Vì sao hàn mặc tử bị bệnh phong

Một trong những mối tình thơ, nàng thơ của Hàn Mặc Tử là Mộng Cầm. Người đẹp này là niềm cảm hứng thi ca và tên tuổi nàng đã đi vào nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử. Những câu chuyện tình huyễn hoặc giữa hai người đã trở thành giai thoại gây ra những cuộc tranh luận không dứt trong nhiều năm qua. Dư luận đương thời còn cho rằng chính từ những cuộc dạo chơi với Mộng Cầm mà Hàn bị nhiễm bệnh phong cùi.

Mối tình lãng mạng bi thương Hàn Mặc Tử – Mộng Cầm

Mộng Cầm là bút danh của cô gái tên Huỳnh Thị Nghệ, sinh năm 1917 tại Nghệ An, quê Quảng Ngãi.

Nghệ làm thơ từ rất sớm, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Năm 16 tuổi cô đã có thơ đăng ở báo Công Luận và báo Sài Gòn với bút hiệu Mộng Cầm.

Cũng chính trong thời điểm này, Hàn Mặc Tử từ Quy Nhơn vào Sài Gòn phụ trách trang văn chương cho các tờ Trong khuê phòng, Công Luận, Sài Gòn. Thỉnh thoảng Hàn nhận được những bài thơ ký tên là Mộng Cầm từ Phan Thiết gửi vào. Ông đã chọn đăng và xúc động trước tâm hồn thơ của cô gái trẻ, và để tâm tìm kiếm.

Thi xong sơ học, Mộng Cầm theo người cậu ruột ra làm việc tại bệnh viện Mũi Né. Một lần Mộng Cầm tình cờ đọc tờ báo Sài Gòn của một bệnh nhân đem đến có dòng nhắn tin: “Mộng Cầm em ở đâu, cho tôi biết địa chỉ - Hàn Mặc Tử”. Dòng chữ ngắn ngủi thực sự làm Mộng Cầm xúc động.

Chân dung nàng thơ Mộng Cầm thời trẻ

Đêm ấy cô thức suốt đêm suy nghĩ và viết thư hồi đáp. Đúng một tuần lễ sau, Hàn đi xe lửa ra Phan Thiết. Và tình yêu bắt đầu. Suốt mấy năm ròng, hàng tuần vào chiều thứ sáu, Mộng Cầm và Hàn mặc Tử lại gặp nhau.

Trong thời gian này, Hàn đã có những dấu hiệu bệnh nhưng ông không quan tâm, cho đó là bệnh thông thường. Khi bà Bút Trà xin được giấy phép ra báo Sài Gòn mới và mời Hàn về làm, ông mới quyết định điều trị bệnh để chuẩn bị sức khỏe cho công việc mới.

Mối tình tan vỡ khi Hàn có dấu hiệu bệnh phong, phải quay về Quy Nhơn. Mộng Cầm lập gia đình với người khác, trong lúc Hàn chơi vơi trong đau đớn bệnh tật và tan vỡ tình yêu.

Mối tình tan vỡ trong lưu luyến của cả hai và cả hàng triệu con tim bạn đọc yêu thơ được nâng niu tôn trọng như thế.

Thế nhưng 20 năm sau, đến năm 1961, trong bài trả lời phỏng vấn đăng ở tạp chí Phổ thông của nhà văn Nguyễn Vĩ, Mộng Cầm đã phủ nhận hoàn toàn chuyện tình cảm giữa mình và Hàn. Theo cách nói của bà, đó chỉ là tình yêu một chiều đơn phương của Hàn, còn bà chỉ xem ông như bạn.

Người đọc bàng hoàng hụt hẫng trước thái độ này, người ta càng thương cảm cho mối tình bi lụy của Hàn, và phần nào đó mất mát về hình ảnh đẹp của nàng thơ Mộng Cầm lãng mạn mà họ hằng ái mộ.

Bị lây bệnh sau lần mắc mưa nghĩa địa hay bị “hồn ma báo oán”?

Vì sao Mộng Cầm lại phủ nhận mối tình đẹp đã đi vào thơ ca, văn học của mình với Hàn? Có thể vì nhằm bảo vệ hạnh phúc của gia đình mình trong thời điểm ấy, trước những ám ảnh của bóng mây quá khứ. Nhưng cũng có thể do những dư luận đồn đoán quá cay độc về nguyên nhân khởi phát căn bệnh phong của Hàn được nhiều nguồn đưa ra.

