10 trung tâm cai nghiện rượu hàng đầu ở mỹ năm 2022

Nghiện rượu, chết sớm

Một nghiên cứu mới, vừa được công bố trên tạp chí Alcoholism: Clinical & Experimental Research (Mỹ), ngày 16/10/2012, cho thấy rằng, tuổi thọ của những người phụ thuộc vào rượu, đặc biệt là phụ nữ có thể bị giảm một cách đáng kể, thậm chí còn giảm nhiều hơn so với người hút thuốc lá.

Show

10 trung tâm cai nghiện rượu hàng đầu ở mỹ năm 2022

Một nghiên cứu mới, vừa được công bố trên tạp chí Alcoholism: Clinical & Experimental Research (Mỹ), ngày 16/10/2012, cho thấy rằng, tuổi thọ của những người phụ thuộc vào rượu, đặc biệt là phụ nữ có thể bị giảm một cách đáng kể, thậm chí còn giảm nhiều hơn so với người hút thuốc lá.

10 trung tâm cai nghiện rượu hàng đầu ở mỹ năm 2022

Ảnh minh họa:Internet

“Kết quả nghiên cứu này xác nhận mối liên quan giữa tình trạng nghiện rượu và nguy cơ chết sớm. Đồng thời, nó cũng củng cố thêm bằng chứng cho thấy, phụ nữ uống rượu thường đối diện với nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn so với đàn ông", tiến sĩ James Garbutt, giáo sư Khoa Tâm thần học tại Trường ĐH Bắc Carolina (Mỹ), người không tham gia vào nghiên cứu này, cho biết. Trong cuộc nghiên cứu, dẫn đầu bởi Ulrich John - Giám đốc Viện Dịch tễ học và Y học xã hội tại Trường ĐH Y Greifswald (Đức), các nhà khoa học đã thu thập dữ liệu của hơn 4.000 người đàn ông và phụ nữ (một phần là người Đức) và theo dõi họ trong khoảng thời gian 14 năm. Trong số này, có 153 người được xác định là phụ thuộc vào rượu. Nhà nghiên cứu John cho biết: "Đầu tiên, chúng tôi phát hiện tỷ lệ tử vong hàng năm ở những phụ nữ nghiện rượu là 4,6 lần cao hơn và đối với đàn ông là 1,9 lần cao hơn so với những người cùng độ tuổi và giới tính không uống rượu. Thứ hai, chúng tôi thấy rằng tuổi tử vong trung bình ở những phụ nữ nghiện rượu là 60 và 58 đối với đàn ông, cả hai độ tuổi này đều thấp hơn tuổi trung bình lúc chết ở những người không uống rượu là 20 năm”. Mặc dù nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa tình trạng phụ thuộc vào rượu và nguy cơ chết sớm, nhưng nó đã không chứng minh được mối quan hệ trực tiếp giữa hai việc này, các nhà nghiên cứu cho biết.

Trọng Nguyên  (Theo Goodhealth)

1 NGHIỆN RƯỢU

1.1        Khái niệm

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, nghiện rượu là nhu cầu thèm muốn, đòi hỏi thường xuyên đồ uống có cồn, hình thành thói quen, gây rối loạn nhân cách, giảm khả năng lao động và ảnh hưởng đến sức khỏe. Có 7 triệu chứng chính của hội chứng nghiện rượu, đó là:

– Cảm giác thôi thúc phải uống rượu: người nghiện rượu khi đã bắt đầu uống rượu thì không thể ngừng lại được. Nếu họ bỏ rượu, họ cảm thấy thèm mãnh liệt.

– Thói quen uống rượu hàng ngày: người uống rượu uống hết ngày này sang ngày khác. Họ uống rượu sau các khoảng thời gian nhất định để tránh hoặc làm nhẹ hội chứng cai rượu.

– Uống rượu được ưu tiên hơn các hành vi khác: với người nghiện rượu, uống rượu là ưu tiên hàng đầu, hơn cả sức khỏe, gia đình, xã hội, nghề nghiệp.

– Có hiện tượng dung nạp rượu: với một nồng độ rượu trong máu bình thường, người nghiện rượu không bị ảnh hưởng. Lượng rượu uống của bệnh nhân ngày càng tăng dần. Đến giai đoạn cuối của nghiện rượu, sự dung nạp rượu tụt xuống, bệnh nhân mất năng lực chỉ sau khi uống một lượng rượu nhỏ.

– Lặp di, lặp lại hội chứng cai rượu: các triệu chứng của hội chứng cai rượu xuất hiện khi nồng độ rượu trong máu tụt xuống. Vì vậy hội chứng cai rượu thường xuất hiện vào buổi sáng sớm, sau một đêm không uống rượu.

– Uống rượu vào buổi sáng: người nghiện rượu phải uống rượu vào buổi sáng sớm, ngay sau khi thức giấc để chặn hội chứng cai rượu. Ở hầu hết các nền văn hóa, uống rượu buổi sáng được coi là nghiện rượu.

– Tái nghiện rượu: sau một thời gian cai rượu, người nghiện rượu dễ dàng tái nghiện chỉ sau vài ngày uống rượu.

Ngày nay, hầu hết các tác giả đều sử dụng tiêu chuẩn sau để xác định nghiện rượu:

– Uống rượu hàng ngày trong thời gian từ 10 năm trở lên.

– Mỗi ngày uống tối thiểu 300ml rượu 40 độ cồn.

1.2        Dịch tễ học của nghiện rượu

1.2.1        Tỷ lệ người nghiện rượu

Nghiện rượu là một bệnh phổ biến, chiếm 1-10% dân số. Các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy số người nghiện rượu ở thành thị là 4% và ở nông thôn là 3% dân số.

1.2.2        Giới

Tỷ lệ nữ/nam bị nghiện rượu giao động từ 1/8 đến 1/4. Trong thực tế lâm sàng, hầu hết các bệnh nhân nghiện rượu là nam. Ở Việt Nam, nữ chỉ chiếm chừng 10% số người nghiện rượu, số bệnh nhân nữ phải điều trị nghiện rượu trong bệnh viện là rất hiếm.

1.2.3        Nghề nghiệp

Nghề nghiệp là môi trường ảnh hưởng đến nghiện rượu. Có 3 loại nghề nghiệp liên quan đến nghiện rượu là nông dân với môi trường nông thôn, tầng lớp công nhân lao động chân tay, nặng nhọc và những người tiếp xúc với công chúng nhiều như bồi bàn, giới kinh doanh.

Ở Việt Nam, có đến 80% số người nghiện rượu làm những nghề lao động nặng nhọc như thợ xây, thợ mộc, thợ rèn, nhưng có đến 32,5% số người này thất nghiệp tại thời điểm nghiên cứu.

1.2.4        Trình độ học vấn

Người có học vấn thấp có tỷ lệ nghiện rượu cao hơn người có học vấn cao. Ở Việt Nam, theo Trần Viết Nghị (1996), có đến 80,6% số người nghiện rượu chưa tốt nghiệp phổ thông trung học.

