Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là gì năm 2024
Một trong những vấn đề quan trọng được đề cập trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) là chính sách xã hội hóa giáo dục. TS. Phạm Thị Ly - Ủy viên Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nguồn nhân lực cho rằng, mặc dù chủ trương xã hội hóa giáo dục đã được khẳng định từ lâu trong các nghị quyết của Đảng, của Chính phủ, và sự tham gia của khu vực tư nhân đã tạo ra nhiều thay đổi đáng kể trong giáo dục, vẫn đang có những điểm bất cập đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc để có những chính sách phù hợp. Show
Cho tới nay, các luật chuyên ngành về đất đai, tài chính, tín dụng, thuế đã có chính sách ưu đãi xã hội hóa nói chung nhưng chưa có chính sách riêng hỗ trợ chính sách xã hội hóa giáo dục. Các quy định về bảo hộ, ưu đãi, khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực GD&ĐT còn chung chung, không cụ thể. Một buổi học STEM của học sinh dân tộc thiểu số. Ảnh: TL TS. Phạm Thị Ly cho rằng, cần phải xác định lại quan điểm, hiểu đúng về xã hội hóa. Xã hội hóa không phải chỉ dựa vào học phí, xã hội hóa phải dựa vào các nguồn lực đa dạng của xã hội, không chỉ dựa vào người học. Điều này, theo TS Phạm Thị Ly, đã thể hiện tương đối rõ trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi). Đơn cử, dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) đã nêu ra nhiều điểm cụ thể để hỗ trợ cho khu vực giáo dục tư, chẳng hạn như Điều 96 quy định “các khoản đóng góp, tài trợ của cá nhân cho giáo dục được trừ vào thu nhập chịu thuế, tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng công trình phục vụ giáo dục, ủng hộ tiền hay hiện vật thì được xem xét để ghi nhận bằng hình thức thích hợp”. Ngoài ra, các đầu tư và đóng góp cho giáo dục, cũng như chi phí của doanh nghiệp trong việc đào tạo nhân viên cũng được tính là chi phí hợp lý được trừ khi tính thu nhập chịu thuế. Cần điều chỉnh các luật liên quan và ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện cẩn thiết để đẩy mạnh kênh đóng góp này. Không nên đưa triết lý giáo dục vào Luật Nêu quan điểm về triết lý giáo dục, GS.TS Phạm Tất Dong, Ủy viên Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam chia sẻ “Học để làm người” là triết lý giáo dục bởi 3 lí do: Một là, các thế hệ con người Việt Nam trước đây đã quan niệm đúng đắn rằng, dù giàu hay nghèo, trong cuộc sống ít nhiều cũng phải có cái chữ, nghĩa là phải học, có học mới nên khôn. Hai là, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã từng nói rằng, học để thành cán bộ tốt, công dân tốt, chiến sĩ tốt, tức là thành người ở những cương vị hoạt động khác nhau. Ba là, trong trào lưu xây dựng xã hội học tập, UNESCO đã khuyến cáo học tập suốt đời xoay quanh 4 trụ cột giáo dục: Học để biết, học để làm người, học để chung sống và học để tự khẳng định mình. Nếu gắn vấn đề học để làm người với vấn đề học tập suốt đời, theo GS. Phạm Tất Dong, triết lý học để làm người có thể được phát biểu theo mệnh đề học suốt đời để làm người, hoặc nói khái quát hơn thì sẽ là học suốt đời vì sự phát triển bền vững. Nêu quan điểm về việc có nên hay không đưa triết lý giáo dục vào Luật Giáo dục (sửa đổi), GS.Phạm Tất Dong cho rằng, điều đó không nên và không đúng. Vì triết lý giáo dục là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh giáo dục chứ không nên đưa vào Luật Giáo dục. Luật Giáo dục không chỉ là trường, thầy mà còn là môi trường, sinh thái giáo dục Đó là ý kiến của ông Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai. Theo ông, hiện nay khi sửa Luật Giáo dục, chúng ta vẫn đang bàn đến giáo dục học đường, mà giáo dục học đường chỉ là một bộ phận chứ không phải tổng thể của giáo dục. Giáo dục còn có gia đình, cộng đồng. Vì vậy, khi nói tới xã hội hóa giáo dục là đòi hỏi toàn xã hội tham gia vào giáo dục, chứ không phải do một số người không hiểu hết mà biến báo xã hội hóa thành chuyện “tiền”. “Tôi rất muốn Luật Giáo dục đi vào thực tiễn đời sống hôm nay. Ví dụ nói về sách giáo khoa, tại sao đối với những ngành kỹ thuật, công nghệ chúng ta lại không đặt ra việc cho phép được sử dụng sách giáo khoa của nước ngoài. Trên thực tế Luật trong 10 năm, 15 năm sẽ phải thay đổi nên những gì phù hợp trong giai đoạn này - một giai đoạn chuyển đổi rất lớn - chúng ta phải đưa vào" - ông Dương Trung Quốc nêu quan điểm. Đề cập đến cuộc cách mạng 4.0 đang được nhắc đến nhiều hiện nay, ông Dương Trung Quốc lưu ý, trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) cần đề cập rõ ràng hơn nữa về vấn đề công nghệ. Bởi việc học hiện nay đã vượt ra khỏi không gian của nhà trường. Chính vì thế, cần có khung pháp lý, cơ chế để tạo điều kiện cho không gian công nghệ trong giáo dục được phát triển./. LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................
