Xét đến cùng ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người

Từ khi xa xưa con người biết phản ánh tâm tư tình cảm của mình qua văn học truyền miệng hay trên những trang giấy, văn học đã trở thành người bạn thân thiết, gắn bó với con người. Nó là sợi dây liên kết vô hình khiến con người xích lại gần nhau hơn. Văn học giúp cho con người chung sống với nhau bằng tình cảm đẹp đẽ, sự sẻ chia và cảm thông. Vì thế ngay từ khi sinh ra, văn học và tình thương đã có mối quan hệ chặt chẽ: tình thương tạo nên sự hấp dẫn cho văn học và văn học có nhiệm vụ quan trọng là truyền tải tình thương. Văn học vô cùng quan trọng đối với cuộc sống tinh thần của con người. Nó là một bộ môn nghệ thuật có từ rất lâu đời, là công cụ giúp con người bày tỏ cảm xúc hay tình cảm của mình bằng những từ ngữ, kí hiệu và con dấu. Các tác phẩm văn học được làm nên từ các chất liệu có trong cuộc sống chính vì vậy chúng miêu tả được cuộc sống muôn hình vạn trạng một cách chân thực và chính xác hơn bất cứ ai. Văn học cũng chính là chiếc chìa khoá vàng mở rộng lòng nhân ái trong tâm hồn, phát triển nhân cách tốt đẹp. Văn học gồm nhiều thể loại tác phẩm nhgệ thuật như truyện ngắn, tự truyện, hồi kí hay tiểu thuyết,… Ta có thể nói văn học là nhân học, tức là nó có tính nhân văn. Văn học chứa đựng trong nó muôn vàn những tình cảm tốt đẹp giữa con người. Đó chính là tình thương. Nhưng cụ thể hơn, tình thương được thể hiện trong văn học khá sâu sắc và đa chiều. Chúng thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau của con người. Đó cũng là khi những nhà văn, thi sĩ bộc lộ sự thương cảm xót xa sâu sắc đối với những mảnh đời, thân phận bất hạnh; phê phán gay gắt những việc làm sai trái và những kẻ chà đạp lên con người; hay là lời ca ngợi vẻ đẹp quê hương, thiên nhiên, đất nước. Văn học và tình thương gần như là hai khái niệm không thể tách rời, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Văn học thể hiện tình thương trong nhiều mối quan hệ khác nhau. Ấm áp và thiết tha như tình cảm gia đình, cái nôi hình thành nhân phẩm đạo đức của mỗi người. Cũng vì vậy mà người xưa cũng rất coi trọng tình cảm thiêng liêng này và trân trọng đặt nó lên hàng đầu qua câu ca dao: “Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông.” Công lao cao cả của người bố cùng tình thương vô bờ bến của người mẹ được so sánh với các hình ảnh hùng vĩ của thiên nhiên đã in sâu vào tâm trí nhũng người làm con giúp cho họ làm tròn chữ hiếu, đền đáp lại công ơn trời biển của cha mẹ. Còn trong văn học hiện đại, tác phẩm tiêu biểu mà ta đã được học là “Trong lòng mẹ”. Bài văn thể hiện tình cảm trong sáng, sâu sắc của bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh của mình. Bằng cả tâm hồn và tình yêu thương, em đã cố giữ cho hình ảnh người mẹ nhân hậu, hiền dịu không bị vấy bẩn bởi nhũng hủ tục và thành kiến thâm độc. Vì sao mà một cậu bé còn nhỏ đã có thể có tình thương lớn lao và lòng tin tưởng tuyệt đối về người mẹ đến vậy? Tình cảm gia đình không chỉ có tình mẫu tử mà còn có tình anh em thắm thiết. Sau khi đọc tác phẩm “Bức tranh của em gái tôi” bạn có thể cảm nhận được tấm lòng khoan dung, sẵn sàng tha thứ cho người anh trai để rồi giúp cho người anh thức tỉnh khỏi sự ganh tị và ghen ghét. Cũng là tình cảm anh em nhưng bài “Cuộc chia tay của những con búp bê” lại thấm nặng tình nghĩa và cuộc chia ly đẫm nước mắt, buồn tủi của những đứa trẻ bất hạnh. Chúng yêu thương nhau biết bao thì lúc xa nhau càng đau đớn bấy nhiêu. Nỗi đau đấy đã để lại một ấn tượng sâu nặng trong lòng người đọc, khiến họ càng thêm xót xa và khâm phục tình cảm thiết tha của hai anh em Thành và Thủy. Không chỉ thế, văn học cũng góp phần khắc họa nên sự gần gũi, thân thiết và vui vẻ của tình bạn - một thứ tình cảm đẹp không hề vụ lợi, toan tính. Và đó chính là nhũng gì mà Nguyễn Khuyến đã miêu tả một cách chân thực trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà”. Mở đầu bài thơ là một câu