Môi trường làm việc nặng nhọc, sự thiếu hiểu biết và sự phổ biến của quan niệm sai lầm trong dân chúng cho rượu là thuốc bổ, giúp nhanh chóng phục hồi sức khỏe… đã tạo diều kiện thuận lợi cho phát sinh, phát triển nghiện rượu.

1.2.5        Thời gian uống rượu

Đa số các tác giả đều cho rằng phải uống rượu trên 10 năm mới trở thành nghiện rượu, chỉ một số ít bệnh nhân uống trên 5 năm đã trở thành nghiện rượu. Những bệnh nhân này phải uống một lượng rượu rất lớn mỗi ngày (700-1000ml rượu 40 độ cồn). Nhìn chung, tỷ lệ người nghiện rượu có thời gian uống rượu dưới 5 năm chỉ chiếm 10% số trường hợp. Tỷ lệ cao nhất là nhóm uống rượu từ 10 đến 15 năm, chiếm 60%, còn nhóm bệnh nhân uống rượu 15-20 năm chiếm 30%.

1.3        Biểu hiện lâm sàng của nghiện rượu.

1.3.1        Giai đoạn 1

Giai đoạn này bệnh nhân chưa thực sự trở thành nghiện rượu do không có hội chứng cai khi ngừng uống rượu. Bệnh nhân thích uống rượu và uống ngày càng nhiều. Nếu không uống rượu, bệnh nhân thấy thèm và nhớ rượu. Khả năng dung nạp với rượu của bệnh nhân tăng lên nhanh chóng, họ có thể uống 500 ml rượu 40 độ cồn mỗi ngày.

Bệnh nhân mất phẩn xạ nôn khi uống rượu, thay đổi tính tình và dần trở thành độc ác, hay nổi cáu vô cớ, hay quấy nhiễu và đa nghi. Bệnh nhân hay quên, mất ngủ, chú ý và trí nhớ kém, hay mệt mỏi, khả năng lao động giảm sút. Giai đoạn này thường kéo dài 5-10 năm. Nếu bệnh nhân tiếp tục uống rượu thì sẽ chuyển sang giai đoạn 2 của nghiện rượu.

1.3.2        Giai đoạn 2

Trong giai đoạn này, bệnh nhân đã thực sự trở thành nghiện rượu. Bệnh nhân luôn trong tình trạng thèm rượu bắt buộc và không thể kiềm chế. Họ có thể uống rượu bất kỳ lúc nào. Cứ sau một khoảng thời gian nhất định, bệnh nhân lại phải uống rượu để giảm cơn thèm rượu. Quãng thời gian này ngày càng ngắn lại.

Nếu không được uống rượu, bệnh nhân sẽ có hội chứng cai rượu. Hội chứng cai rượu xuất hiện khi nồng độ cồn trong máu giảm xuống. Vì thế hội chứng cai rượu hay xuất hiện vào buổi sáng, sau một đêm không được uống rượu. Để ngăn hội chứng cai rượu, bệnh nhân phải uống rượu buổi sáng, ngay sau khi ngủ dậy.

Bệnh nhân thường có khí sắc giảm, buồn rầu, dễ bực tức, giận dữ, độc ác và đa nghi. Bệnh nhân cũng có triệu chứng sợ hãi vô cớ, tự buộc tội mình, có thể cáo ảo thính, ảo thị giác, giấc ngủ không sâu đầy mộng mị.

Hội chứng cai rượu biểu hiên bởi các triệu chứng run tay, nôn, buồn nôn, mất ngủ, rối loạn thần kinh thực vật, kích động, lo lắng vô cớ, hoang tưởng và ảo giác, cơn co giật kiểu động kinh.

Khả năng dung nạp rượu tăng cao đến cực điểm và duy trì hàng năm, bệnh nhân uống từ 1500 đến 2000ml rượu 40 độ cồn mỗi ngày và triền miên trong trạng thái say rượu. Giai đoạn này thường kéo dài 5-10 năm.

1.3.3        Giai đoạn 3

Triệu chứng thèm rượu của bệnh nhân có khuynh hướng giảm đi, bớt lè nhè và bớt quấy rối hơn trước. Khả năng dung nạp rượu của bệnh nhân kém đi, họ chỉ uống được 150-200ml rượu mạnh đã say và say lâu hơn trước.

Hội chứng cai rượu ở giai đoạn này kéo dài hơn, các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật như mạnh nhanh, huyết áp cao giao động, ra nhiều mồ hôi trầm trọng hơn giai đoạn trước.

Giai đoạn này, bệnh nhân có các bệnh não thực tổn do nghiện rượu mạn tính gây ra, đó là bệnh Korsakov, bệnh viêm não Wernicke và mất trí do rượu.

Bằng phương pháp chụp CT Scanner và MRI sọ não, người ta phát hiện hình ảnh teo não như giãn rộng não thất, tăng khoảng cách từ xương sọ đến bề mặt não, khe giữa các cuận não giãn rộng trên 2/3 số bệnh nhân. Hình ảnh này bền vững nửa năm sau khi cai rượu. Nếu bệnh nhân cai rượu lâu hơn thì hình ảnh giãn não thất mất dần. Nguyên nhân teo não còn được cho là rượu ảnh hưởng đến chức năng gan, gây giảm glucoza và các acid amin trong máu đến nuôi não. Như vậy, teo não do rượu vừa là hậu quả trực tiếp của rượu trên não và hậu quả gián tiếp rượu trên gan.

1.4           Hội chứng cai rượu

Hội chứng cai rượu xuất hiện ở người nghiện rượu nhưng đã ngừng uống đột ngột hoặc giảm đáng kể lượng rượu uống hàng ngày.

1.4.1                    Lý do ngừng uống rượu

– Bệnh nội khoa: chiếm 75% các lý do gây ngừng uống rượu ở bệnh nhân nghiện rượu. Các bệnh hay gặp là nhiễm trùng, cao huyết áp, loét dạ dày, tá tràng, viêm gan, xơ gan, viêm cầu thận mạn…

– Bệnh ngoại khoa: chiếm 20% số trường hợp cai rượu. Đó là các chấn thương, các bệnh đòi hỏi phải vào viện phẫu thuật như đau ruột thừa, viêm tụy cấp…

– Tự cai: Chỉ chiếm 5% số trường hợp cai rượu.

1.4.2                    Triệu chứng của hội chứng cai rượu

– Thèm rượu mãnh liệt. Đây là triệu chứng bắt buộc có ở tất cả các bệnh nhân cai rượu. Bệnh nhân thèm rượu đến mức mọi suy nghĩ và hành động chỉ tập chung vào việc sao cho có rượu uống để giảm bớt cơn thèm rượu.

