Vì sao việt nam trở thành thuộc địa của pháp

-Thực dân Pháp là một đế quốc mạnh, đại diện cho một thế lực mạnh đang lên của chũ nghĩa đế quốc, mà Pháp lại có âm mưu xâm lược nước ta từ trước và quyết tâm biến nước ta thành thuộc địa của chúng.

-Thế kỉ XX Việt Nam phải đối diện với những đế quốc giàu mạnh quyết tâm xâm lược.

-Việt Nam thiếu hẳn một đường lối cứu nước đúng đắn, không có một bộ chỉ huy kiên cường sáng tạo, quyết tâm lãnh đạo nhân dân đánh bại quân xâm lược.Sự thất bại của Việt Nam , việc mất nước trách nhiệm của nhà Nguyễn : do sự suy yếu nghiêm trọng, sự lạc hậu, bảo thủ của nhà Nguyễn, với 50 năm trị vì nhà Nguyễn xây dựng một mô hình kinh tế - chính trị - xã hội có tính chất bảo thủ...

-Quân sự của không có tinh thần chiến đấu, không có chủ nghĩa yêu nước, do quân đội của triều đình nhà Nguyễn không phải là quân đội của quốc gia dân tộc, mà là quân đọi của nhà vua

Các nước Đông Nam Á bị xâm lược và trở thành thuộc địa của Pháp do: Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng, giàu tài nguyên thiên nhiên, có nền văn hóa lâu đời. Các nước Đông Nam Á đang khủng hoảng triền miên về kinh tế, chính trị và xã hội.

Từ giữa thế kỉ XIX các nước Châu Âu và Bắc Mĩ căn bản hoàn thành cuộc cách mạng tư sản vì thế rất cần thị trường, thuộc địa nên đẩy mạng xâm lược thuộc địa trong đó có khu vực Đông Nam Á. Những nước nào ở Đông Nam Á là thuộc địa của Pháp?

Câu hỏi:

Những nước nào ở Đông Nam Á là thuộc địa của Pháp?

A. Việt Nam, Lào ,Cam-pu-chia.        

B. Việt Nam, Lào, Miến Điện.

C. Việt Nam, Cam-pu-chia, Thái Lan.           

D. Việt Nam, Phi-lip-pin, Lào.

Đáp án đúng là đáp án A. Những nước ở Đông Nam Á là thuộc địa của Pháp là Việt Nam, Lào ,Cam-pu-chia.       

 Lý giải việc chọn đáp án A là đúng

Các nước tư bản thực dân đang trong quá trình phát triển chủ nghĩa đế quốc mạnh mẽ cần nguyên liệu, thị trường và thuộc địa nên tích cực đẩy mạnh xâm lược thuộc địa.

Các nước Đông Nam Á bị xâm lược và trở thành thuộc địa của Pháp do: Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng, giàu tài nguyên thiên nhiên, có nền văn hóa lâu đời. Các nước Đông Nam Á đang khủng hoảng triền miên về kinh tế, chính trị và xã hội.

Từ giữa thế kỉ XIX, hầu hết các nước phương Tây đã hoàn thành việc mở rộng xâm lược các nước Đông Nam Á, trừ Xiêm. Quá trình xâm lược diễn ra như:

– Ở In-đô-nê-xi-a, Hà Lan hoàn thành việc xâm chiếm và thiết lập nền thống trị vào giữa thế kỉ XIX.

– Phi-líp-pin đế quốc Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược [1899-1902] và biến quần đảo này thành thuộc địa của mình.

– Mã Lai [nay thuộc Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po], trở thành thuộc địa của Anh vào đầu thế kỉ XX.

– Cuối thể kỉ XIX Pháp hoàn thành xâm lược ba nước Đông Dương là Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia.

Nhờ chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo của vua Ra-ma V nên Xiêm là nước duy nhất ở Đông Nam Á giữ được nền độc lập tương đối ổn định về chính trị.

Đến cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, các nước phương Tây đã trở lên lớn mạnh và mục tiêu của các nước để quốc đều hướng tới vị trí là thống trị thế giới.

 Như vậy nội dung bài viết trên đã trả lời được câu hỏi Những nước nào ở Đông Nam Á là thuộc địa của Pháp? là Việt Nam, Lào ,Cam-pu-chia.

- Muốn chiếm nước ta, biến nước ta thành thuộc địa của chúng

Tại sao thực dân Pháp xâm lược nước ta?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk trang 114 để suy luận trả lời. 

- Do nhu cầu về thị trường và thuộc địa, từ giữa thế kỉ XIX các nước phương Tây đẩy mạnh xâm lược thuộc địa.

- Việt Nam có vị trí địa lí quan trọng, giàu tài nguyên thiên nhiên.

- Chế độ phong kiến Việt Nam đang trong tình trạng suy yếu.

- Nhà nước thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng” khiến nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài. Nội lực đất nước yếu kém trên mọi lĩnh vực.

- Lấy cớ bảo vệ đạo Gia Tô, chiều 31-8-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng.

=> Ngày 1-9-1858, quân Pháp nổ súng mở đầu cuộc xâm lược nước ta.