Thời đó, người ta kể rằng một hôm từ Sài Gòn ra Phan Thiết, Hàn và Mộng Cầm đi dạo chơi ở lầu Ông Hoàng gần Mũi Né. Đến lúc chiều tối trở về, băng qua cánh đồng thì gặp cơn mưa giông. Cả hai chạy vào trú trong một căn chòi bên đường.

Mưa mỗi lúc một lớn, trời tối đen như mực. Từ trong căn chòi, hai người nhìn ra bên ngoài thấy có những quả cầu lửa màu xanh dưới đất vùn vụt bay lên. Những quả cầu lửa chớp tắt liên tục. Đồng thời lại nghe tiếng rền vang ầm ầm như ai lăn thùng sắt trên đường đá. Hai người rất hoảng sợ, ngồi ôm nhau run rẩy trong căn chòi.

Một lúc trời quang mây tạnh, bước ra khỏi nơi trú mưa thì mới biết mình đang ở cạnh những ngôi mộ ai mới chôn. Trở về Sài Gòn ít hôm, Tử thấy ngứa ngáy khó chịu trong người. Một thời gian thì nổi lên những vết đỏ như đồng xu ở trên lưng, sau lan dần ra khắp người. Căn bệnh phong xuất hiện từ đó.

Theo quan niệm mê tín, ấu trĩ của dư luận thời đó, bệnh phong là do nhiễm phải hơi dưới ngôi mộ mới bốc lên trong lúc mưa giông. Nhiều người tin điều đó là có thật nên càng trách Mộng Cầm nhiều hơn, rằng nàng đã gián tiếp đưa chàng đến chỗ bệnh tật rồi lại vội vã bỏ ra đi.

Ngoài ra, có một câu chuyện hoang đường khác cũng liên quan đến căn bệnh phong, được truyền tụng trong dân gian thời ấy. Đó là sự “báo thù” của những người chiến binh Chămpa chiến bại ở thành Đồ Bàn khi xưa chỉ nhắm vào những thanh niên đẹp trai, học giỏi.

Lời đồn đại này làm cho người dân thành phố Quy Nhơn thời ấy luôn sống trong hồi hộp lo âu. Lâu lâu ở thành Quy Nhơn, thấy vắng bóng một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai là mọi người đồn đoán là anh ta vừa phát bệnh phong, phải đi trốn.

Lời đồn này đã có từ xa xưa, trở thành một truyền thuyết lưu truyền qua nhiều thế hệ. Người dân Bình Định, đặc biệt là Quy Nhơn, bao giờ cũng nơm nớp lo sợ sự báo thù ghê gớm của một “ma Hời”.

Cuối đời nhìn lại, thừa nhận tình yêu

Sau một thời gian dài im lặng, đến cuối đời, nàng thơ Mộng Cầm đã nhìn lại, đã không còn phủ nhận tình yêu với Hàn mà chân thành trân trọng nâng niu những hình ảnh những kỷ niệm và người yêu tài hoa bạc mệnh của mình.

Chân dung và bút tích nhà thơ Hàn Mặc Tử

Dzũ Kha, một kiến trúc sư, một người yêu thơ Hàn đến mức dành cả phần đời để sưu tầm hiện vật, thư từ di cảo và cả những ký ức về nhà thơ đã gặp lại Mộng Cầm và kể lại như sau:

“Đó là vào năm 1999, lúc này bà đã ở vào tuổi 83, nhưng còn khá mạnh khỏe và minh mẫn. Biết tôi là người yêu thơ Hàn, bà tâm sự với tôi rất nhiều về những kỷ niệm của bà với Hàn. Điều khá dễ thương, là cho đến bây giờ bà vẫn một “anh Trí”, hai “anh Trí” như thuở nào khi nói về Hàn Mặc Tử, khiến đôi lúc tôi cứ phải che miệng cười thầm.

Bà kể hằng tuần, Hàn vẫn đều đặn về Phan Thiết thăm bà. Hai người đã có những ngày tháng đầy mộng đẹp bên nhau. Họ đưa nhau đi khắp các vùng trời tình yêu.

Bà nói với lòng đầy thương cảm: “Tính anh Trí rất hiền hậu và nhút nhát, cả cái nắm tay cũng rụt rè…”. Nhưng có lẽ, chính vì thế, mà tình yêu của họ thơm nồng hương tinh khiết, đã thăng hoa vào thơ, thành niềm chan chứa nhớ thương”.