– Run tay chân: Triệu chứng này xuất hiện rất sớm sau khi ngừng uống rượu chứng 2-3 giờ. Bệnh nhân run tay biên độ nhỏ, đi đứng loạng choạng. Họ không làm được các nghiệm pháp giữ thăng bằng. Run có thể xuất hiện ở miệng, ở mặt của bệnh nhân.

– Ăn ít, nôn, buồn nôn: Bệnh nhân luôn trong tình trạng chán ăn, thậm chí không ăn gì. Bệnh nhân có cảm giác buồn nôn, nôn khan hoặc nôn hết thức ăn vừa ăn được.

– Mất ngủ: Đây là triệu chứng rất hay gặp trong cai rượu. Mất ngủ xuất hiện vào tối đầu tiên sau khi cai rượu. Bệnh nhân rất khó vào giấc ngủ, ngủ không sâu và đầy ác mộng. Giấc ngủ của bệnh nhân rất ngắn, họ hay thức giấc giữa chừng và cảm thấy rất mệt mỏi sau khi thức dậy. Mất ngủ tăng dần và đạt đến đỉnh vào ngày thứ 3 đến thứ 5 sau cai rượu, khi đó bệnh nhân có thể mất ngủ hoàn toàn.

– Rối loạn thần kinh thực vật: Bệnh nhân có mạch nhanh trên 100 lần/phút. Mồ hôi của bệnh nhân ra như tắm mặc dù thời tiết không nóng. Kèm theo, bệnh nhân có huyết áp cao và huyết áp tối đa có thể đạt tới 180-200 mmHg. Tuy nhiên, huyết áp không cao thường xuyên mà giao động, lúc cao, lúc về bình thường. Thân nhiệt của bệnh nhân có thể tăng tới 38-39 độ C do run cơ và gây ra tình trạng mất nước, mất điện giải.

– Lo lắng quá mức: Bệnh nhân lo lắng nhiều vào ngày thứ 2 của cai rượu. Họ lo lắng mơ hồ điều gì không lành sẽ xảy ra với họ. Bệnh nhân có lú lẫn, tăng lên về buổi tối.

– Kích động tâm thần vận động: Bệnh nhân la hét, chửi bới, đạp phá đồ đạc, đánh vợ, con… để có tiền uống rượu

– Hoang tưởng và ảo giác: Triệu chứng này xuất hiện ở ngày thứ 3 đến thứ 5 của cai rượu. Khoảng 85% số bệnh nhân cai rượu sẽ có ảo thanh thật, là các tiếng người không có thật, nhưng bệnh nhân nghe thấy rất rõ ràng, vọng từ ngoài môi trường vào đầu bệnh nhân. Nội dung của ảo thanh thường là tiếng chửi rủa khiến bệnh nhân rất hoảng sợ.

Bệnh nhân cũng có thể có ảo thị, là các hình ảnh không có thật như nhìn thấy các động vật nhỏ (chim, chuột, côn trùng) hoặc các hình ảnh rất ghê rợn mà bệnh nhân cho là nhìn thấy ma quỷ.

Khoảng 65% số bệnh nhân cai rượu là có hoang tưởng. Hoang tưởng ở các bệnh nhân này thường là hoang tưởng ghen tuông, hoang tưởng bị hại.

– Cơn co giật kiểu động kinh: Đây là triệu chứng trầm trọng nhất của hội chứng cai rượu. Bệnh nhân có các cơn co giật xuất hiện theo thứ tự co cứng, co giật, doãi mềm và hôn mê ngắn. Cơn co giật hay xuất hiện ở ngày thứ 3 đến thứ 5 của cai rượu, nó xuất hiện khi hội chứng cai đạt đến đỉnh điểm và báo hiệu bệnh nhân sắp vào sảng rượu.

1.4.3                    Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai rượu theo DSM-5

A. Ngừng hoặc giảm đáng kể lượng rượu uống khi đang sử dụng rượu liều cao và kéo dài.

B. Có ít nhất 2 tiêu chuẩn dưới đây xảy ra sau tiêu chuẩn A vài giờ đến vài ngày.

– Tăng hoạt động tự động.

– Run tay.

– Mất ngủ.

– Nôn, buồn nôn.

– Lo âu quá mức.

– Kích động tâm thần vận động.

– Ảo thị giác, ảo thanh, hoặc hoang tưởng.

– Cơn co giật kiểu động kinh.

C. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn B gây suy giảm rõ rệt các chức năng xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọng khác.

D. Các triệu chứng này không do một bệnh thực tổn và một bệnh rối loạn tâm thần khác gây ra.

1.5           Điều trị nghiện rượu

1.5.1                     Phương pháp dùng thuốc bình thần

Bệnh nhân nghiện rượu sẽ được đưa vào bệnh khoa tâm thần, điều trị nội trú. Tại đây, bệnh nhân bị bắt buộc ngừng uống rượu đột ngột và được dùng thuốc điều trị ngay, giống như điều trị hội chứng cai rượu ở trên.

1.5.2                    Phương pháp dùng naltrexone

Rượu vào cơ thể được chuyển hóa qua nhiều giai đoạn với nhiều chất chung gian chuyển hóa khác nhau. Một trong những sản phẩm chuyển hóa dở dang của rượu là acetaldehyd. Chất này liên kết với monoamin ở não để tạo thành tetraisoquinolin. Đây chính là chất có tác dụng giống morphin, vì thế khi chúng gắn lên các thụ cảm thể morphin trong não sẽ tạo ra sảng khoái cho bệnh nhân. Chính các cảm giác sảng khoái do chất này tạo ra khiến bệnh nhân thích uống rượu, uống ngày càng thường xuyên và số lượng ngày càng tăng. Khi chúng ta dùng naltrexon điều trị cho bệnh nhân nghiện rượu, các thụ cảm thể morphin trên não sẽ bị naltrexon ức chế. Chất tetraisoquinolin không tác dụng được lên các thụ cảm thể morphin nữa, do vậy bệnh nhân sẽ không còn cảm giác sảng khoái khi uống rượu. Do cảm giác sảng khoái khi uống rượu không còn nữa nên sự thèm muốn uống rượu của bệnh nhân sẽ giảm dần và có thể mất hoàn toàn.

Diễn biến điều trị nghiện rượu của naltrexon (natrex, nodict, reVia) như sau:

– Sau 1 tháng điều trị, bệnh nhân giảm được 50% lượng rượu uống mỗi ngày (ví dụ trước đây uống mỗi ngày 1 lít rượu 40 độ cồn thì sau 1 tháng chỉ còn uống được 500 ml rượu cùng loại mỗi ngày).

– Sau 2 tháng điều trị, bệnh nhân giảm được 70% số lượng rượu uống mỗi ngày (chỉ còn uống được 300 ml rượu 40 độ cồn mỗi ngày).

– Sau 3 tháng điều trị, bệnh nhân căn bản kiểm soát được hành vi uống rượu của mình, có thể bỏ rượu hoàn toàn.

