Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là gì năm 2024

Một trong những vấn đề quan trọng được đề cập trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) là chính sách xã hội hóa giáo dục. TS. Phạm Thị Ly - Ủy viên Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nguồn nhân lực cho rằng, mặc dù chủ trương xã hội hóa giáo dục đã được khẳng định từ lâu trong các nghị quyết của Đảng, của Chính phủ, và sự tham gia của khu vực tư nhân đã tạo ra nhiều thay đổi đáng kể trong giáo dục, vẫn đang có những điểm bất cập đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc để có những chính sách phù hợp.

Cho tới nay, các luật chuyên ngành về đất đai, tài chính, tín dụng, thuế đã có chính sách ưu đãi xã hội hóa nói chung nhưng chưa có chính sách riêng hỗ trợ chính sách xã hội hóa giáo dục. Các quy định về bảo hộ, ưu đãi, khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực GD&ĐT còn chung chung, không cụ thể.

Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là gì năm 2024

Một buổi học STEM của học sinh dân tộc thiểu số. Ảnh: TL

TS. Phạm Thị Ly cho rằng, cần phải xác định lại quan điểm, hiểu đúng về xã hội hóa. Xã hội hóa không phải chỉ dựa vào học phí, xã hội hóa phải dựa vào các nguồn lực đa dạng của xã hội, không chỉ dựa vào người học. Điều này, theo TS Phạm Thị Ly, đã thể hiện tương đối rõ trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi).

Đơn cử, dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) đã nêu ra nhiều điểm cụ thể để hỗ trợ cho khu vực giáo dục tư, chẳng hạn như Điều 96 quy định “các khoản đóng góp, tài trợ của cá nhân cho giáo dục được trừ vào thu nhập chịu thuế, tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng công trình phục vụ giáo dục, ủng hộ tiền hay hiện vật thì được xem xét để ghi nhận bằng hình thức thích hợp”.

Ngoài ra, các đầu tư và đóng góp cho giáo dục, cũng như chi phí của doanh nghiệp trong việc đào tạo nhân viên cũng được tính là chi phí hợp lý được trừ khi tính thu nhập chịu thuế. Cần điều chỉnh các luật liên quan và ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện cẩn thiết để đẩy mạnh kênh đóng góp này.

Không nên đưa triết lý giáo dục vào Luật

Nêu quan điểm về triết lý giáo dục, GS.TS Phạm Tất Dong, Ủy viên Hội đồng quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam chia sẻ “Học để làm người” là triết lý giáo dục bởi 3 lí do: Một là, các thế hệ con người Việt Nam trước đây đã quan niệm đúng đắn rằng, dù giàu hay nghèo, trong cuộc sống ít nhiều cũng phải có cái chữ, nghĩa là phải học, có học mới nên khôn.

Hai là, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã từng nói rằng, học để thành cán bộ tốt, công dân tốt, chiến sĩ tốt, tức là thành người ở những cương vị hoạt động khác nhau.

Ba là, trong trào lưu xây dựng xã hội học tập, UNESCO đã khuyến cáo học tập suốt đời xoay quanh 4 trụ cột giáo dục: Học để biết, học để làm người, học để chung sống và học để tự khẳng định mình.

Nếu gắn vấn đề học để làm người với vấn đề học tập suốt đời, theo GS. Phạm Tất Dong, triết lý học để làm người có thể được phát biểu theo mệnh đề học suốt đời để làm người, hoặc nói khái quát hơn thì sẽ là học suốt đời vì sự phát triển bền vững.

Nêu quan điểm về việc có nên hay không đưa triết lý giáo dục vào Luật Giáo dục (sửa đổi), GS.Phạm Tất Dong cho rằng, điều đó không nên và không đúng. Vì triết lý giáo dục là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh giáo dục chứ không nên đưa vào Luật Giáo dục.