chào hỏi vồn vã, thân tình như reo lên khi người bạn tri kỉ đến. Bằng một giọng văn hóm hỉnh, ông đã nêu lên những thiếu thốn về vật chất để khẳng định một tình bạn gắn bó giữa mình và bạn. Phải đó là một tình bạn cao đẹp vượt lên trên tất cả những tầm thường về vật chất và của cải để đến với nhau bằng tấm lòng. Ngoài tình thương đối với những người mà ta thân quen, văn học cũng ca gợi tình cảm giữa những người cùng chung sống trong một xã hội. Vì vây, “thương người như thể thương thân” từ lâu đã trở thành một truyền thống đạo lý của người Việt Nam. Văn học ca ngợi tình cảm đẹp và đồng thời cũng phê phán những việc làm, hành động hay những kẻ chà đạp lên con người. Văn học luôn lên án gay gắt những kẻ chỉ biết nghĩ tới bản thân mà thờ ơ với mạng sống của người khác. Nhân vật điển hình mà học sinh đã được học là viên quan phụ mẫu trong bài “Sống chết mắc bay”. Hắn là một con người tàn nhẫn đến độ có thể bình thản mà ngồi chơi bài trong khi mưa bão đang cướp đi mạng sống của những người dân đen. Tiếng thét kinh hoàng hòa cùng với tiếng gió giật, mưa rít vẫn không làm bậc “quan cha mẹ” bận lòng. Câu chuyện kết thúc cũng là lúc quan thắng ván bài, tất cả mọi thứ đều chìm trong biển nước. Nụ cười hả hê, phi nhân nghĩa của quan vang lên càng xoáy sâu vào lòng người đọc sự thương cảm, xót xa đến tột độ đến những con người bất hạnh. Câu chuyện “Cô bé bán diêm” đã nhẹ nhàng đi vào lòng người đọc bởi hiện lên từng trang sách là hình ảnh của một em bé mồ côi nghèo khổ không được sống trong vòng tay yêu thương của gia đình. Cảnh ngộ đó còn đáng thương hơn khi con người xung quanh cũng lạnh giá như mùa đông khắc nghiệt. Câu chuyện đã tố cáo một cách kín đáo sự thờ ơ và vô tâm của xã hội lúc bấy giờ đã đẩy những con người nghèo khổ vào bước đường cùng. Và ngay với những kẻ gian ác xảo quyệt, dối trá cũng vậy văn học quyết không nương tay với chúng. Như trong chuyện Lí Thông cuối cùng cái thiện cũng thắng cái ác, hai mẹ con Lí Thông bị biến thành những con bọ hung suốt ngày chui rúc nhũng chốn bẩn thỉu cho đến cuối đời vì những tội ác chúng đã gây ra. Văn học nước ngoài cũng góp phần làm phong phú thêm kho tàng tình cảm của con người. Đặc biệt nó ca ngợi cả tình cảm đẹp giữa những người không cùng ruột già máu mủ. Và O’henri đã chỉ rõ cho ta thấy điều đó qua tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng”. Khi Giôn-xi bị ốm, Xiu cùng cụ Bơ-men đã hết lòng chăm sóc mong giành lại cô khỏi cái chết đang đến gần. Cụ Bơ-men tuy chỉ xuất hiện rất ít nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc nhất. Cụ yêu thương Giôn-xi như con gái mình và sẵn sàng hi sinh mạng sống của mình để cứu Giôn-xi khỏi những suy nghĩ tuyệt vọng đang kéo cô xa dần cuộc sống thực tại. Văn học trau dồi tình thương, gợi cảm xúc cho con người, làm cho họ gắn bó với nhau. Có người đã từng nói “Tình cảm của con người cũng giống một viên kim cương thô mà nhờ có văn chương “mài nhẵn” mới trở thành viên đá quý đẹp gấp vạn lần”. Đọc các tác phẩm văn học ta thấy gần hơn với những nhân vật trong chuyện và từ đó biết lắng nghe, rung động, cảm thông, chia sẻ. Đó là bước đi đầu để hình nhân phẩm đạo đức và từ đó có những suy nghĩ, hành động đúng. Quả thật không sai, như M.Gorki đã từng nói “xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người”. Nhờ thế, văn học không chỉ dừng lại ở giá trị văn chương mà còn được mở rộng thành những viên gạch đầu tiên xây đắp ngôi nhà của tình thương giữa con người với con người trong xã hội. Từ tất cả những dẫn chững trên ta càng thấy văn học và tình thương gắn bó chặt chẽ với nhau đến chừng nào. Bởi lẽ tình thương khởi nguồn cho văn học và làm cơ sở để văn học tiếp tục truyền tải tình thương. Văn học và tình thương hòa quyện vào nhau và tạo nên những điều tốt đẹp nhất cho con người giúp con người phát triển theo một định hướng chung để ngày một hoàn thiện. Có vậy, con người mới có thể cùng nhau chung sống trong tình yêu thương.