Tuy nhiên, bệnh nhân cần được uống thuốc điều trị củng cố tiếp tục trong ít nhất 2 năm tiếp theo.

Liều dùng: Naltrexon 50 mg x 1 viên/ngày, uống buổi sáng.

Ưu điểm của phương pháp cai rượu bằng naltrexon

– Bệnh nhân không phải ngừng rượu đột ngột (uống thuốc khi bệnh nhân vẫn đang uống rượu), do đó sẽ không có hội chứng cai rượu.

– Do không có hội chứng cai rượu nên có thể điều trị ngoại trú.

– Lượng rượu uống hàng ngày giảm từ từ, bệnh nhân sẽ dễ chấp nhận hơn.

– Có thể uống rượu (khi bắt buộc), mà không sợ bị các phản ứng khó chịu như đối với esperal.

Nhược điểm của phương pháp này là:

– Thời gian cai rượu kéo dài, không có lợi cho bệnh nhân đã có biểu hiện suy gan, thận, cao huyết áp, các bệnh não do rượu…

– Khó cai rượu tuyệt đối do bệnh nhân vẫn có thể uống được một lượng rượu nhỏ, hiệu quả không cao như dùng esperal.

– Giá thành đắt hơn nhiều so với esperal.

Áp dụng cụ thể cho từng trường hợp

– Bệnh nhân nghiện rượu đã có tổn thương chức năng gan, thận, cao huyết áp, xuất huyết tiêu hóa… cần phải điều trị nội trú, cắt cơn cai rượu bằng seduxen và vitamin B1. Sau đó điều trị củng cố bằng esperal.

– Bệnh nhân lạm dụng rượu, nghiện rượu nhưng thể trạng chung còn tốt, chưa tổn thương gan thận và các bệnh thực tổn như đã nêu trên, có thể điều trị ngoại trú bằng naltrexon.

2          LOẠN THẦN DO  RƯỢU

Loạn thần do rượu bao gồm tất cả các rối loạn tâm thần có hoang tưởng hoặc/và ảo giác do rượu gây ra. Các rối loạn này bao gồm ảo giác do rượu, hoang tưởng do rượu, hội chứng cai rượu có hoang tưởng, ảo giác, sảng rượu và bệnh não thực tổn do rượu.

2.1           Ảo giác do rượu

Đặc trưng của ảo giác do rượu là ảo thanh, thường là tiếng người nói xấu, chửi, đe dọa bệnh nhân, xảy ra khi ý thức của bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo. Tiếng nói nghe thấy từ môi trường bên ngoài vọng vào đầu, khiến bệnh nhân rất lo lắng, khó chịu. Khoảng 3/4 số bệnh nhân có ảo thanh kéo dài dưới 6 tháng, 1/4 còn lại ảo thanh kéo dài trên 1 năm nếu không ngừng rượu. Chính vì thế, ảo thanh do rượu dễ bị nhầm với tâm thần phân liệt.

Ảo thanh có thể xuất hiện đơn độc, nhưng cũng có thể phối hợp với ảo thị. Ảo thanh trong hội chứng cai rượu thì lộn xộn và chóng hết, nhưng ảo thanh do uống rượu thì rất bền vững. Khi cai rượu, ảo giác do rượu nặng thêm và xuất hiện thêm các triệu chứng của hội chứng cai rượu. Sau khi hết hội chứng cai (sau khoảng 2 tuần), ý thức bệnh nhân sáng sủa trở lại, nhưng ảo thanh vẫn tồn tại và bền vững trong nhiều tháng.

Ảo thanh chi phối mọi hành vi của bệnh nhân và bệnh nhân mất hết khả năng phê phán với ảo thanh, vì vậy dễ nhầm với tâm thần phân liệt. Các bệnh nhân này cần phải cai rượu, sau khi hết hội chứng cai rượu thì phải điều trị tiếp tục bằng thuốc an thần (haloperidol, olanzapin) thì bệnh nhân mới hết được ảo thanh. Tuy nhiên, ảo thanh sẽ nhanh chóng xuất hiện trở lại nếu bệnh nhân tái nghiện rượu.

Thuốc cụ thể:

1. Haloperidol 1,5mg x 8 viên/ngày (sáng 4 viên, tối 4 viên).

2. Trihex 2mg x 4 viên/ngày (sáng 2 viên, tối 2 viên).

Hoặc

1. Olanzapin 10mg x 1 viên/tối.

Dùng thuốc 3 tháng, bệnh nhân cần phải cai rượu bằng esperal.

2.2        Hoang tưởng do rượu

Đặc trưng của hoang tưởng do rượu là hoang tưởng ghen tuông, hoang tưởng bị hại xuất hiện khi ý thức của bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo. Cũng như ảo thanh do rượu, 3/4 số bệnh nhân có hoang tưởng kéo dài dưới 6 tháng và 1/4 số bệnh nhân hoang tưởng kéo dài hàng năm sau khi cai rượu. Do vậy, hoang tưởng do rượu dễ nhầm với tâm thần phân liệt.

Hoang tưởng ghen tuông xuất hiện ở bệnh nhân sau nhiều năm uống rượu với số lượng lớn. Bệnh nhân cho rằng vợ (hoặc bạn tình) của mình không chung thủy dù không có bằng chứng gì. Họ theo dõi, đánh đập và hành hạ vợ (bạn tình) do bị hoang tưởng chi phối hành vi. Hoang tưởng ghen tuông gắn liền với cuộc sống tình dục nghèo nàn của bệnh nhân. Họ thường bị liệt dương nên khó có khả năng sinh hoạt tình dục. Hơn nữa, vợ của những người nghiện rượu rất ghê tởm, không muốn quan hệ tình dục với họ do vệ sinh cơ thể của bệnh nhân bẩn, luôn trong tình trạng say rượu.

Hoang tưởng bị hại do rượu là bệnh nhân cho rằng có ai hoặc một thế lực nào đó tìm cách hại bệnh nhân, cũng có khi họ cho rằng ma quỷ hại mình. Hoang tưởng bị hại thường đi kèm với ảo giác do rượu tạo thành hội chứng paranoid.

Nói chung, hoang tưởng do rượu rất giống với hoang tưởng do cai rượu, nhưng chúng bền vững và xuất hiện trong tình trạng ý thức sáng sủa, còn hoang tưởng do cai rượu thì lộn xộn và nhanh chóng hết đi cùng với hội chứng cai rượu. Khi cai rượu, hoang tưởng do rượu nặng thêm cùng hội chứng cai. Trong thời gian hội chứng cai, bệnh nhân có thêm ảo thị giác. Khi hội chứng cai hết, ý thức bệnh nhân sáng sủa dần nhưng hoang tưởng vẫn không hết.

Cũng như ảo giác do rượu, để điều trị hoang tưởng do rượu thì cần cai rượu cho bệnh nhân và dùng thuốc an thần (haloperidol, olanzapin). Các triệu chứng này sẽ xuất hiện nhanh chóng khi bệnh nhân tái nghiện rượu.

