Vì sao năm 1868 vua Minh Trị quyết định Duy tân nước Nhật

Mục lục

Trước cải cáchSửa đổi

Đến giữa thế kỷ XIX, sau hơn 200 năm thống trị, chế độ Mạc phủ Tokugawa lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt từ kinh tế, xã hội đến chính trị.

Kinh tếSửa đổi

  • Nông nghiệp: Đến giữa thế kỷ 19, Nhật Bản vẫn là một nước nông nghiệp duy trì cách sản xuất lạc hậu dựa trên nền tảng phong kiến. Dân làm ruộng phải chịu tô thuế nặng cộng với nạn mất mùa đẩy nông dân Nhật vào cảnh đói kém, bần cùng.
  • Công nghiệp: Trong khi nông nghiệp gặp nhiều khó khăn thì thương nghiệp ở Nhật lại bùng phát với lợi điểm hải cảng lớn, nhà buôn phát giàu nhanh chóng. Đó là cơ sở cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật Bản.

Xã hộiSửa đổi

Về mặt xã hội, Nhật Bản lúc bấy giờ vẫn duy trì chế độ đẳng cấp với quyền bính do các đại danh [daimyo] và võ sĩ Samurai nắm cả. Tuy nhiên vào thời kỳ này tình hình quốc nội đã yên, chiến tranh kết thúc nên địa vị của Samurai đã không còn như trước. Một số phải chuyển sang làm ruộng, làm thợ hay đi buôn. Trong khi đó tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu lên nhưng không có quyền lực về chính trị, lại bị đánh thuế nặng nên tạo ra mối xung khắc giữa tầng lớp thương nhân và giai cấp thống trị ngày càng lớn. Nông dân Nhật thì bị áp lực của cả hai phía, giới quý tộc và thương nhân.

Chính trịSửa đổi

Nền phong kiến Nhật Bản đúng ra là do vua Nhật [Thiên hoàng] quyết định nhưng trong thực tế thì do Mạc phủ Tokugawa thao túng từ đầu thế kỷ XVII đã hơn 250 năm. Phe bảo hoàng tôn quân lấy điều đó làm bất bình nên khơi ra phong trào lật đổ Mạc Phủ, trao lại quyền bính cho triều đình Thiên hoàng.

Đối ngoạiSửa đổi

Các nước tư bản phương Tây nhân lúc tình hình Nhật Bản rối ren đã làm áp lực, đòi Nhật Bản phải thông thương. Trong khi đó thì Mạc phủ Tokugawa theo đuổi chính sách Toả Quốc, tuyệt đối không chấp nhận cho người phương Tây đặt chân đến Nhật. Trước sự cương quyết của Mạc phủ chính phủ Hoa Kỳ gửi bốn chiến thuyền Mississippi, Plymouth, Saratoga, và Susquehanna vào Vịnh Tokyo và trao tối hậu thư đe dọa sẽ nổ súng. Mạc phủ bất đắc dĩ phải ký hiệp ước, chấp nhận các khoản như mở hai cửa biển Shimoda và Hakodate cho tàu thuyền Hoa Kỳ vào buôn bán. Hơn nữa nếu có tranh chấp giữa kiều dân ngoại quốc và dân Nhật thì phải cho tòa án Hoa Kỳ xét xử. Luật pháp của Nhật không có hiệu lực.

Sau Hoa Kỳ thì chiến thuyền của hải quân Anh, Pháp, và Đức cùng đòi Mạc phủ phải mở cửa thông thương với những nước đó và ký những hiệp ước bất bình đẳng tương tự. Nhật Bản tiếp tục nhượng bộ vì biết rằng thực lực không đủ để chống lại các nước châu Âu. Tuy nhiên dân tình thì không phục, cương quyết đòi phải đánh đuổi bọn Tây dương.

Hậu quảSửa đổi

Trước tình hình khủng hoảng từ các phía, Nhật Bản đứng trước hai lựa chọn. Một là giữ nguyên lề lối cổ truyền phong kiến và địa vị của Mạc phủ, nhưng có nguy cơ mất nước vì bị ngoại bang đô hộ. Hai là mở cuộc canh tân toàn diện mong học hỏi và tiếp thu kiến thức của phương Tây mà chuyển mình thành một đất nước hùng mạnh, sánh vai với các cường quốc phương Tây.