Đề bài: Chứng minh nhận định: Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người

Mục Lục bài viết:
I. Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
2. Thân bài
3. Kết bài
II. Bài văn mẫu

I. Dàn ý Chứng minh nhận định: Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người

1. Mở bài

- Dẫn vào quan điểm: Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người.

2. Thân bài

a. Khái niệm văn học chân chính:

- Văn học chân chính là thứ văn học đặt con người ở vị trí trung tâm để khai thác, phải đề cao phẩm giá của con người, đi sâu vào đời sống nhân lại, lấy chủ nghĩa nhân đạo làm gốc.

- Văn chương không chân chính đó là những tác phẩm hào nhoáng về hình thức, câu từ trau chuốt khéo léo, nhưng lại không mang tính nhân văn, đôi khi nó còn hạ thấp phẩm giá và đạo đức của người đọc, tô vẽ những thứ gì xa vời cuộc sống, thậm chí trở thành cái vỏ bọc cho sự khốn nạn, mị dân của một giai cấp thống trị thối nát.

=> Chỉ có văn chương chuyên chú vào con người từ xưa đến nay mới tồn tại mãi mãi và trở thành bất hủ bởi nó "chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình...Nó làm cho người gần người hơn".

b. Cơ sở nhân đạo hóa của văn học chân chính:

- Văn chương lấy cảm xúc để điều chỉnh, củng cố cảm xúc của con người.

- Văn chương là cả một tấm lòng yêu thương sâu nặng của người nghệ sĩ đối với con người.

- Văn chương chính là biểu hiện của sự phản ánh thế giới khách quan vào tâm hồn của người viết, ở đó người ta nhận thấy được tâm tư, tình cảm hỷ, nộ, ái, ố tinh tế và nhạy bén của tác giả trước các sự kiện trong xã hội để người đọc căn cứ vào đó mà nhìn nhận lại chính bản thân mình.

c. Văn chương nhân đạo hóa con người bằng cách nào?

- Văn học đã khiến con người ta biết nhận thức, biết thông cảm, biết xót thương cho đồng loại, làm cho tâm hồn con người trở nên tinh tế hơn, nhạy cảm hơn trước sự biến chuyển cảm xúc và cuộc đời của nhân vật từ đó con người ta trở nên nhân hậu hơn, bao dung hơn. [phân tích từ 2-3 dẫn chứng].

- Văn chương đã đem đến cho con người quá trình thanh lọc tâm hồn, làm cho con người có thể tự nhìn nhận lại mình, tự ý thức để cải thiện bản thân sao cho trở nên tốt đẹp hơn thông qua những bài học, những triết lý nhân sinh mà người nghệ sĩ gửi gắm trong tác phẩm của mình [phân tích một số dẫn chứng để chứng minh].

3. Kết bài

- Nêu cảm nghĩ cá nhân.

II. Bài văn mẫu Chứng minh nhận định: Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người

Tôi nhớ M. Gorki đã có một nhận định rằng: "Văn học là nhân học", tức là văn học vừa là sản phẩm trí tuệ tinh tế của con người, do con người dùng chính tâm hồn và cảm quan để sáng tạo ra, đồng thời những sản phẩm văn học cũng trở thành thứ để giáo dục, bồi dưỡng con người trong nhiều khía cạnh xã hội bao gồm việc nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, khích lệ động viên, làm cho tâm hồn lắng lại để nghe những tiếng vang động ở đời,... Mà nói theo như cách của Thạch Lam thì "văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên ; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn". Trong đó trước khi thay đổi thế giới, văn chương phải làm được nhiệm vụ chính là thay đổi con người, mà theo tôi nghĩ nổi bật nhất ấy là: Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người.