Luật Giáo dục không chỉ là trường, thầy mà còn là môi trường, sinh thái giáo dục

Đó là ý kiến của ông Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai. Theo ông, hiện nay khi sửa Luật Giáo dục, chúng ta vẫn đang bàn đến giáo dục học đường, mà giáo dục học đường chỉ là một bộ phận chứ không phải tổng thể của giáo dục. Giáo dục còn có gia đình, cộng đồng. Vì vậy, khi nói tới xã hội hóa giáo dục là đòi hỏi toàn xã hội tham gia vào giáo dục, chứ không phải do một số người không hiểu hết mà biến báo xã hội hóa thành chuyện “tiền”.

“Tôi rất muốn Luật Giáo dục đi vào thực tiễn đời sống hôm nay. Ví dụ nói về sách giáo khoa, tại sao đối với những ngành kỹ thuật, công nghệ chúng ta lại không đặt ra việc cho phép được sử dụng sách giáo khoa của nước ngoài. Trên thực tế Luật trong 10 năm, 15 năm sẽ phải thay đổi nên những gì phù hợp trong giai đoạn này - một giai đoạn chuyển đổi rất lớn - chúng ta phải đưa vào" - ông Dương Trung Quốc nêu quan điểm.

Đề cập đến cuộc cách mạng 4.0 đang được nhắc đến nhiều hiện nay, ông Dương Trung Quốc lưu ý, trong dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) cần đề cập rõ ràng hơn nữa về vấn đề công nghệ. Bởi việc học hiện nay đã vượt ra khỏi không gian của nhà trường. Chính vì thế, cần có khung pháp lý, cơ chế để tạo điều kiện cho không gian công nghệ trong giáo dục được phát triển./.

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................

  • PHẦN I: XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC.....................................................................
  • 1. XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC LÀ GÌ?.....................................................................................
  • 1. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC..........................
  • 1. Bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục......................................................
    • 1. Vai trò của xã hội hóa công tác giáo dục........................................................
    • 1. Ý nghĩa của xã hội hóa công tác gióa dục.......................................................
  • 1. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC.................................
  • 1. CƠ SỞ CHÍNH TRỊ, PHÁP LÝ CỦA CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC.................
  • 1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM...........................
  • 1. Những kết quả đạt được...................................................................
  • 1. Những hạn chế bất cập.....................................................................
  • PHẦN II: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM...
  • 1. THỰC TRẠNG NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY...........................................
  • 1. NGUYÊN NHÂN KHIẾN NỀN GIÁO DỤC VIÊT NAM YẾU KÉM...............................
  • 1. GIẢI PHÁP....................................................................................................
  • PHẦN III: KẾT LUẬN ĐỀ TÀI.....................................................................................
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................

Đại diện nhóm 5

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................

Giáo dục & Đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển tới một xã hội tốt đẹp, là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền bình đẳng dân chủ, hợp tác trí tuệ và tin tưởng lẫn nhau. Vai trò của Giáo dục & Đào tạo đối với sự phát triển của đát nước đã được Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh trong các văn bản chỉ đạo, Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2, khóa VIII khẳng định: “Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi, phải phát triển Giáo dục & Đào tạo, phát huy nguồn động lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững... Cùng với khoa học và công nghệ giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu”.

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò của giáo dục và đào tạo đồng thời xác định hướng nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành TW khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định rõ các quan điểm , mục tiêu phát triển giáo dục và đạo tạo phù hợp với xã hội nước nhà. Trên tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp chiến lược, trong đó công tác Xã hội hóa giáo dục được coi là giải pháp giữ vai trò chủ yếu trong quá trình phát triển sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo.

Làm đề tài thảo luận này, với tư cách là sinh viên, công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một mặt chúng em muốn cùng mọi người tìm hiểu sâu hơn về “Xã hội hóa giáo dục”. Mặt khác, chúng em cũng tìm hiểu quá trình xây dựng, định hướng xã hội hóa nền giáo dục của Đảng và Nhà nước taã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược lớn của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được chúng em lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài “Xã hội hóa giáo dục và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay”. Để nghiên cứu rõ hơn về đề tài chũng ta sẽ chia đề tài làm 3 phần:

PHẦN I: Xã hội hóa giáo dục PHẦN II: Những vẫn đề đặt ra đối với hệ thống Giá dục ở Việt Nam PHẦN III: Kết luận đề tài

PHẦN I: XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC.....................................................................

1. XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC LÀ GÌ?.....................................................................................

  • Xã hội hoá giáo dục là huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước để xây dựng một xã hội học tập; là việc thực hiện mối liên hệ phổ biến giữa hoạt động giáo dục và cộng đồng xã hội, làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển của xã hội, thích ứng với xã hội, duy trì sự cân bằng giữa hoạt động giáo dục và xã hội.
  • Xã hội hoá giáo dục là làm cho hoạt động giáo dục mang tính xã hội. Trong đó người đi giáo dục và người được giáo dục trong mọi hoạt động về nội dung và phương thức thực hiện, kết quả đạt được đều mang tính xã hội, tính chuẩn mực xã hội rất cao. Giáo dục nhằm bồi đắp cho người học tư tưởng, hình thành ý thức chính trị, nhân cách, bản lĩnh dân tộc cùng với những tri thức khoa học, kỹ thuật, văn hoá, đạo đức, lối sống.

2. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC..........................

2. Bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục......................................................

Mác quan niệm: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, nhân cách con người hình thành dưới tác động các mối quan hệ xã hội và thông qua các hoạt động giáo dục. Đó là cơ sở khoa học để chứng minh rằng xã hội hóa công tác giáo dục là việc làm thích hợp để trả lại cho giáo dục bản chất xã hội vốn có của nó.

Xã hội được xem như sự hợp thành của các thành phần là nhà trường, gia đình, xã hội. Trong cấu trúc xã hội, giáo dục nằm trong các thành phần này, vì thế giáo dục không còn là trách nhiệm riêng một mình ngành giáo dục mà là của tất cả mọi thành phần, đòi hỏi có sự tham gia, gánh vác của toàn xã hội.

Cho nên đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ và huy động, thu hút các tổ chức chính trị – xã hội, các ngành đoàn thể, các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân,... cùng tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục dưới sự quản lý của Nhà nước để góp phần giáo dục cho trẻ em trong độ tuổi. Đó là bản chất của xã hội hóa công tác giáo dục.

2. Vai trò của xã hội hóa công tác giáo dục........................................................

 Xã hội hoá công tác giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.  Xã hội hoá công tác giáo dục huy động được các nguồn lực, tiềm năng của xã hội, khắc phục khó khăn trong quá trình phát triển giáo dục.

 Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa xã hội với nhà trường và gia đình  Tổ chức Đại hội ban đại diện cha mẹ học sinh các cấp 4. Cơ sở chính trị, pháp lý của chính sách xã hội hóa giáo dục

  • Trong tiến trình phát triển ở nhiều quốc gia, giáo dục được xem là cách để giảm thiểu rủi ro, nguy cơ cho xã hội và là con đường hữu hiệu để chống đói nghèo. Ngày nay, khi trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của một quốc gia thì chúng ta đều ý thức được rằng, giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Theo đó, các nước kém phát triển cần quan tâm đến giáo dục và đầu tư cho giáo dục bởi đây chính là đầu tư cho phát triển, quyết định vận mệnh của con người, xã hội, vận mệnh của dân tộc. Vì thế, giáo dục, đào tạo giữ vai trò trung tâm, then chốt để hội nhập và phát triển của mỗi quốc gia.
  • So với các nước, kể cả các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn thì tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục trên GDP của Việt Nam khá lý tưởng (khoảng 5% GDP) góp phần đem lại những thành tựu quan trọng cho giáo dục nước nhà. Để thực hiện nguyên tắc hiến định “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Luật Giáo dục qua các thời kỳ đã xác định rõ hệ thống giáo dục quốc dân là hệ thống giáo dục mở, liên thông gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Trong đó, cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Để bảo đảm tính chất “đa mục tiêu” của nền giáo dục, chúng ta không thể chỉ dựa vào nguồn lực của Nhà nước, mà cần thực hiện giải pháp “xã hội hoá”.
  • Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương được thực hiện ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, không chỉ những quốc gia nghèo, kém phát triển mà ngay cả ở các quốc gia phát triển, công tác xã hội hóa giáo dục càng được thực hiện rộng rãi và có hiệu quả. Tuy nhiên, qua các giai đoạn và tùy từng quốc gia, dân tộc, thuật ngữ xã hội hóa giáo dục có nhiều cách hiểu với những nội hàm ít nhiều liên quan đến các khía cạnh như: phi tập trung hóa (decentralization); giáo dục suốt đời (longlife education); xã hội học tập (learning society); giáo dục cộng đồng (comunity education). Tổ chức thương mại thế giới (WTO)