Mục lục

Thân thế và tuổi nhỏSửa đổi

Xu bạc 1 yen Minh Trị, đúc năm 1890
Xu bạc 1 yen Minh Trị, đúc năm 1891
Xu bạc 1 yen Minh Trị, đúc năm 1894
Xu bạc 1 yen Minh Trị, đúc năm 1895
Xu bạc 1 yen Minh Trị, đúc năm 1912

Hoàng tử Mutsuhito chào đời ngày 3 tháng 11 năm 1852, là con trai thứ của Thiên hoàng Kōmei. Mẹ ông là thị nữ Nakayama Yoshiko [中山慶子, Trung Sơn Khánh Tử, 1834 – 1907],[7] con gái của lãnh chúa Nakayama Tadayasu thuộc gia tộc Fujiwara, đã có lúc giữ chức Tả đại thần. Dưới triều Kōmei và Minh Trị sau này, Hoàng gia gặp nhiều bi kịch: ngoài Mutsuhito, tất cả năm người con khác của Thiên hoàng Kōmei đều chết khi còn thơ ấu. Bản thân Thiên hoàng Minh Trị cũng có 15 người con, mà trong số đó chỉ có năm người không bị chết yểu.[8]

Vị hoàng tử trẻ được đặt ngự hiệu là "Hữu cung" [さちのみや, Sachi-no-miya].[9] Phần lớn thời thơ ấu của ông trôi qua tại gia đình Nakayama ở kinh đô Kyōto, theo phong tục ủy thác nuôi dưỡng trẻ em Hoàng gia cho các thành viên ưu tú của cung đình. Mutsuhito bắt đầu học khi chín tuổi. Theo sử sách, ông là một học sinh thờ ơ, và, về cuối đời, ông đã viết những bài thơ tỏ lòng ân hận rằng bản thân ông đã không chuyên tâm hơn trong môn tập viết.[10] Ngày 11 tháng 7 năm 1860, ông chính thức được nhận nuôi bởi Asako Nyōgō [sau này là Anh Chiếu Hoàng thái hậu], nữ ngự [nyogo] của Thiên hoàng Kōmei. Ông được đổi tên là Mutsuhito[11] [Mục Nhân - hàm nghĩa đối xử với mọi người hòa mục, nhân từ], được phong chức Thân vương [Shinnō], lại được phong chức Hoàng thái tử [Kōtaishi] cùng ngày.

Theo sách 10 Đại hoàng đế thế giới của Trung Quốc, tên gọi Mutsuhito đúng là hợp với vẻ ngoài của hoàng tử lúc đó. Ngay từ lúc nhỏ, ông chỉ quanh quẩn với các cung nữ và sống cách biệt với thế giới bên ngoài, lại còn được cha mẹ hết sức cưng chiều, yêu quý, nên Mutsuhito trở thành một cậu bé nhút nhát, yếu đuối và hay sợ sệt. Tháng 8 năm 1864, binh sĩ của Mạc phủ và phiên bang Chōshū [Trường Châu] đánh nhau với quân của phiên Long Ma tại cửa Hoàng cung, và tiếng súng nổ trong trận đánh đã khiến Mutsuhito té xỉu vì quá sợ, và sau khi tỉnh dậy đứa trẻ vẫn còn chui rúc vào lòng các cung nữ để trốn, tỏ ra không có một tí can đảm nào cả. Nhiều triều thần sợ rằng, theo đà tiến triển của cuộc xung đột giữa chính quyền Mạc phủ và các lực lượng chống đối thì hai bên lại có thể đánh nhau ở kinh đô Kyōto, và lúc này Mutsuhito sẽ chết vì quá sợ.[12]

Claude Farrère, một tiểu thuyết gia có tên tuổi ở Pháp, thường lấy người võ sĩ Nhật làm đề mục trong các tác phẩm của mình. Claudre Farrère đề cao một Tướng quân người Nhật là Nogi Maresuke [乃木希典, Nãi Mộc Hy Điền] và kể rằng, thuở bé, Mutsuhito và Maresuke là học sinh trong cùng một trường. Có lần, Maresuke phạm sai lầm, bị thầy mắng. Maresuke quyết định phải tự sát, với danh dự là nguyên nhân. Tuy nhiên, Đông cung Thái tử Mutsuhito không cho Maresuke tự sát, vì nhận thấy Maresuke là một người có khả năng, về sau người này sẽ thành danh và lập nhiều công lao cho đất nước. Ông bảo:[13]

"Ta là vua của ngươi: sự lỗi lầm đó ta gánh vác dùm cho, ta biểu người cứ việc sống."