Vậy tại sao phải là văn học chân chính mới có khả năng nhân đạo hóa con người mà không phải là những thứ văn học khác. Để làm rõ điều này chúng ta cần làm rõ thế nào là văn học chân chính, đó là thứ văn học đặt con người ở vị trí trung tâm để khai thác, phải đề cao phẩm giá của con người, đi sâu vào đời sống nhân loại, lấy chủ nghĩa nhân đạo làm gốc như Nam Cao đã từng viết "Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình...Nó làm cho người gần người hơn". Trái ngược với văn chương chân chính đó là những tác phẩm hào nhoáng về hình thức, câu từ trau chuốt khéo léo, nhưng lại không mang lại những giá trị làm thay đổi nhận thức của con người, đôi khi nó còn hạ thấp phẩm giá và đạo đức của người đọc, tô vẽ những thứ gì xa vời cuộc sống, thậm chí trở thành cái vỏ bọc cho sự khốn nạn, mị dân của một giai cấp thống trị thối nát,... thì đó là thứ văn chương hết sức nguy hại. Phân loại văn chương chân chính và không chân chính có thể mượn câu nói của Nguyễn Văn Siêu để làm quy chuẩn: "Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Vậy nên xét từ xưa đến nay tồn tại mãi mãi và trở thành bất hủ chỉ có thứ văn học vị nhân sinh, mang chủ nghĩa nhân đạo là tượng đài của nhân loại, còn bấy nhiêu những thứ văn dẫu đẹp nhưng phù phiếm hình thức, xa rời nhân sinh thì chẳng mấy chốc cũng bị lãng quên, bởi nó không đủ sức in vào lòng người đọc bằng xúc cảm chân chính, bằng tình yêu thương của người nghệ sĩ. Có thể nhắc đến một số tác phẩm lớn mang chủ nghĩa nhân đạo vẫn luôn được người đời tán dương và trân trọng của Việt Nam và thế giới như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Những người khốn khổ của Victor Hugo, Rô-mê-ô và Giu-li-ét của Sếch-xpia, Sống lại và Chiến tranh và hòa bình của L. Tôn-xtôi, Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell, Không gia đình của Hector Malot,... Mỗi một tác phẩm có cách khai thác chủ nghĩa nhân đạo riêng, và có đôi lúc những tác phẩm này vẫn bị cho là còn thiếu sót bởi những cách giải quyết mâu thuẫn, gỡ nút thắt không còn phù hợp với xã hội ngày nay thế nhưng những giá trị nhân đạo hóa con người ẩn chứa trong đó thì không thể nào chối cãi được.

Tại sao tôi lại nói rằng nhân đạo hóa con người là khía cạnh mà văn học làm tốt nhất và nổi bật nhất, bởi sở dĩ ông cha ta vẫn thường có câu "Dĩ độc trị độc", thì ở đây với văn chương ta không nói gay gắt như thế mà thay vào đó văn chương lấy cảm xúc để điều chỉnh, củng cố cảm xúc của con người. Mỗi một người nghệ sĩ chân chính khi chắp bút vào tác phẩm họ thường phải đặt vào đó cả một tấm lòng, một linh hồn nguyên vẹn, họ phải viết bằng tất cả tài năng và trí lực bằng tất cả những xúc cảm dồi dào về một phát hiện giữa đời sống cái khiến người ta tâm đắc, rồi tìm mọi cách khiến nó trở nên sáng tạo và có giá trị. Như Enxa Tơriole đã nói: "Nhà văn là người cho máu", người nghệ sĩ phải xem văn chương là máu thịt của mình hết sức trân quý mà giữ gìn, câu từ nào viết ra cũng phải mang trong nó cả hồn xác của nghệ sĩ thì mới có thể đạt tới xúc cảm chân chính nhất. Chính vì thế có thể nói văn chương chính là biểu hiện của sự phản ánh thế giới khách quan vào tâm hồn của người viết, dù đó có là tác phẩm viết về tình yêu, về chiến tranh, về những bi kịch, viết về những thứ lớn lao hay tầm thường nhỏ bé trong vũ trụ thì nó vẫn luôn mang trong mình bóng hình và phong cách riêng của người nghệ sĩ. Ở đó người ta nhận thấy được tâm tư , tình cảm hỉ, nộ, ái, ố tinh tế, nhạy bén của tác giả trước các sự kiện trong xã hội để người đọc căn cứ vào đó mà so sánh với chính bản thân mình. Và dĩ nhiên rằng người nghệ sĩ muốn làm ra được tác phẩm văn học đánh động tâm can, thay đổi nhận thức người đọc thì phải lấy đề tài con người là trung tâm, biết khai thác những khía cạnh thực tế trong cuộc sống nhân loại, cả hạnh phúc lẫn khổ đau, cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. Viết làm sao cho thật chân thực, sinh động, đủ sức thu hút người đọc, để người đọc cảm nhận được sự gần gũi, tình yêu thương con người sâu sắc đến độ thấu hiểu của nghệ sĩ đong đầy trong từng câu chữ, như L.Tôn xtôi từng khẳng định:"Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng,bình đẳng bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt kiện cả những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại". Tóm lại rằng "nghệ thuật vị nhân sinh"phải là thước đo giá trị cho mọi tác phẩm văn học, cũng là thước đo cho khả năng nhân đạo hóa của một tác phẩm văn học chân chính.

