Tuyên ngôn độc lập, đã để lại trong lòng chúng ta những dấu ấn về phong cách vô cùng đậm nét. Đó là dấu ấn về một văn bản ngắn gọn, nhưng vô cùng đầy đủ nội dung, ngôn ngữ giản dị nhưng vô cùng đanh thép khi tố cáo tội ác của kẻ thù, dấu ấn về cách lập luận cực kì sắc sảo với những lý lẽ không thể chối cãi và về bút pháp được kết hợp vô cùng đa dạng.

Bác Hồ - Người không chỉ mang đến cho dân tộc ta con đường đi tươi sáng, mà con ghi lại dấu ấn trong lòng người yêu văn thơ một phong cách nghệ thuật khác biệt, cái chất riêng của Người. Có thể nói, Người chính là tấm gương để mỗi thế hệ chúng ta noi theo khi viết bất kì một văn bản nào đó, viết cho nhân dân, viết để phục vụ nhân dân, dễ hiểu, dễ nghe, ngắn gọn nhưng cũng thật đầy đủ.

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản Tuyên ngôn độc lập, mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 12. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 12, tiếng Anh 12, đề thi học kì 1 lớp 12, đề thi học kì 2 lớp 12...

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12để có thêm tài liệu học tập nhé

Video liên quan

Chủ Đề