Phần lớn tuổi trẻ của Thiên hoàng Minh Trị chỉ được biết qua các ghi nhận về sau. Theo Donald Keene, tác giả cuốn Emperor of Japan: Meiji and His World, 1852–1912, các ghi nhận thường có sự mâu thuẫn. Một người đương thời mô tả ông là một người to khỏe, hơi giống một tên du côn và thể hiện tài năng xuất chúng trong môn sumo. Theo những ghi nhận khác, ông là một người mảnh khảnh và hay bị ốm. Một số người viết tiểu sử Minh Trị nói ông đã ngất xỉu khi nghe tiếng súng lần đầu tiên, nhưng điều này bị bác bỏ bởi một số người khác.[14]

Tuy nhiên, do thân thế là một hoàng tử Mutsuhito cũng bị tiêm nhiễm phải nhiều thói tật không lành mạnh của một đứa trẻ quý tộc, ví dụ như ông thiếu sự đồng cảm với những người yếu thế. Một lần nọ, thấy một cụ già bị sẩy chân té xuống nước, Mutsuhito không những không kêu người đến cứu mà còn phá lên cười khoái chí. Dạo khác, Mutsuhito mang kéo đi cắt phá tan hoang những cành dây leo trang trí trong hành lang cung vua, rồi vu khống cho người khác. Và việc cầm khẩu súng bắn nước đi chọc phá các cung nữ cũng là một trò vui của tiểu hoàng tử.[15]

Cuộc Duy tân Minh Trị

Mục a

a] Nguyên nhân

-Những hiệp ước bất bình mà Mạc phủ kí kết với nước ngoài làm cho tầng lớp xã hội phản ứng mạnh mẽ.

-Phong trào đấu tranh chống Sô-gunnổ ra sôi nổi vào những năm 60 của thế kỉ XX đã làm sụp đổ chế độ Mạc phủ.

- Tháng 01/1868, Sô-gun bị lật đổ. Thiên hoàng Minh Trị trở lại nắm quyền và thực hiện một loạt cải cách.

Thiên hoàng Minh Trị

Mục b

b] Nội dung cải cách Minh Trị

Tháng 1-1868, sau khi lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị [May-gi] đã thực hiện một loạt cải cách tiến bộ [Hay còn gọi là cuộc Duy tân Minh Trị] nhằm đưa Nhật Bản thoát khỏi tình trạng phong kiến lạchậu.

* Về chính trị

-Nhật hoàng tuyên bố thủ tiêu chế độ Mạc phủ, lập chính phủ mới, thực hiện bình đẳng ban bố quyền tự do.

-Ban hành Hiến pháp mới [năm 1889], chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập.

* Về kinh tế

-Thống nhất tiền tệ, thống nhất thị trường, cho phép mua bán ruộng đất.

-Tăng cường phát triểnkinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn.

-Xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống, phục vụ giao thông liên lạc.

* Về quân sự

-Được tổ chức huấn luyện theo kiểu phương Tây.

-Chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh.

-Chú trọng đóng tàuchiến, sản xuất vũ khí đạn dược.

* Về giáo dục

-Thi hành chính sách giáo dục bắt buộc.

-Chú trọng nội dungkhoa học - kỹ thuậttrong chương trình giảng dạy.

-Cử những học sinh giỏi đi du học phương Tây…

Mục c

c] Kết quả - tính chất:

* Kết quả:

- Nước Nhật thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của thực dân phương Tây.

- Đưa đất nước Nhật Bản giàu mạnh, phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.

* Tính chất:cuộc Duy tân Minh Trị mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản, diễn ra dưới hình thức cải cách cách, canh tân đất nước.

Mục d

d] Ý nghĩa - hạn chế

* Ý nghĩa:

- Giúp cho Nhật Bản giữ được độc lập, chủ quyền; mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nhật Bản.

- Có ảnh hướng nhất định đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á trong đó có Việt Nam [ví dụ: thành công của công cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản là một trong những nhân tố góp phần hình thành con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX].