đã phân chia dịch vụ và thương mại dịch vụ trên thế giới 12 nhóm lớn với 143 hạng mục dịch vụ. Trong 12 nhóm thương mại dịch vụ, thì dịch vụ giáo dục thuộc nhóm thứ năm, dịch vụ nhóm này bao gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục trong học; dịch vụ giáo dục đại học và cao đẳng; dịch vụ giáo dục cho người lớn và các dịch vụ giáo dục khác. Dù muốn hay không thì thị trường dịch vụ (giáo dục) cũng đã và đang hình thành ở nước ta khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.

  • Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 đã chỉ rõ, “Thể chế hoá chủ trương xã hội hoá giáo dục đã ghi trong nghị quyết Đại hội VIII”.Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục đã nêu, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Sau Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII nêu trên, Luật Giáo dục ra đời năm 1998, lần đầu tiên công nhận chế độ đa sở hữu đối với các cơ sở giáo dục, bao gồm công lập, bán công, dân lập và tư thục.
  • Ngày 14/6/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục. Luật Giáo dục xác định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội:

“Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục”.

  • Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, trong đó đặt mục tiêu định hướng đến năm 2010, “tỷ lệ học sinh nhà trẻ ngoài công lập chiếm 80%, mẫu giáo 70%, trung học phổ thông 40%, trung học chuyên nghiệp 30%, các cơ sở dạy nghề 60%, đại học, cao đẳng khoảng 40%”
  • Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 40/NQ-CP về xã hội hóa giáo dục. Những năm gần đây, chủ trương xã hội hóa giáo dục còn được Trung ương chỉ đạo rõ hơn

thống giáo dục quốc dân; là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”.

Quy định này đã tiếp tục được ghi nhận, mở rộng trong Luật giáo dục năm 2019 với nội dung: “Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa, liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho phân luồng, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân để địa phương và cơ sở giáo dục chủ động triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp; đáp ứng mục tiêu bình đẳng giới, yêu cầu hội nhập quốc tế”.

“Chương trình giáo dục là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện”.Với tính chất này, chương trình giáo dục là thống nhất chung mà không có sự phân biệt, phân chia giữa các trường công lập và ngoài công lập. Tuy nhiên, với đòi hỏi của thực tế khi phải cạnh tranh nên các trường ngoài công lập đã “sáng tạo” trong việc thực hiện chương trình với nhiều mô hình học tập mới, phản ánh tính năng động về cách tư duy, cách đánh giá tình huống vấn đề phức tạp trong cuộc sống của xã hội.

Các hoạt động này, ít nhiều đã hình thành phẩm chất, năng lực giải quyết vấn đề phù hợp với thực tiễn, đem lại kết quả thực sự cho cuộc sống, làm cho các phương pháp giáo dục truyền thống đang chịu nhiều thách thức, áp lực cạnh tranh đối với cả người dạy và cả người học. Điều này đã tạo ra những lợi ích xã hội nhất định khi mà đối tượng thụ hưởng đó chính là người học. Một số cơ sở ngoài công lập khi đi vào hoạt động đã xác lập ngay một số giá trị cốt lõi như nhân cách, trí tuệ, cảm xúc, đam mê, năng lượng... làm cơ sở xây dựng chương trình và phương pháp giảng dạy phù hợp.