Đại diện nhóm 5 LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................Giáo dục & Đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển tới một xã hội tốt đẹp, là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền bình đẳng dân chủ, hợp tác trí tuệ và tin tưởng lẫn nhau. Vai trò của Giáo dục & Đào tạo đối với sự phát triển của đát nước đã được Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh trong các văn bản chỉ đạo, Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2, khóa VIII khẳng định: “Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi, phải phát triển Giáo dục & Đào tạo, phát huy nguồn động lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững... Cùng với khoa học và công nghệ giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò của giáo dục và đào tạo đồng thời xác định hướng nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành TW khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định rõ các quan điểm , mục tiêu phát triển giáo dục và đạo tạo phù hợp với xã hội nước nhà. Trên tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp chiến lược, trong đó công tác Xã hội hóa giáo dục được coi là giải pháp giữ vai trò chủ yếu trong quá trình phát triển sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo. Làm đề tài thảo luận này, với tư cách là sinh viên, công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một mặt chúng em muốn cùng mọi người tìm hiểu sâu hơn về “Xã hội hóa giáo dục”. Mặt khác, chúng em cũng tìm hiểu quá trình xây dựng, định hướng xã hội hóa nền giáo dục của Đảng và Nhà nước taã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược lớn của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được chúng em lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài “Xã hội hóa giáo dục và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay”. Để nghiên cứu rõ hơn về đề tài chũng ta sẽ chia đề tài làm 3 phần: PHẦN I: Xã hội hóa giáo dục PHẦN II: Những vẫn đề đặt ra đối với hệ thống Giá dục ở Việt Nam PHẦN III: Kết luận đề tài PHẦN I: XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC.....................................................................1. XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC LÀ GÌ?.....................................................................................
2. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC..........................2. Bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục......................................................Mác quan niệm: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, nhân cách con người hình thành dưới tác động các mối quan hệ xã hội và thông qua các hoạt động giáo dục. Đó là cơ sở khoa học để chứng minh rằng xã hội hóa công tác giáo dục là việc làm thích hợp để trả lại cho giáo dục bản chất xã hội vốn có của nó. Xã hội được xem như sự hợp thành của các thành phần là nhà trường, gia đình, xã hội. Trong cấu trúc xã hội, giáo dục nằm trong các thành phần này, vì thế giáo dục không còn là trách nhiệm riêng một mình ngành giáo dục mà là của tất cả mọi thành phần, đòi hỏi có sự tham gia, gánh vác của toàn xã hội. Cho nên đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ và huy động, thu hút các tổ chức chính trị – xã hội, các ngành đoàn thể, các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân,... cùng tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục dưới sự quản lý của Nhà nước để góp phần giáo dục cho trẻ em trong độ tuổi. Đó là bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục. 2. Vai trò của xã hội hóa công tác giáo dục........................................................ Xã hội hoá công tác giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Xã hội hoá công tác giáo dục huy động được các nguồn lực, tiềm năng của xã hội, khắc phục khó khăn trong quá trình phát triển giáo dục. Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa xã hội với nhà trường và gia đình Tổ chức Đại hội ban đại diện cha mẹ học sinh các cấp 4. Cơ sở chính trị, pháp lý của chính sách xã hội hóa giáo dục
đã phân chia dịch vụ và thương mại dịch vụ trên thế giới 12 nhóm lớn với 143 hạng mục dịch vụ. Trong 12 nhóm thương mại dịch vụ, thì dịch vụ giáo dục thuộc nhóm thứ năm, dịch vụ nhóm này bao gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục trong học; dịch vụ giáo dục đại học và cao đẳng; dịch vụ giáo dục cho người lớn và các dịch vụ giáo dục khác. Dù muốn hay không thì thị trường dịch vụ (giáo dục) cũng đã và đang hình thành ở nước ta khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
“Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.