Bài thơ “Chan chứa” của Mộng Cầm gửi cho Hàn đã ra đời trong khoảng thời gian này. Xúc động với nỗi nhớ trào dâng, bà đã tự tay viết tặng Dzũ Kha bài thơ này làm kỷ niệm, nhắc nhiều đến những kỷ niệm của cái thuở ban đầu, cái thuở "xuân mỗi tuần".

Nay những người trong cuộc đều hóa thành thiên cổ nhưng câu chuyện tình đẹp của họ sẽ để lại cho đời những áng văn bất hủ, và lầu Ông Hoàng từ một phế tích hoang vu đã đi vào văn học, trở thành điểm du lịch hấp dẫn kỳ thú.

Theo Xa lộ pháp luật

Tài hoa bạc mệnh, cuối đời Hàn Mặc Tử cô độc, đau đớn vì bệnh 'phong cùi'!

[VOH] – Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh, cho đến tận bây giờ các tác phẩm của ông với sự lạ lẫm, độc đáo vẫn luôn là những vì tinh tú trên bầu trời thơ ca Việt Nam.

Hàn Mặc Tử [22/9/1912 – 11/11/1940] là nhà thơ nổi bậc của Việt Nam, là người khởi xướng nên trường thơ loạn, đi tiên phong trong dòng thơ lãng mạn hiện đại.

Nói về Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên ca ngợi: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.

Hàn Mặc Tử - Ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam

Đôi nét về Hàn Mặc Tử:

  • Tên thật: Nguyễn Trọng Trí
  • Bút danh: Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần
  • Quê quán: Làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình
  • Cha: Nguyễn Văn Toản
  • Mẹ: Nguyễn Thị Duy
  • Giai đoạn sáng tác: 1928 – 1940
  • Trào lưu: Lãng mạn
  • Tác phẩm: Vội vàng chi lắm, Mùa Xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Bẽn Lẽn, Ngủ với Trăng, Thức khuya,…           

Ý nghĩa bút danh Hàn Mặc Tử:
Bút danh Hàn Mạc Tử của nhà thơ mang nghĩa là một chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Về sau những người bạn đã gợi ý anh nên vẽ thêm một nét trăng khuyết vào để tăng thêm phần lạnh lẽo cho sự cô đơn của con người trước thiên nhiên. Mặt trăng đó được Hàn Mặc Tử đặt vào chữ Mạc mà thành ra chữ Mặc, Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên". Và có vẽ như bút danh đã vận vào cuộc đời của nhà thơ tài hoa bạc mệnh, những năm tháng cuối đời Hàn Mặc Tử phải sống trong cảnh lẻ loi, đau đớn vì bệnh tật.

Câu chuyện cuộc đời Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử sinh ra với thân hình gầy guộc, ốm yếu, từ nhỏ tính tình hiền lành, ham học, vốn có lối sống giản dị và thích giao du với những người bạn có chung niềm đam mê thơ ca với mình. Hàn Mặc Tử bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ khi còn rất trẻ, lúc ấy nhà thơ mới chỉ 16 tuổi, và Phan Bội Châu chính là người có nhiều ảnh hưởng đến thơ ca của anh.

Năm 21 tuổi, Hàn Mặc Tử rời quê vào Sài Gòn lập nghiệp, trở thành phóng viên phụ trách mảng thơ cho tờ báo Công Luận, đây cũng là thời điểm ông và Mộng Cầm quen biết nhau. Mộng Cầm là một cộng tác của tờ báo, cô có niềm đam mê thơ ca và thường xuyên làm thơ gửi lên toà soạn. Dần dà, Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm thư từ qua lại, hai người tâm đầu ý hợp, Hàn Mặc Tử quyết định ra Phan Thiết gặp nàng thơ của mình và bắt đầu một chuyện tình lãng mạn.

Khi Hàn Mặc Tử 23 tuổi [năm 1935] trên cơ thể anh bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu của bệnh phong, nhưng rất nhẹ, Hàn Mặc Tử cho rằng đó chỉ là bệnh ngứa đơn thuần nên không mấy quan tâm. Đến năm 1936, Hàn Mặc Tử quay lại Sài Gòn lần 2, lúc này ông được nhận làm chủ bút cho tờ Phụ nữ tân văn, Hàn Mặc Tử mới nghĩ đến việc phải trị dứt hẳn căn bệnh “phong ngứa” mà vẫn chưa phát hiện bản thân mắc bệnh nan y, gọi là “phong cùi”. Thời điểm này cũng là lúc nhà thơ cho ra đời tập thơ "Gái quê" nổi tiếng.