Thuốc cụ thể:

1. Haloperidol 1,5mg x 8 viên/ngày (sáng 4 viên, tối 4 viên).

2. Trihex 2mg x 4 viên/ngày (sáng 2 viên, tối 2 viên).

Hoặc

1. Olanzapin 10mg x 1 viên/tối.

Dùng thuốc 3 tháng, bệnh nhân cần phải cai rượu bằng esperal.

2.3        Sảng rượu

Sảng rượu là một cấp cứu tâm thần tối khẩn cấp, phát triển trên nền một hội chứng cai rượu nặng. Nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách, tỷ lệ tử vong của sảng rượu là 22-33%.

2.3.1        Triệu chứng của sảng rượu

Sảng rượu có khởi phát đột ngột, cấp tính trong khoảng thời gian từ một đến vài ngày sau khi ngừng uống rượu. Biểu hiện ban đầu của sảng rượu là bệnh nhân mất ngủ, chếnh choáng, run lẩy bẩy, rối loạn thần kinh thực vật (đỏ da, mạch nhanh, ra nhiều mồ hôi, đánh trống ngực, lo lắng, sợ hãi). Quãng thời gian từ lúc ngừng rượu cho đến khi có sảng rượu là khác nhau, cũng có thể từ 1-2 ngày, nhưng có trường hợp phải sau 3-4 ngày. Sảng rượu bao gồm 3 triệu chứng chính sau:

– Mất ngủ hoàn toàn.

– Rối loạn ý thức.

– Hoang tưởng và ảo giác rất rầm rộ.

Các triệu chứng của sảng rượu thường tăng lên về chiều tối và giảm đi vào buổi sáng.

2.3.2                    Tiêu chuẩn chẩn đoán sảng rượu theo DSM -5

A. Rối loạn ý thức cùng với giảm sự tập trung chú ý. Sự chú ý luôn giao động.

B. Rối loạn nhận thức: giảm trí nhớ, rối loạn định hướng, rối loạn ngôn ngữ hoặc rối loạn khả năng quan sát.

C. Các rối loạn này xuất hiện cấp tính (trong vài giờ đến vài ngày) và tiến triển có khuynh hướng giao động trong ngày.

D. Có bằng chứng về một hội chứng cai rượu.

2.3.3                    Điều trị sảng rượu

Sảng rượu cần được điều trị tại phòng cấp cứu của khoa tâm thần, có bình ô xy, máy hút và các thiết bị cấp cứu khác. Cần tiến hành ngay các bước sau:

– Cố định bệnh nhân tại giường.

– Cho ngửi bông cồn hoặc cho uống rượu vang (50 ml rượu 10 độ cồn mỗi lần, ngày 3 lần) để làm giảm nhẹ các triệu chứng của sảng rượu.

– Chế độ hộ lý cấp 1.

– Hút đờm rãi (nếu cần), thở ô xy.

– Làm các xét nghiệm huyết học, chức năng gan, thận, đặc biệt là đường máu.

– Dùng thuốc:

1. Seduxen 10 mg x 2 ống/ngày, tiêm bắp sáng 1ống, tối 1ống.

2. Vitamin B1 0,1 x 2 ống/ngày, tiêm bắp sáng 1 ống, tối 1 ống.

3. Ringer lactat 500 ml x 2 chai, truyền tĩnh mạch 40 giọt/phút.

4. Piracetam 1 g x 4 ống/ngày, tiêm tĩnh mạch chậm.

Dùng thuốc 5 ngày. Sau thời gian 5 ngày điều trị, bệnh nhân sẽ hết sảng và hết hội chứng cai rượu. Sau đó chuyển sang đơn thuốc sau:

1. Olanzapin 10 mg x 1 viên/ngày, uống tối.

2. Amitriptylin 25 mg x 4 viên/ngày,  sáng 2 viên, tối 2 viên.

Uống đơn trên 2 tuần, sau đó chuyển sang điều trị chống tái nghiện rượu như sau:

1. Esperal (disulfiram) 500 mg x 1/2 viên/ngày, uống buổi sáng. Nên bắt đầu uống thuốc này 2-3 ngày trước khi ra viện. Thời gian uống thuốc tối thiểu 2 năm để tránh tái nghiện.

3          NGHIỆN MA TÚY

Hiện nay, có hai nhóm ma túy chủ yếu là:

– Nhóm opioid, gồm: thuốc phiện, morphin, dolagan, methadon, heroin…

– Nhóm kích thần, gồm: amphetamin và các dẫn xuất của nó, cần sa, cocain…

Các rối loạn tâm thần do ma túy cũng được chia thành 2 loại:

– Các rối loạn do dùng ma túy opioid:

+ Nghiện ma túy.

+ Lạm dụng ma túy.

– Các rối loạn do ma túy opioid gây ra:
+ Say ma túy.
+ Hội chứng cai ma túy.

+ Sảng do ngộ độc ma túy.
+ Hoang tưởng do ma túy gây ra.
+ Ảo giác do ma túy gây ra, có ảo giác.
+ Rối loạn khí sắc do ma túy.
+ Mất chức năng tình dục do ma túy.
+ Rối loạn giấc ngủ do ma túy.
+ Rối loạn do ma túy không biệt định khác.

3.1        Nghiện ma túy nhóm opioid (nhóm thuốc phiện)

3.1.1        Khái niệm chung

Có khoảng 20 ma túy nhóm opioid, trong đó phổ biến nhất là heroin được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới. Tất cả các ma túy nhóm opioid khi vào cơ thể đều kích thích lên các thụ cảm thể morphin trên não gây ra các tác dụng rất đặc trưng, vì vậy các ma túy này đều có tác dụng giống nhau.

Nghiện opioid bao gồm một nhóm triệu chứng về cơ thể, hành vi và nhận thức do sử dụng lặp đi lặp lại ma túy opioid gây ra.

Lạm dụng opioid bao gồm các rối loạn do ma túy gây ra trong vòng 12 tháng nhưng chưa đủ nặng để trở thành nghiện ma túy.

Các rối loạn do ma túy opioid gây ra là: say, hội chứng cai, rối loạn giấc ngủ, mất chức năng tình dục. Sảng do ngộ độc ma túy rất hay gặp trong các khoa cấp cứu của các bệnh viện. Loạn thần do ma túy, rối loạn cảm xúc do ma túy cũng khá phổ biến khi ngừng sử dụng ma túy.

Các bệnh lây truyền do tiêm ma túy hay được nhắc đến là viêm gan B, C và đặc biệt là HIV/AIDS.

Một số ma túy tổng hợp như methadon, meperidin được dùng trong lâm sàng điều trị nghiện heroin (thay thế cho heroin). Các chất kháng ma túy bao gồm naloxon (narcan), naltrexon (revia), nalorphin, levallorphan và apomorphin.