Vậy văn học chân chính đã nhân đạo hóa con người như thế nào? Trước hết văn học đã khiến con người ta biết nhận thức, biết thông cảm, biết xót thương cho đồng loại. Truyện Kiều của Nguyễn Du là kiệt tác của nền thơ ca Việt Nam, bởi nó là tiếng khóc đoạn trường của những kiếp người đớn đau dưới xã hội cũ, nó tố cáo những bất công trong xã hội, nó là tấm lòng xót thương cho một kiếp hồng nhan tài hoa bạc mệnh của nàng Kiều, đồng thời cũng là lời đớn đau chung cho số phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc. Một tác phẩm mang nhiều giá trị nhân văn, nhân đạo như thế đã trở thành biểu tượng cho nền văn học nước nhà, nó khiến con người ta biết thương cảm, nhận thức sâu sắc về một giai đoạn lịch sử đã qua của dân tộc, nó thôi thúc con người ta đứng lên thay đổi thế giới, thay đổi cuộc sống,... dù rằng đến ngày hôm nay xã hội đã công bằng hơn, thế nhưng Truyện Kiều vẫn mang trong mình nguyên giá trị. Tương tự như vậy hàng loạt các tác phẩm của các nhà văn hiện thực trước cách mạng như Nam Cao với Đời thừa, Chí Phèo, Sống mòn, Vợ nhặt,... Kim Lân với Lão Hạc, Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Tô Hoài với Vợ chồng A phủ, Nguyễn Công Hoan với một loạt các tác phẩm như Người ngựa ngựa người, Kép Tư Bền, Tinh thần thể dục,... đều mang đến cho độc giả sự thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với đồng loại, làm cho tâm hồn con người trở nên tinh tế hơn, nhạy cảm hơn trước sự biến chuyển cảm xúc và cuộc đời của nhân vật từ đó con người ta trở nên nhân hậu hơn, bao dung hơn.