  • Về nguồn lực, các trường ngoài công lập chất lượng cao được tư nhân đầu tư mạnh mẽ khang trang về cơ sở vật chất, hiện đại về chương trình và hứa hẹn sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong các năm tới bởi các tập đoàn kinh tế tư nhân. Quan điểm, “các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật ”làm cho vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn. Tỷ trọng trong

GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể luôn duy trì ổn định trong khoảng 40%. Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành như Tập đoàn Vingroup, Trường Hải, FLC ... có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế. Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của kinh tế tư nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng liên tục trong những năm qua.

  • Với những quan điểm về xã hội hoá giáo dục đã và đang triển khai trong hơn hai thập niên qua, mô hình giáo dục ngoài công lập gia tăng về số lượng điều đó cho thấy giáo dục ngoài công lập đã có sự phát triển và cả sự “chấp nhận” của xã hội đặc biệt là ở các thành phố lớn của Việt Nam. Ví dụ, những năm đầu thập kỷ 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có số ít trường phổ thông dân lập với chưa tới 1 học sinh, sau đó, chưa đầy 10 năm đã tăng lên 130 trường với gần 30 học sinh cho cả 4 cấp: mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, đến năm học 2018-2019 có 932 trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông dân lập với 280 học sinh, tăng gần 10 lần so với 10 năm trước. Theo thống kê của Sở giáo dục thành phố Hồ Chí Minh, số lượng trường công lập và ngoài công lập của Thành phố tương đương nhau (110 và 113 trường) đây là tỷ lệ cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước.
  • Những hạn chế, bất cập
  • Về điều kiện thành lập: Quan điểm xếp giáo dục là ngành nghề kinh doanh có điều kiện là hoàn toàn hợp lý bởi tính chất và đặc thù của lĩnh vực này. Thành lập cơ sở giáo dục của nhà đầu tư ngoài công lập là tiền đề để hoạt động của một nhà trường. Tuy nhiên, hồ sơ thủ tục trong cấp phép thành lập trường được xem là hành trình đầy “nan giải” của nhà đầu tư. Thủ tục hành chính về cấp phép thành lập đã được quy định trong Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Giáo dục nhưng về bản chất các quy định vẫn ở dạng “luật khung”; vì thế, để thực thi được thì địa phương đã ban hành những quy định riêng. Những quy định riêng đó đã làm cho bức tranh về thủ tục được cấp phép thành lập trường ngoài công lập không thống nhất giữa các địa phương. Điều này đã làm tăng phát

thuế người học. Điều này dẫn đến bất bình đẳng ngày càng lớn giữa hai loại hình trường trường công lập và ngoài công lập.

  • Về chương trình: Thực tế trong những năm qua cho thấy, phương pháp mới, lạ với người học là yếu tố thu hút người học của các trường ngoài công lập. Tuy nhiên, yêu cầu chung là vẫn phải đảm bảo nội đúng chương trình khung của đơn vị chủ quản, vì thế tính xã hội hoá giáo dục mới chỉ dừng lại ở việc đầu tư cơ sở vật chất chứ không phải là độc lập trong hoạt động (cho dù đó có thể là chương trình có ưu điểm vượt trội). Thực tế ngay cả các trường quốc tế khi hoạt động tại Việt Nam thì cũng gặp khó bởi “đầu ra” giáo dục ở nước ta vẫn bị chi phối bởi tính nguyên tắc.
  • Về cơ sở hạ tầng: Có thể nói rằng, cơ sở hạ tầng của vùng, miền, địa phương hay là một quốc gia cũng có tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư hay tiếp cận giáo dục của người học. Cụ thể, khi người học đến từ vùng khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn mà được miễn học phí, được trợ cấp bữa trưa, nhà ở nhưng đường đến trường xa và khó đi thì tỷ lệ bỏ học vẫn ở mức cao (điều này chúng ta thường thấy tại các vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế, giao thông đi lại khó khăn như địa bàn một số tỉnh ở tây Bắc, tây Nguyên). Trường hợp này khó khăn cho ngay cả các trường công lập trong việc thu hút người học, và mức độ khó lại càng tăng (thậm chí bất khả thi) đối với các trường ngoài công lập.