Câu 3:- Chỉ huy cuộc kháng chiến chống ở thành Hà Nội [1882] là Tổng Đốc Hoàng Diệu

- Sáng 25-4-1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu, đòi ông phải giao thành cho chúng. Đến 10 giờ, quân Pháp bắt đầu nổ súng. Lúc đó, Hoàng Diệu mặc dầu đang ốm vẫn cùng tuần phủ Hoàng Hữu Xứng dẫn đầu tướng sĩ xông lên mặt thành đánh giặc. Ông cho đóng chặt cửa Đông và cửa Bắc để dồn quân vào giữ cửa Nam và cửa Tây. Đến khi quân Pháp xông lên mặt thành thì một cuộc ác chiến nổ ra. Một viên hiệp quản bắn chết một sĩ quan Pháp được Hoàng Diệu thưởng tại trận 30 lạng bạc khiến cho quân sĩ càng nức lòng. Trận chiến tiếp diễn đến 11 giờ trưa thì kho thuốc súng trong thành nổ tung làm cho tinh thần quân sĩ hoang mang. Thừa lúc rối ren, quân Pháp dồn lực lượng đánh cửa thành phía Tây và phía Bắc. Giặc ùa vào bên trong, quân ta tan rã. Trước tình thế ấy, Hoàng Diệu quay về dinh, mặc triều phục chỉnh tề, vào hành cung bái vọng mà khóc “Sức thần đã hết rồi” và thảo một tờ biểu gửi vua Tự Đức: “Thần là một kẻ thư sinh biết đâu việc binh bị mà bệ hạ giao cho chức vụ quá trọng. Làm sao tin được lòng giặc nên thần lo sửa soạn đề phòng. Việc chưa xong thì binh Pháp kéo đến… Một mình thề với Long thành, nguyện theo Nguyễn Tri Phương nơi suối vàng vậy”. Sau đó, để bảo toàn khí tiết, ông đến bên cây đa trước cửa Võ miếu thắt cổ đúng vào giờ Ngọ, ngày mùng 8 tháng Ba năm Nhâm Ngọ [25-4-1882].

Được tin Hoàng Diệu tuẫn tiết, nhân dân Hà Nội vô cùng thương tiếc. Ngay hôm sau, dân tập trung và rước quan tài của Hoàng Diệu an táng tại khu vườn dinh Đốc học [nay là phố Trần Quý Cáp, sau ga Hà Nội]. Trong lễ tang, các sĩ phu ở Hà Nội có bài điếu:Cô thành chống giữ một mình thôiKhảng khái như ông được mấy ngườiCựu lục nghìn năm gương tiết dọiCô thần một chút tấm trung phơi[…]Nghìn thủa Nùng Sơn nêu chính khíAnh hùng đến thế lệ cùng rơi.Còn vua Tự Đức, ngay sau khi nhận được biểu trần tình của Hoàng Diệu, đã ra chỉ dụ khen ngợi và sai các quan tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Nam Định lo việc chuyển mộ ông về quê hương Quảng Nam vào mùa thu năm đó. Em trai Hoàng Diệu là Hoàng Chấn, khi đó đang làm Tri phủ Xuân Trường [Nam Định] đi theo hộ vệ quan tài. Tự Đức sai quan tỉnh Quảng Nam ban một tuần tế, lại cấp 1.000 quan tiền nuôi bà mẹ của Hoàng Diệu.Ca ngợi khí tiết của vị Tổng đốc anh hùng, một vị túc Nho tại Hà Nội đã soạn bài Hà Thành chính khí ca. Ông còn được người Hà Nội thờ tại miếu Trung Liệt, bên gò Đống Đa. Đền còn câu đối ca ngợi công đức Hoàng Diệu:Kia thành quách, kia non sông trăm trận phong trần còn thước đất,Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh.Sau Cách mạng Tháng Tám, tên Hoàng Diệu được đặt cho một đường lớn và đẹp của Thủ đô. Đường Hoàng Diệu dài 1.340m, từ phố Phan Đình Phùng đến phố Nguyễn Thái Học, vốn là đường hào cạnh phía Tây hành cung thành Hà Nội đời Nguyễn. Trong kháng chiến chống Pháp, tên ông được đặt cho Hà Nội, gọi là thành Hoàng Diệu. Ngày 20-12-2003, thành phố Hà Nội cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu trên vọng lâu cửa Bắc. Tại đây, có tượng đồng hai vị tổng đốc đã dũng cảm đánh Pháp giữ thành năm 1873 và 1882 do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cung tiến. Đền treo bức hoành “Nghĩa liệt anh hùng” và đôi câu đối của GS Vũ Khiêu:Trung vi quốc, nghĩa vi dân, lưỡng phiến đan tâm huyền nhật nguyệt,Sinh ư Nam, tử ư Bắc, thiên thu chính khí vượng sơn hà.Tạm dịch nghĩa:Trung với nước, hiếu với dân, tấm lòng son sáng tựa mặt trời, mặt trăng,

Sinh ở Nam, mất ở Bắc, khí tiết nghìn năm sau vẫn rạng rỡ nước non này.

Video liên quan

Chủ Đề