Dĩ nhiên quá trình nhân đạo hóa của văn chương không chỉ dừng lại ở việc gợi lòng thương cảm, trắc ẩn đối với những số phận bất hạnh trong xã hội hay sự bất bình trước cái khốn nạn của chế độ cũ mà quan trọng hơn cả văn chương đã đem đến cho con người quá trình thanh lọc tâm hồn. Nói như Hoài Thanh tức là "Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có luyện những tình cảm ta sẵn có", hoặc nói như Thạch Lam văn chương "làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn". Cái cốt yếu của văn chương chính là ở chỗ làm cho con người có thể tự nhìn nhận lại mình, tự ý thức để cải thiện bản thân sao cho trở nên tốt đẹp hơn thông qua những bài học, những triết lý nhân sinh mà người nghệ sĩ gửi gắm trong tác phẩm của mình. Có thể lấy ví dụ về Lục Vân Tiên cùng một loạt các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đã chủ yếu nhân đạo hóa con người bằng cách phân rõ thiện ác, lý tưởng hóa nhân vật, hướng con người đến vẻ đẹp chân - thiện - mỹ, giáo dục con người bằng tư tưởng "ở hiền gặp lành, ác giả ác báo", khẳng định chân lý cái thiện sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác hoành hành. Hoặc quay lại với các tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực ví như Đời thừa của Nam Cao, đọc không phải chỉ để thông cảm với tấn bi kịch tinh thần của nhân vật mà còn là để nhận ra những triết lý sâu sắc về văn học và người nghệ sĩ, "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện", nhận ra nét đẹp tâm hồn, ước mơ cao cả của nhân vật chính trong lúc quằn quại đấu tranh giữa cái đói khổ và lý tưởng cao đẹp. Điều đó thôi thúc con người nhìn nhận lại bản thân, nhìn nhận lại thái độ của mình trong cuộc sống, trong công việc, có ý chí vươn lên để thay đổi cuộc sống, tạo dựng ước mơ,... Hoặc kể đến Vợ chồng A Phủ, ngoài việc đớn đau cho số phận dưới đáy xã hội cường quyền thần quyền của Mị và A Phủ thì tác phẩm còn để người đọc nhận thấy được vẻ đẹp tâm hồn, niềm khát khao tự do cháy bỏng, sức sống tiềm tàng mãnh liệt, đồng thời mở đường cho quá trình tiến đến với cách mạng để giải phóng bản thân của nhân vật chính. Như vậy tác phẩm đã có giá trị "nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm". Hoặc đến với Xuân Diệu, ta không còn phải thông cảm hay đau đớn xót thương mà thay vào đó tác giả đã khai phá nhận thức của con người bằng các triết lý nhân sinh sâu sắc về thời gian, về cuộc đời, khuyến khích ở ta lòng yêu cuộc sống, sức trẻ, lòng trân trọng những gì tươi đẹp ở thế giới xung quanh, làm cho tâm hồn ta trở nên khoáng đạt, giàu xúc cảm hơn. Nói về nền văn học kháng chiến, hầu hết các tác phẩm đều có ý nghĩa nhân đạo ở chỗ là giáo dục cho con người ta tấm lòng yêu quê hương, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào một cách tha thiết, đồng thời thúc đẩy lòng dũng cảm, tinh thần hy sinh chiến đấu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Có thể lấy một vài ví dụ như Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Việt Bắc của Tố Hữu, Tây Tiến của Quang Dũng, Đồng Chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật,... Hoặc những tác phẩm viết về những điều bình dị trong cuộc sống của con người cũng có những tác động đáng kể trong việc thay đổi và thanh lọc tâm hồn ví như Nguyễn Minh Châu với hai tác phẩm nổi tiếng là Bến quê và Chiếc thuyền ngoài xa. Nếu như Bến quê nhắc nhở con người ta phải biết trân trọng và để ý đến những giá trị gần sát ngay bên cạnh mình, thì Chiếc thuyền ngoài xa lại đem đến cho con người ý thức về một cách nhìn nhận cuộc sống đa diện nhiều chiều.

Chung quy lại khó có thể nói một cách thật toàn diện về khả năng nhân đạo hóa con người của văn học, bởi nó là một phạm trù rộng lớn bao quát lên tất cả các giới hạn cảm xúc, cứ mỗi một nghệ sĩ lại đưa ra một cách nhìn nhận và phong cách thể hiện tính nhân văn trong tác phẩm khác nhau. Thế nhưng phải công nhận rằng văn chương chân chính là một thứ tài sản vô giá của nhân loại, đi từ việc nhân đạo hóa con người văn chương đã gián tiếp thay đổi thế giới để khiến nó trở nên tốt đẹp và ấm áp hơn.

Để hoàn thành tốt bài Tập làm văn số 5, Ngữ văn 12 bên cạnh bài Chứng minh nhận định: Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người các em có thể tham khảo thêm bài tham khảo cho một số đề bài khác như: Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn văn Siêu có viết: "Văn chương [...] có loại đáng thờ, có loại ko đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên, Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: "Phong cách chính là người." Anh [chị] hiểu ý kiến trên như thế nào?, Anh [chị] hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: "Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra", Nền văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 là "Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn". Anh [Chị] hãy trình bày ý kiến của mình về nhận định trên.

Bằng những kiến thức đã được trau dồi, em hãy viết thành bài văn ngắn để chứng minh nhận định: Văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người, thông qua đó giúp người đọc dễ dàng hình dung về giá trị, tác dụng của các tác phẩm văn học nghệ thuật trong việc cảm hóa con người.

Video liên quan

Chủ Đề