PHẦN II: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM...

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

5. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM...........................

 Thành tựu: 5 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW trong lĩnh vực giáo dục đào tạo đã mang lại nhiều kết quả nổi bật, đặc biệt trong bậc học mầm non và bậc phổ thông. Ở bậc đào tạo đại học cũng có nhiều đổi mới và đạt được một số thành tựu nổi bật. Một số trường đại học đã vươn lên và được xếp hạng ở khu vực và một số rất ít trường được xếp hạng cấp Quốc tế.

  • Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình và phương thức giáo dục.

Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết là: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.

Sau 35 năm đổi mới, và qua hơn 6 năm thực thi Nghị quyết số 29-NQ/TW ngành giáo dục Việt Nam đã được được nhiều thành tựu quan trọng, giáo dục nước ta đã hình thành được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng hoá với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Theo tinh thần của nghị quyết: Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng rộng khắp trên toàn quốc. Các trường, lớp trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức, các lớp dạy nghề ngắn hạn phát triển mạnh. Các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở hầu hết các khu dân cư lớn của cả nước, các vùng, các địa phương. Mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng đến hầu hết các xã, phường, thị trấn trong toàn quốc. Cả nước đã hoàn thành công tác xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, một số nơi đang thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Theo báo cáo của trung tâm truyền thông giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2017, tất cả 63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Chất lượng phổ cập ngày càng được nâng cao. Tháng 8/2018, Chính phủ đã thống nhất chủ trương thực hiện chính sách hỗ trợ miễn học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi và hỗ trợ đóng học phí cơ sở ngoài công lập đối với trẻ em diện phổ cập, nhất là đối với các thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Nhiều tỉnh thành phố các cấp chính quyền đã hỗ trợ học phí cho học sinh từ bậc học mầm non tới hết bậc phổ thông. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện. Số trường lớp được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng. Đào tạo sau đại học được hình thành và phát triển vững chắc đang dần dần đảm đương trách nhiệm đào tạo cán bộ khoa học

  • Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được cải thiện. Trong những năm qua, kết hợp nhiều nguồn vốn, ngành Giáo dục và các địa phương đã cố gắng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá một bước cơ sở vật chất kỹ thuật của các nhà trường ở các cấp bậc học, tạo điều kiện để bảo đảm nâng cao chất lượng dạy và học.

Đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định sự nghiệp và chất lượng giáo dục. Trong những năm gần đây, điều kiện giáo dục và đời sống giáo viên được cải thiện, những đổi mới trong chính sách đối với giáo sinh đã thu hút ngày càng nhiều học sinh giỏi vào các trường sư phạm, mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên là những yếu tố tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ nhà giáo.

Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục là 20% tổng chi ngân sách Nhà nước, chiếm 5% GDP cả nước. Đây là sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục. Nhiều địa phương, bên cạnh ngân sách trung ương, còn có thêm từ ngân sách địa phương đầu tư cho giáo dục và đã có nhiều cố gắng cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đồng thời huy động nguồn lực của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, bảo đảm chất lượng dạy và học.