thống giáo dục quốc dân; là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”. Quy định này đã tiếp tục được ghi nhận, mở rộng trong Luật giáo dục năm 2019 với nội dung: “Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa, liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho phân luồng, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân để địa phương và cơ sở giáo dục chủ động triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp; đáp ứng mục tiêu bình đẳng giới, yêu cầu hội nhập quốc tế”. “Chương trình giáo dục là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện”.Với tính chất này, chương trình giáo dục là thống nhất chung mà không có sự phân biệt, phân chia giữa các trường công lập và ngoài công lập. Tuy nhiên, với đòi hỏi của thực tế khi phải cạnh tranh nên các trường ngoài công lập đã “sáng tạo” trong việc thực hiện chương trình với nhiều mô hình học tập mới, phản ánh tính năng động về cách tư duy, cách đánh giá tình huống vấn đề phức tạp trong cuộc sống của xã hội. Các hoạt động này, ít nhiều đã hình thành phẩm chất, năng lực giải quyết vấn đề phù hợp với thực tiễn, đem lại kết quả thực sự cho cuộc sống, làm cho các phương pháp giáo dục truyền thống đang chịu nhiều thách thức, áp lực cạnh tranh đối với cả người dạy và cả người học. Điều này đã tạo ra những lợi ích xã hội nhất định khi mà đối tượng thụ hưởng đó chính là người học. Một số cơ sở ngoài công lập khi đi vào hoạt động đã xác lập ngay một số giá trị cốt lõi như nhân cách, trí tuệ, cảm xúc, đam mê, năng lượng... làm cơ sở xây dựng chương trình và phương pháp giảng dạy phù hợp.
GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể luôn duy trì ổn định trong khoảng 40%. Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành như Tập đoàn Vingroup, Trường Hải, FLC ... có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế. Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của kinh tế tư nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng liên tục trong những năm qua.
thuế người học. Điều này dẫn đến bất bình đẳng ngày càng lớn giữa hai loại hình trường trường công lập và ngoài công lập.
PHẦN II: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM...Ở VIỆT NAM HIỆN NAY5. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM........................... Thành tựu: 5 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW trong lĩnh vực giáo dục đào tạo đã mang lại nhiều kết quả nổi bật, đặc biệt trong bậc học mầm non và bậc phổ thông. Ở bậc đào tạo đại học cũng có nhiều đổi mới và đạt được một số thành tựu nổi bật. Một số trường đại học đã vươn lên và được xếp hạng ở khu vực và một số rất ít trường được xếp hạng cấp Quốc tế.
Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết là: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Sau 35 năm đổi mới, và qua hơn 6 năm thực thi Nghị quyết số 29-NQ/TW ngành giáo dục Việt Nam đã được được nhiều thành tựu quan trọng, giáo dục nước ta đã hình thành được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng hoá với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Theo tinh thần của nghị quyết: Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng rộng khắp trên toàn quốc. Các trường, lớp trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức, các lớp dạy nghề ngắn hạn phát triển mạnh. Các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở hầu hết các khu dân cư lớn của cả nước, các vùng, các địa phương. Mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng đến hầu hết các xã, phường, thị trấn trong toàn quốc. Cả nước đã hoàn thành công tác xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, một số nơi đang thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Theo báo cáo của trung tâm truyền thông giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2017, tất cả 63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Chất lượng phổ cập ngày càng được nâng cao. Tháng 8/2018, Chính phủ đã thống nhất chủ trương thực hiện chính sách hỗ trợ miễn học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi và hỗ trợ đóng học phí cơ sở ngoài công lập đối với trẻ em diện phổ cập, nhất là đối với các thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Nhiều tỉnh thành phố các cấp chính quyền đã hỗ trợ học phí cho học sinh từ bậc học mầm non tới hết bậc phổ thông. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện. Số trường lớp được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng. Đào tạo sau đại học được hình thành và phát triển vững chắc đang dần dần đảm đương trách nhiệm đào tạo cán bộ khoa học
Đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định sự nghiệp và chất lượng giáo dục. Trong những năm gần đây, điều kiện giáo dục và đời sống giáo viên được cải thiện, những đổi mới trong chính sách đối với giáo sinh đã thu hút ngày càng nhiều học sinh giỏi vào các trường sư phạm, mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên là những yếu tố tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ nhà giáo. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục là 20% tổng chi ngân sách Nhà nước, chiếm 5% GDP cả nước. Đây là sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục. Nhiều địa phương, bên cạnh ngân sách trung ương, còn có thêm từ ngân sách địa phương đầu tư cho giáo dục và đã có nhiều cố gắng cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đồng thời huy động nguồn lực của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, bảo đảm chất lượng dạy và học. Hạn chế: hiện nay chưa có lộ trình cụ thể để thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW và chính sách kèm theo, song chính vẫn là do phương pháp đào tạo đại học ở khá nhiều trường vẫn mang tính hàn lâm với “tri thức hàn lâm”, quy trình đào tạo cũng theo “công nghệ hàn lâm”, từ khâu tuyển sinh đến nội dụng, chương trình và phương pháp đào tạo. Do đó, việc đổi mới tư duy trong giáo dục theo hướng giáo dục mở như Nghị quyết 29- NQ/TW yêu cầu là rất chậm, là rào cản chính trong việc phát triển hệ thống.
sư, cử nhân Việt Nam ra trường nhưng thử hỏi có bao nhiêu người đạt được trình độ kỹ thuật của kỹ sư? Bao nhiêu người dùng được? Bao nhiêu người làm việc theo đúng ngành nghề mình đã học, đó là một sự lãng phí lớn. Xây dựng trường đại học mang tầm quốc tế chỉ là điều kiện “cần” nhưng chưa “đủ”. Trên thế giới người ta rất quan tâm đến những thợ giỏi, chuyên viên kỹ thuật cao. Đất nước đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa mà sinh viên không chịu học kỹ thuật, chỉ tập trung không cân bằng vào các ngành dễ được xã hội “chấp nhận” thì làm sao có thể phát triển công nghiệp, làm sao hiện đại hoá đất nước.
2. NGUYÊN NHÂN KHIẾN NỀN GIÁO DỤC VIÊT NAM YẾU KÉM...............................
3. GIẢI PHÁP....................................................................................................Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Cần đổi mới cơ bản về tư duy và phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện cải cách hành chính, thể chế hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý GD&ĐT ở các cấp, các ban ngành. Nhà quản lý ở tầm vĩ mô chỉ nên đóng vai trò của mô ̣t nhạc trưởng, thông qua đó kiểm soát, vận hành và kịp thời khắc phục những tồn tại, bất cập của hệ thống. Xã hội hóa giáo dục là gì?Xã hội hoá giáo dục là làm cho hoạt động giáo dục mang tính xã hội. Trong đó người đi giáo dục và người được giáo dục trong mọi hoạt động về nội dung và phương thức thực hiện, kết quả đạt được đều mang tính xã hội, tính chuẩn mực xã hội rất cao. Xã hội học giáo dục là gì?Xã hội học giáo dục là một chuyên ngành thuộc Xã hội học. Môn học trang bị, cung cấp cho sinh viên những kiến thức, những lý thuyết nhằm tiếp cận và giải thích các hiện tượng giáo dục dưới quan điểm xã hội học. Văn hóa giáo dục có ý nghĩa như thế nào?Văn hóa giáo dục là nền giáo dục được tổ chức, vận hành hướng tới các chuẩn và các giá trị của giáo dục. Triển khai văn hóa giáo dục là làm cho các khâu, các thành tố, các hoạt động của gia tăng các giá trị chân, thiện, mỹ và các giá trị đó thể hiện đầy đủ trong các phương diện, các quá trình giáo dục. Hoạt động xã hội hóa là gì?Xã hội hóa là quá trình học hỏi các giá trị, chuẩn mực, và hành vi của xã hội mà cá nhân sinh sống. Quá trình này bắt đầu ngay khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc đời của mỗi người. |