Không thể xác định chính xác số người nghiện ma túy opioid vì người nghiện thường tìm cách che dấu tình trạng nghiện của mình. Người ta cho rằng số người nghiện thực tế có thể cao gấp 3-4 lần số người nghiện được quản lý.

Độ tuổi của người nghiện ngày càng “trẻ hóa”, khoảng 2/3 số người nghiện ma túy opioid là dưới 30 tuổi. Tuổi bình quân của người nghiện opioid là 24-25 tuổi. Ở các nước Âu-Mỹ, tỷ lệ nghiện ma túy opioid ở nam/nữ là 3/1 (nữ chiếm khoảng 25% số người nghiện), nhưng ở Việt Nam, nữ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ số người nghiện (5% số người nghiện opioid). Đa số người nghiện ma túy opioid bị thất nghiệp.

Ma túy nhóm opioid chiếm tỷ lệ rất cao trong số các ma túy đang có mặt ở Việt Nam, trong đó heroin chiếm tỷ lệ cao nhất (khoảng 65%). Các ma tuý tổng hợp (amphetamin, methamphetamin) chỉ chiếm 25%, các chất ma tuý khác (cần sa, cocain…) là 10%. Hình thức sử dụng chủ yếu là tiêm tĩnh mạch (85%), hút, hít và uống chiếm tỷ lệ nhỏ (15%).

3.1.2        Triệu chứng

3.1.2.1       Khi sử dụng ma túy opioid

Ma túy nhóm opioid thường được sử dụng qua đường uống, đường hít, tiêm tĩnh mạch và tiêm dưới da. Opioid là ma túy dễ gây nghiện vì chúng gây khoái cảm mạnh. Triệu chứng này phối hợp với cảm giác tự tin, mất hết mọi buồn phiền, khô miệng, ngứa (đặc biệt là ở mũi) và đỏ mặt. Khoái cảm của opioid bắt đầu sau một giai đoạn an dịu. Ma túy opioid có thể gây ra cảm giác khó chịu, buồn nôn và nôn cho một số người, nhất là trong những lần đầu sử dụng.

Tác dụng trên cơ thể của opioid còn bao gồm: ức chế hô hấp, co đồng tử, co cơ trơn (cả cơ bàng quang và cơ túi mật), táo bón, thay đổi huyết áp, thay đổi nhịp tim và thân nhiệt.

Say ma túy

Say ma túy opioid các biến đổi hành vi và một số triệu chứng cơ thể đặc biệt do dùng ma túy opioid gây ra. Nhìn chung, các biểu hiện như cảm xúc không ổn định, vận động chậm chạm, mệt mỏi, nói líu ríu, rối loạn chú ý và trí nhớ xuất hiện sau khi dùng ma túy thì phải nghĩ đến say ma túy.

Quá liều ma túy opioid

Chết do quá liều ma túy là do opioid gây ức chế nghiêm trọng hệ hô hấp. Các triệu chứng của quá liều bao gồm đáp ứng chậm với các kích thích, hôn mê, thở chậm, giảm thân nhiệt, giảm huyết áp, chậm nhịp tim. Khi có tam chứng hôn mê, co đồng tử và ức chế hô hấp, bác sỹ cần phải chẩn đoán ngay là quá liều ma túy opioid; sau đó cần kiểm tra xem có các vết tiêm ở tay, chân, mắt cá, bẹn và thậm chí là cả ở dương vật.

Sảng do ngộ độc opioid

Sảng do ngộ độc opioid rất phổ biến khi dùng liều cao, hỗn hợp nhiều loại ma túy khác nhau, hoặc ở người sẵn có tổn thương não (ví dụ: động kinh…).

3.1.2.2       Cai ma túy opioid

Điều kiện xuất hiện hội chứng cai

Quy luật chung là opioid có thời gian tác dụng càng ngắn thì hội chứng cai xuất hiện càng sớm và với cường độ mạnh, còn các ma túy có thời gian tác dụng dài thì hội chứng cai xuất hiện muộn với cường độ nhẹ; ngược lại, khi sử dụng chất đối kháng ma túy (naltrexon) thì các ma túy có thời gian tác dụng càng dài thì hội chứng cai sẽ càng nặng.

Hội chứng cai ma túy opioid chỉ xuất hiện trên người nghiện opioid, nay vì một lý do nào đó phải ngừng sử dụng hoặc giảm đáng kể lượng ma túy sử dụng.      Hội chứng cai opioid sẽ được thúc đẩy nếu dùng chất đối kháng ma túy. Khi tiêm tĩnh mạch chất đối kháng ma túy, hội chứng cai có thể xuất hiện ngay sau tiêm vài giây và đạt đỉnh cao chỉ sau 1 giờ.

Triệu chứng của hội chứng cai

Hội chứng cai opioid có thèm ma túy, đau cơ bền vững do co rút cơ, đau xương, ỉa chảy nặng, đau quặn bụng, khó thở, chảy nước mắt, nước mũi, sởn gai ốc hoặc rét run, ngáp, sốt, mất ngủ, giãn đồng tử, tăng huyết áp, đánh trống ngực. Người nghiện ma túy opioid hiếm khi chết trong trạng thái cai ma túy, trừ các trường hợp bị bệnh cơ thể nặng như suy tim. Các triệu chứng mất ngủ, đánh trống ngực và thèm ma túy còn kéo dài trong nhiều tháng sau khi cai. Các đặc điểm khác của hội chứng cai opioid bao gồm mất thư giãn, dễ nổi cáu, trầm cảm, run tay, mệt mỏi, buồn nôn và nôn. Tại bất kỳ thời điểm nào trong hội chứng cai, nếu được tiêm một liều heroin hoặc morphin thì tất cả các triệu chứng trên đây đều biến mất.

– Morphin và heroin: hội chứng cai morphin và heroin bắt đầu xuất hiện trong vòng 6 đến 8 giờ sau khi dùng liều cuối cùng và kéo dài 1 đến 2 tuần. Hội chứng cai đạt đến đỉnh trong ngày thứ 2 hoặc thứ 3 và giảm dần trong 7 đến 10 ngày tiếp theo. Tuy nhiên, một số triệu chứng có thể kéo dài đến 6 tháng.

– Meperidin: hội chứng cai của meperidin bắt đầu rất nhanh, đạt đến đỉnh sau 8 đến 12 giờ và hết sau 4-5 ngày.

– Methadon: hội chứng cai methadon thường bắt đầu 1 đến 3 ngày sau liều dùng cuối cùng và hết sau 10 đến 14 ngày.

3.1.2.3       Các rối loạn tâm thần khác do opioid

Loạn thần

Loạn thần do opioid có thể bắt đầu trong trạng thái say ma túy. Bệnh nhân có hoang tưởng hoặc ảo giác rầm rộ nên có thể nhầm với tâm thần phân liệt hoặc loạn thần cấp.