 Hạn chế: hiện nay chưa có lộ trình cụ thể để thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW và chính sách kèm theo, song chính vẫn là do phương pháp đào tạo đại học ở khá nhiều trường vẫn mang tính hàn lâm với “tri thức hàn lâm”, quy trình đào tạo cũng theo “công nghệ hàn lâm”, từ khâu tuyển sinh đến nội dụng, chương trình và phương pháp đào tạo. Do đó, việc đổi mới tư duy trong giáo dục theo hướng giáo dục mở như Nghị quyết 29- NQ/TW yêu cầu là rất chậm, là rào cản chính trong việc phát triển hệ thống.

  • Khâu tuyển sinh (mới được đổi mới một số năm gần đây song cơ bản): Không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động; các trường hầu như thiếu tín hiệu từ thị trường về cơ cấu ngành nghề xã hội cần, về số lượng lao động cần tuyển, về trình độ, năng lực người lao động cần có, về triển vọng ngành nghề. Tuyển sinh chủ yếu dựa vào chỉ tiêu Bộ cho phép.
  • Chương trình đào tạo Một số trường đang có nhiều đổi mới, theo hướng chương trình đào tạo năng động, tính mở cao..., song nhìn chung:
  • Dạy lý thuyết nhiều, nhiều mục trong bài giảng vô bổ, lý thuyết suông, không gắn với thực tế (ngay cả môn Toán, cố PGS Văn Như Cương cũng thấy thừa nhiều nội dung).
  • Sau giờ học, sinh viên không hoặc ít đến thư viện đọc sách, giáo viên giảng xong là hoàn thành nhiệm vụ.
  • Do quá tải nên không còn thời gian trau dồi kiến thức mới. Tóm lại là học sinh thụ động tiếp thu bài.
  • Trường ít có liên hệ, mời giáo viên thực tế về giảng dạy, chương trình giảng dạy khép kín, học sinh không được tiếp cận với thực tế hoặc nếu có cũng rất ít vì thiếu kinh phí.
  • Chương trình chưa bám sát quan điểm chỉ đạo: Thực học, thực nghiệp. Do đó, sau khi ra trường cử nhân bỡ ngỡ với thực tiễn.
  • Phương pháp giảng dạy Nhiều trường đã đổi mới phương pháp giảng dạy. Song nhiều trường vẫn độc thoại, thuyết trình là chính, phương pháp này đã lỗi thời, sơ cứng làm học sinh thụ động, máy móc, học sinh không có tư duy sáng tạo, không dám đổi mới, không tự tin khi có ý tưởng mới vì phải thuộc bài giảng của thầy, nếu không điểm thi sẽ kém.
  • Đọc, nhìn (do có trường hiện nay đã sử dụng thiết bị tin học trong giảng dạy, song trò cũng sử dụng máy điện thoại chụp lại bài của thầy), chép vẫn là phổ biến, ít thảo luận nhóm.
  • Phương pháp thi cử cũng đã lạc hậu bởi chưa tăng tính đối thoại trong thi cử.

sư, cử nhân Việt Nam ra trường nhưng thử hỏi có bao nhiêu người đạt được trình độ kỹ thuật của kỹ sư? Bao nhiêu người dùng được? Bao nhiêu người làm việc theo đúng ngành nghề mình đã học, đó là một sự lãng phí lớn. Xây dựng trường đại học mang tầm quốc tế chỉ là điều kiện “cần” nhưng chưa “đủ”. Trên thế giới người ta rất quan tâm đến những thợ giỏi, chuyên viên kỹ thuật cao. Đất nước đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa mà sinh viên không chịu học kỹ thuật, chỉ tập trung không cân bằng vào các ngành dễ được xã hội “chấp nhận” thì làm sao có thể phát triển công nghiệp, làm sao hiện đại hoá đất nước.

  • Công tác xã hội hóa giáo dục vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc Một số xã, phường, cấp ủy, chính quyền địa phương, đoàn thể và phụ huynh học sinh chưa chú trọng đến việc học tập của con em mình; chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, tầm quan trọng của giáo dục. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên một bộ phận học sinh phải bỏ học để đi làm phụ giúp gia đình. Mặt khác, việc quản lí công tác xã hội hóa giáo dục còn thiếu biện pháp phù hợp, tính khả thi chưa cao.