* Hạn chế:

- Chưa thủ tiêu triệt để thế lực phong kiến quân phiệt [ưu thế về kinh tế - chính trị của tầng lớp quý tộc vẫn được duy trì].

- Chưa đáp ứng được quyền lợi cho quần chúng nhân dân.

Mục e

e] Mở rộng:Bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc cải cách Minh Trị ở Nhật Bản [1868] đối với Việt Nam hiện nay:

- Cuộc Duy tân Minh trị của Nhật Bản [1868] được thực hiện trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, giáo dục. Thông qua cuộc cải cách này đã đưa Nhật Bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.

- Để có được sự thành công này nhân tố quan trọng nhất là có sự đoàn kết của toàn dân tộc và tinh thần tự cường của quốc gia. Nhân dân đoàn kết vì mục tiêu chung là sức mạnh để cuộc cải cách thực hiện thành công và thúc đẩy đất nước phát triển.

- Việt Nam hiện nay trong công cuộc xây dựng đất nước cần học tập Nhật Bản, đoàn kết toàn dân thực hiện vì một mục tiêu chung, phát huy tinh thần tự lực tự cường của dân tộc.

ND chính

- Những nội dung cơ bản về nguyên nhân, nội dung, kết quả, tính chất, ý nghĩa, hạn chế của cuộc cải cách Minh Trị.

- Bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc cải cách Minh Trị ở Nhật Bản [1868] đối với Việt Nam hiện nay.


Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy cải cách Duy Tân Minh Trị


Loigiaihay.com

  • Nhật Bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa

    Trong 30 năm cuối thế kỉ XIX, đặc biệt từ sau cuộc Chiến tranh Trung-Nhật [1894-1895], chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng ở Nhật Bản.

  • Lý thuyết Nhật Bản

    Lý thuyết Nhật Bản

  • Tình hình Nhật Bản từ đầu thế kỉ XIX đến trước năm 1868 có những điểm gì nổi bật ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 5 SGK Lịch sử 11

  • Trình bày nội dung cơ bản của cuộc Duy tân Minh Trị.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 6 SGK Lịch sử 11

  • Ý nghĩa nổi bật của cuộc Duy tân Minh Trị là gì?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 6 SGK Lịch sử 11

  • Tại sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 109 SGK Lịch sử 11

  • Nguyên nhân nào dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 94 SGK Lịch sử 11. Nguyên nhân nào dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai?

  • Các nước phát xít trong giai đoạn 1931-1937 đã có những hoạt động xâm lược nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 91 SGK Lịch sử 11. Các nước phát xít trong giai đoạn 1931-1937 đã có những hoạt động xâm lược nào?

  • Tại sao khởi nghĩa Hương Khê được coi là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của phong trào Cần Vương ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 133 SGK Lịch sử 11

1. Thiên hoàng Minh Trị

Thiên hoàng Minh Trị [Minh Trị Thiên hoàng] còn được gọi làMinh Trị Đại Đế, Mutsuhito Đại ĐếhayMinh Trị Thánh đế. Ông là người có công lớn khi đưa nước Nhật thoát khỏi chế độ phong kiến Mạc phủ, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Thiên hoàng Minh Trị Mutsuhito chào đời ngày 3 tháng 11 năm 1852là con trai thứ của Thiên Hoàng Hiếu Minh vớ bà Nakayama Yoshiko một phi tần và là con gáicủa lãnh chúa Nakayama Tadayasu thuộc gia tộc Fujiwara

Khi vừa lên ngôi, lợi dụng Thiên Hoàng Minh trị còn nhỏ các Đại dânh [daimyo] và giai cấp tư sản nhân sự kiện đó dẫn 1000 samurai về Tokyo lấy cớ ủng hộ Thiên Hoàng đánh bại và lật đổ chế độ Mạc phủ Tokugawa vào tháng 12/1867. Tháng 1/1868, Mutsuhito chính thức lấy lại quyền điều hành đất nước từ tay Mạc phủ, chính thức chấm dứt 265 năm phong kiến dưới triều Mạc phủ.