Rối loạn cảm xúc

Rối loạn cảm xúc do opioid xảy ra trong giai đoạn say ma túy. Bệnh nhân có thể có các cơn hưng cảm, trầm cảm hoặc hỗn hợp… tùy thuộc vào sự đáp ứng của từng người nghiện đối với ma túy. Nhìn chung người nghiện thường có sự pha trộn các triệu chứng, kết hợp giữa dễ nổi cáu, kích động và trầm cảm.

Rối loạn giấc ngủ

Rối loạn giấc ngủ ở người nghiện opioid là ngủ nhiều, ít gặp mất ngủ.

Mất chức năng tình dục

Mất chức năng tình dục hay gặp là liệt dương.

3.1.2.4       Chẩn đoán

Tiêu chuẩn chẩn đoán cho say ma túy opioid theo DSM-5

A. Gần đây có sử dụng ma túy opioid.

B. Có dấu hiệu lâm sàng rõ rệt hoặc thay đổi tâm lý (nghĩa là lúc đầu có khoái cảm, chuyển dần sang vô cảm, loạn cảm, kích động tâm lý vận động hoặc chậm chạp, rối loạn khả năng quyết định, rối loạn chức năng xã hội và nghề nghiệp), xuất hiện ngay trong lúc dùng hoặc một thời gian ngắn sau khi sử dụng ma túy.

C. Co đồng tử (hoặc đồng tử giãn do thiếu oxy vì dùng ma túy quá liều) và một trong những dấu hiệu sau xuất hiện trong lúc dùng hoặc ngay sau lúc dùng ma túy:

1. Ngủ gà hoặc hôn mê.

2. Nói líu nhíu.

3. Rối loạn khả năng chú ý và trí nhớ.

D. Các triệu chứng trên không phải do một bệnh thực tổn hoặc một bệnh tâm thần khác gây ra.

Được biệt định: có rối loạn tri giác.

Tiêu chuẩn chẩn đoán cho cai ma túy opioid theo DSM-5

A. Các triệu chứng xuất hiện sau một trong hai điều kiện:

1. Ngừng (hoặc giảm) sử dụng opioid sau một thời gian dài dùng liều cao (vài tuần hoặc lâu hơn).

2. Sử dụng chất kháng ma túy sau một thời gian dùng ma túy.

B. Có 3 (hoặc hơn) các dấu hiệu sau xuất hiện trong vòng vài phút đến vài ngày sau tiêu chuẩn A:

1. Bồn chồn.

2. Nôn hoặc buồn nôn.

3. Đau cơ.

4. Chảy nước mũi, nước mắt.

5. Giãn đồng tử, nổi da gà, hoặc ra mồ hôi.

6. Ỉa chảy.

7. Ngáp.

8. Sốt.

9. Mất ngủ.

C. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn B gây ra các dấu hiệu lâm sàng khó chịu rõ rệt, hoặc gây ra rối loạn chức năng xã hội, nghề nghiệp và các chức năng quan trọng khác.

D. Các triệu chứng trên không phải là do một bệnh cơ thể hoặc một bệnh tâm thần khác gây ra.

3.1.3        Điều trị

3.1.3.1       Điều trị quá liều ma túy

Ngộ độc do quá liều ma túy opioid là một cấp cứu khẩn cấp, có thể tử vong do ức chế hô hấp. Bệnh nhân cần được điều trị tại phòng cấp cứu hoặc tại khoa hồi sức cấp cứu của bệnh viện.

Bên cạnh việc khám lâm sàng (đồng tử co, mạch chậm, tìm các vết tiêm trên cơ thể bệnh nhân), cần lấy máu hoặc nước tiểu của bệnh nhân để làm test nhanh (bằng que thử) để tìm opioid nhằm xác định chẩn đoán. Việc làm trước tiên khi phát hiện ra bệnh nhân quá liều ma túy là đảm bảo lưu thông đường thở. Nên đặt ống nội khí quản, có thể phải mở khí quản nếu cần thiết và cho thở máy.

Dùng naloxon-một chất kháng ma túy opioid, tiêm tĩnh mạch chậm với liều 0,6mg cho người nặng chừng 60kg. Dấu hiệu cải thiện như tăng nhịp thở, giãn đồng tử diễn ra nhanh chóng. Ở người nghiện ma túy, nếu dùng nhiều naloxon sẽ gây ra hội chứng cai ma túy ở người điều trị quá liều ma túy. Nếu sau liều dùng đầu tiên mà không có sự đáp ứng, cần dùng lại liều naloxon như trên sau vài phút. Nếu bệnh nhân không có đáp ứng điều trị sau khi dùng tới 4-5mg naloxon thì cần phải nghĩ rằng bệnh nhân không phải bị ngộ độc ma túy mà cần tìm nguyên nhân khác.

Nếu không có naloxon thì phải điều trị triệu chứng bằng cách duy trì các chức năng sống của bệnh nhân. Phải thường xuyên theo dõi mạch, nhiệt độ huyết áp của bệnh nhân; chống toan hóa máu bằng dung dịch natri bicarbonate. Chú ý đặc biệt đến lượng nước tiểu của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân có ít nước tiểu, cần phải cho lasix. Nếu có biểu hiện ứ đọng đường thở thì cần phải hút đờm dãi cho bệnh nhân. Tình trạng bệnh nhân được cải thiện nhanh hay chậm tùy thuộc vào liều ma túy sử dụng, thời gian bán hủy của loại ma túy opioid sử dụng.

3.1.3.2       Các phương pháp hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy opioid

Sử dụng thuốc hướng tâm thần

Đây là phương pháp cai nghiện đáng tin cậy, được áp dụng rộng rãi ở trên thế giới và Việt Nam. Năm 1988, tác giả Gelder M. đã đưa ra phương pháp dùng thuốc an thần kết hợp với thuốc bình thần để điều trị cắt cơn cai nghiện ma túy. Từ năm 1995, Bộ Y tế cho phép áp dụng rộng rãi phương pháp cắt cơn nghiện ma túy opioid bằng thuốc hướng thần. Các nhà tâm thần luôn tìm cách cải tiến phác đồ điều trị cắt cơn cai ma túy bằng thuốc an thần, vì thế có nhiều phác đồ điều trị khác nhau được áp dụng tại các cơ sở cai nghiện. Các phác đồ này đều sử dụng các nhóm thuốc sau:

– Thuốc an thần: haloperidol, levomepromazin, olanzapin, quetiapin…

– Thuốc bình thần: seduxen, lexomil, rivotril…

– Thuốc chống trầm cảm: amitriptylin, mirtazapin, sertralin…

– Thuốc chống tác dụng ngoại tháp do thuốc an thần gây ra (nếu cần): trihex, promethazin…

Sử dụng clonidin

Loại thuốc: Ở Mỹ, clonidin được FDA cho phép sử dụng để điều trị cao huyết áp, tuy nhiên, thuốc có tác dụng làm giảm nhẹ các triệu chứng của hội chứng cai ma túy opioid, rượu, nicotin. Vì thế clonidin còn được sử dụng để điều trị cai ma túy opioid, cai rượu và cai thuốc lá. Ngoài ra, clonidin còn dùng để điều trị bệnh tăng động/khó chú ý ở trẻ em.