2. NGUYÊN NHÂN KHIẾN NỀN GIÁO DỤC VIÊT NAM YẾU KÉM...............................

  • Ngôn ngữ: Thứ ngôn ngữ giảng dạy chính là tiếng Việt, là thứ ngôn ngữ chỉ có người Việt Nam dùng, đây là thứ ngôn ngữ có tính chất riêng biệt không có khả năng hội nhập, trong khi ngôn ngữ giao tiếp quốc tế là tiếng Anh thì ít được chú trọng trong nhà trường (nhất là các trường công lập).
  • Chương trình, giáo trình giảng dạy hầu hết do giáo viên trong nước biên soạn, chưa được tiêu chuẩn hoá và công nhận trên quốc tế, dẫn đến việc bằng cấp cũng chưa được công nhận và đánh giá cho chuẩn, đúng mức, khiến sinh viên khó tham gia các chương trình trao đổi giao lưu một năm với các trường đại học trên thế giới hoặc chuyển ngang sang học tiếp tại các trường đại học quốc tế hoặc xét học tiếp các cấp độ cao hơn đối với các học sinh đã tốt nghiệp trong nước.
  • Hệ thống thi cử đánh giá thực lực khả năng của học sinh còn bất cập: Chỗ khó, chỗ dễ... khiến học sinh học lệnh, học tủ, quay cóp, dạy và học thêm làm mất quá nhiều thời gian của xã hội bao gồm cả học sinh và phụ huynh.
  • Bệnh thành tích có nguy cơ quay trở lại sau vài năm đã được nêu đích danh và có biện pháp ngăn chặn. Nguyên nhân sâu xa từ các cách tuyển chọn nhân sự của nhà nước: Tiêu chuẩn hoá cán bộ dựa trên bằng cấp chứ không dựa vào thực tài...
  • Chương trình giáo dục còn coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức; phương pháp giáo dục, kiểm tra, thi và đánh giá lạc hậu, thiếu thực chất; thiếu gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kĩ năng làm việc.
  • Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục còn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

3. GIẢI PHÁP....................................................................................................

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý  Cần đổi mới cơ bản về tư duy và phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện cải cách hành chính, thể chế hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý GD&ĐT ở các cấp, các ban ngành.  Nhà quản lý ở tầm vĩ mô chỉ nên đóng vai trò của mô ̣t nhạc trưởng, thông qua đó kiểm soát, vận hành và kịp thời khắc phục những tồn tại, bất cập của hệ thống.

Xã hội hóa giáo dục là gì?

Xã hội hoá giáo dục là làm cho hoạt động giáo dục mang tính xã hội. Trong đó người đi giáo dục và người được giáo dục trong mọi hoạt động về nội dung và phương thức thực hiện, kết quả đạt được đều mang tính xã hội, tính chuẩn mực xã hội rất cao.

Xã hội học giáo dục là gì?

Xã hội học giáo dục là một chuyên ngành thuộc Xã hội học. Môn học trang bị, cung cấp cho sinh viên những kiến thức, những lý thuyết nhằm tiếp cận và giải thích các hiện tượng giáo dục dưới quan điểm xã hội học.

Văn hóa giáo dục có ý nghĩa như thế nào?

Văn hóa giáo dục là nền giáo dục được tổ chức, vận hành hướng tới các chuẩn và các giá trị của giáo dục. Triển khai văn hóa giáo dục là làm cho các khâu, các thành tố, các hoạt động của gia tăng các giá trị chân, thiện, mỹ và các giá trị đó thể hiện đầy đủ trong các phương diện, các quá trình giáo dục.

Hoạt động xã hội hóa là gì?

Xã hội hóa là quá trình học hỏi các giá trị, chuẩn mực, và hành vi của xã hội mà cá nhân sinh sống. Quá trình này bắt đầu ngay khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc đời của mỗi người.