Ngày 12 tháng 10 năm 1868, Thiên hoàng làm lễ đăng quang tại Tử Thần điện ở cố đô Kyotō, lấy thụy hiệu là Minh Trị Thiên Hoàng, cùng đó tuyên bố 5 lời tuyên thệ trước toàn dân

Ngày 4 tháng 11 năm 1868 Thiên hoàng Minh Trị dời kinh đô Nhật Bản từ Kyoto sang Tokyo, với những điều kiện thuận lợi về kinh tế, địa lý và chính trị, giúp Thiên hoàng dễ trị vì hơ

Thời gian đầu khi nắm quyền, Thiên hoàng Minh Trị gần như không có ý kiến gì trước các cuộc bàn thảo của triều thần, đều phê chuẩn tất cả các nghị quyết của Nội các cũng như đàn áp phong trào tự do Dân Quyền

Tháng 10 năm 1881, ông đã ra chiếu thư tuyên bố sẽ triệu tập quốc hội vào năm 1890, tuy nhiên quyền hạn vẫn nằm trong tay Thiên Hoàng. Chế độ Thiên hoàng cận đại dần đi vào hoàn thiện.

Với quyền lực của mình, Thiên hoàng đã học theo cách vơ vét tài chính của Mạc phủ trước kia trở thành địa chủ và tài phiệt lớn nhất Nhật Bản.

Trong khoảng thời gian trị vì, Thiên Hoàng Minh Trị đưa ra nhiều chính sách cách tân như:

- Công bố sắc lệnh giáo dục năm 1880 quy định nhà trường đối với môn lịch sử phải đặt trọng tâm vào thể chế kiến quốc

- Năm 1890, ban bố Giáo dục sắc ngữ, lấy việc "phụ tá hoàng vận", "chí trung chí hiếu" làm căn bản, bắt buộc mỗi học sinh hàng ngày phải quỳ lạy trước ảnh Thiên hoàng

- Ngày 4 tháng 1 năm 1882 ông ban bố "Quân nhân Sắc luận",

- Năm 1885, Thiên hoàng bãi bỏ chế độ Thái chính quan cũ, xây dựng chế độ Nội các theo hình mẫu phương Tây. Đứng đầu là Tổng lý đại thần Quốc vụ đại thần trực thuộc vào Thiên hoàng.

- Ban bố Đại Nhật Bản Đế Quốc Hiến pháp năm 1889, đây là bản hiến pháp dựa trênhiến pháp của Phổ để làm khuôn mẫu

Ngày 30 tháng 7 năm 1912, ông qua đời do bệnh ung thư dạ dày, hưởng thọ 60 tuổi, được đặt thụy hiệu là Minh Trị Thiên hoàng

Hoàn cảnh cuộc Duy tân Minh Trị

Hoàn cảnh dẫn đến cuộc Duy Tân Minh Trị như sau:

+ Vào thời kỳ giữa thế kỷ XIX, tình trạng khủng hoảng diễn ra nghiêm trọng về mọi mặt từ kinh tế, xã hội đến chính trị. Chế độ phong kiến của Nhật Bản đã chính thức bế tắc và lạc hậu trước quá trình xâm nhập mạnh mẽ của thực dân châu Âu. Trước hoàn cảnh bế tắc đó Nhật Bản đã dường như bất lực trước sự đàn áp của các nước thực dân.

+ Trong khoảng thời gian này, ngành công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ đã làm nảy sinh các giai cấp mới. Giai cấp thương nhân xuất hiện, đặc biệt các thương nhân ở Osaca hay các Daimyo tây nam buôn bán thường xuyên với nước ngoài.

+ Sự đối lập của nền kinh tế lạc hậu kiểu cũ ShoGun với các Daimyo địa chủ miền Bắc. Bên cạnh đó, nông dân lại chiếm đến 80% là những người có thân phận thấp kém, luôn bị tầng lớp địa chủ chèn ép khiến đời sống khốn khó.

1. Thiên hoàng Minh Trị là ai?

Thiên hoàng Minh Trị [Nhật: 明治天皇 [Minh Trị Thiên hoàng] còn được gọi là Minh Trị Đại Đế, Mutsuhito Đại Đế hay Minh Trị Thánh đế. Ông là người có công lớn khi đưa nước Nhật thoát khỏi chế độ phong kiến Mạc phủ, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Dưới đây là một số thông tin cơ bản về vị Thiên hoàng này:

Video liên quan

Chủ Đề