Thời ấy phong cùi được xem là một căn bệnh truyền nhiễm, hầu như ai cũng có thành kiến với người mắc căn bệnh này, bệnh nhân bị hắt hủi, xa lánh và thậm chí là ngược đãi. Tin nhà thơ Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong cùi nhanh chóng lan rộng, gia đình lựa chọn đưa anh đi cách ly thay vì đi chữa trị ở Bệnh viện phong Quy Hòa.

Có một câu chuyện được kể lại liên quan đến căn bệnh của Hàn Mặc Tử: Một hôm Hàn Mặc Tử cùng Mộng Cầm đi dạo ở lầu Ông Hoàng [Phan Thiết] thì có đi ngang một nghĩa địa, ở đó có một ngôi mộ mới an táng thì mưa xuống. Hàn Mặc Tử nhìn thấy từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ, sau anh về nhà nghỉ và rồi sớm phát hiện ra mình mắc bệnh phong cùi.

Năm 1938 -1939, bệnh của Hàn Mặc Tử bộc phát dữ dội, cơ thể vô cùng đau đớn nhưng không ai nghe nhà thơ khóc than hay rên rỉ một lời, ông dồn nén tất cả nỗi đau và chỉ gào thét trong thơ. Nguyễn Bá Tín, em trai ruột của Hàn Mặc Tử khi nhớ về những năm tháng cuối đời của anh trai từng nói: “Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.”

Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong cùi, một căn bệnh nan y bị xa lánh, ghê sợ lúc bấy giờ

Sau cùng, Hàn Mặc Tử bỏ lại tất cả, quyết vào Bệnh viện phong Quy Hoà để chữa trị, sau khi thăm khám bác sĩ nhận định nội tạng nhà thơ hư hỏng bởi uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm. Vào 5 giờ 45 phút ngày 11/11/1940 Hàn Mặc Tử từ trần tại bệnh viện vì chứng kiết lỵ, lúc ấy nhà thơ chỉ mới 28 tuổi.

Xem thêm: Dù là thiên tài âm nhạc vì sao Wolfgang Amadeus Mozart lại có cuộc sống thiếu thốn, túng quẫn?

Chất thơ trong thơ của Hàn Mặc Tử

Từ những ngày đầu tiên chập chững bước vào con đường sáng tác, thơ của Hàn Mặc Tử đã mang màu sắc táo bạo, phá cách, gây tiếng vang lớn trong giới yêu thích thi ca. Với lối thơ nửa kín, nửa mở, trần tục, Hàn Mặc Tử khiến đọc giả phải suy nghĩ và nghiền ngẫm nhiều. Ông dùng con chữ một cách trừu tượng làm nên chiếc đòn bẩy để mà gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc rất riêng tư.

“Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối, Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”…

[Thức khuya]

“Trăng nằm sõng soài trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi Hoa lá ngây tình không muốn động Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi”

[Bẽn lẽn]

Những năm cuối đời, Hàn Mặc Tử sống lạnh lẽo, cô đơn cùng sự đau đớn cùng cực bởi bệnh “phong cùi”. Đôi bàn tay nhà thơ co quắp, khô cằn nhưng vẫn không ngừng miệt mài sáng tác, không ngừng cống hiến cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Có lẽ chính bởi những đau khổ trong cuộc đời, niềm khát khao cuộc sống, mà những tác phẩm của ông càng thêm sâu sắc, lạ lẫm, độc đáo nhưng cũng đớn đau và có phần điên loạn.     

“Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi? Bao giờ tôi hết được yêu vì, Bao giờ mặt nhật tan thành máu Và khối lòng tôi cứng tựa si?”

[Những giọt lệ]

Cái chết của nhà thơ Hàn Mặc Tử chính là sự mất mát lớn của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ, thế nhưng bằng ấy khoảng thời gian ngắn ngủi sống trên đời nhà thơ tài hoa cũng đã để lại rất nhiều những tác phẩm thơ ca bất hủ!

Video liên quan

Chủ Đề