– Dạng thuốc và hàm lượng:thuốc tiêm, không có chất bảo quản, chứa clonidin hydroclorid: 100 microgam/ml (ống 10 ml).

Viên nén, chứa clonidin hydroclorid: 0,1mg; 0,2mg; 0,3mg.

– Tác dụng dược lý:clonidin là thuốc chủ vận chọn lọc alpha2-adrenergic. Khác với hoạt hóa thụ thể alpha1-adrenergic gây tăng huyết áp rõ rệt, hoạt hóa chọn lọc thụ thể alpha2-adrenergic do clonidin gây tác dụng hạ huyết áp. Từ năm 1977, clonidin đã được sử dụng để điều trị hội chứng cai ma túy ở nhiều nước trên thế giới. Các kết quả nghiên cứu mù đôi đã cho thấy clonidin có tác dụng làm giảm nhẹ các triệu chứng của hội chứng cai ma túy như tăng tiết nước mắt, nước mũi, nước bọt; giảm các triệu chứng đau bụng, ỉa chảy, giảm tiết mồ hôi và giảm nhịp tim. Ngoài ra, clonidin còn làm giảm triệu chứng mất ngủ và đau đầu của bệnh nhân cai nghiện ma túy. Từ các kết quả nghiên cứu được tiến hành trên khắp thế giới, người ta nhận thấy cai nghiện ma túy bằng clonidin có hiệu quả hơn hẳn các phương pháp cai nghiện không sử dụng opioid khác trong giảm nhẹ các triệu chứng của hội chứng cai.

– Tác dụng không mong muốn:những tác dụng không mong muốn chủ yếu của clonidin là khô miệng và an dịu (khoảng 40%), nhịp tim chậm rõ rệt ở một số trường hợp. Những tác dụng không mong muốn này phụ thuộc vào liều dùng.

– Liều và cách dùng:để cai ma túy opioid, liều clonidin là 0,5 đến 1,2mg/ngày. Cách dùng cụ thể như sau:

Ngày thứ nhất cho clonidin 0,1mg x 4 viên, chia làm 4 lần, mỗi lần một viên, cách nhau 6 giờ.

Từ ngày thứ 2 trở đi tăng dần liều (mỗi ngày tăng 0,1 đến 0,2mg). Việc tăng liều phải căn cứ vào huyết áp của bệnh nhân. Cần đề phòng tình trạng tụt huyết áp tư thế đứng. Liều tối đa là 1,2mg/ngày.

Điều trị các triệu chứng kết hợp nếu có. Ví dụ dùng thuốc giảm đau non-steroid (pyroxicam, tenoxicam, diclophenac, meloxicam) để điều trị triệu chứng đau cơ, dùng benzodiazepin (seduxen, rivotril, lexomil) để điều trị triệu chứng mất ngủ và buồn nôn.

Thời gian điều trị cắt cơn cai ma túy bằng clonidin là 10 ngày. Hiệu quả điều trị cai nghiện bằng clonidin đơn thuần là 65%. Sau đó, cần cho bệnh nhân sử dụng ngay naltrexon để chống tái nghiện ma túy (chuyển sang điều trị củng cố).

Nếu kết hợp clonidin với naltrexon sẽ làm giảm nhẹ các triệu chứng của hội chứng cai hơn so với dùng clonidin đơn độc, do vậy hiệu quả điều trị cũng cao hơn. Cách dùng clonidin như trên, nhưng cho thêm 50mg naltrexon mỗi ngày. Hiệu quả điều trị lên tới 81%.

3.1.3.3       Các phương pháp điều trị hỗ trợ cắt cơn khác

Các phương pháp cai nghiện ma túy bằng điện châm, dùng thuốc đông y được áp tại các bệnh viện, các trung tâm cai nghiện. Nhưng đến nay, chưa phương pháp nào được tiến hành nghiên cứu, đánh giá hiệu quả bằng phương pháp mù đôi. Vì thế các kết quả hiệu quả điều trị của các phương pháp này có độ tin cậy không cao.

3.1.3.4       Phương pháp thay thế

Phương pháp thay thế là sử dụng có kiểm soát một loại ma túy opioid có tác dụng kéo dài, dùng bằng đường uống, ít độc hại hơn để thay thế cho heroin. Như vậy, bệnh nhân tránh được các tệ nạn do heroin mang lại và sẽ loại bỏ được nguy cơ lây nhiễm bệnh viêm gan, HIV/AIDS do tiêm heroin gây ra. Do sử dụng ma túy opioid để thay thế heroin nên bệnh nhân hầu như không có hội chứng cai heroin, vẫn có khoái cảm do ma túy gây ra, vì thế người nghiện dễ chấp nhận sử dụng phương pháp này để cai heroin hơn. Tuy nhiên, phương pháp này có một nhược điểm rất lớn là người nghiện vẫn sử dụng ma túy opioid.

Trong thực tế lâm sàng, người ta hay sử dụng viên methadon và viên morphin tác dụng kéo dài để thay thế heroin. Tất cả các chất này đều cho hiệu quả điều trị cai heroin cao tương đương nhau. Nhưng ở Việt Nam phương pháp thay thế là sử dụng methadon.

Methadon

Methadon có cấu trúc hóa học là 6-(dimethylamino)-4, 4-diphenyl-3-heptanon hydrochlorid, là bột màu trắng, không mùi và có vị đắng. Mathadon dễ tan trong nước và trong các dung môi hữu cơ, có khối lượng nguyên tử là 346 đơn vị carbon. Methadon hấp thu dễ qua đường tiêu hóa, tác dụng xuất hiện chậm, hiệu lực tối đa cũng đạt đến chậm nhưng tác dụng kéo dài. Methadon được đóng viên 5mg và 10mg.

Về tác dụng dược lý, methadon có tác dụng giống với morphin (10mg morphin có tác dụng tương đương 10mg methadon). Methadon được sử dụng làm thuốc giảm đau, cắt cơn cai nghiện heroin và điều trị củng cố chống tái nghiện heroin. Methadon có tác dụng kéo dài từ 36 đến 48 giờ. Khi người nghiện dùng methadon thay cho ma túy thì họ không có hội chứng cai ma túy. Thời gian tác dụng của methadon kéo dài, do vậy chỉ cần dùng một lần mỗi ngày là đủ.

– Để cắt cơn cai nghiện heroin, một đợt điều trị bằng methadon không quá 21 ngày. Nếu bắt buộc phải lặp lại một đợt điều trị khác thì khoảng cách giữa hai đợt điều trị tối thiểu là 4 tuần. Liều điều trị cần căn cứ vào tình trạng của hội chứng cai của bệnh nhân. Nhìn chung, liều ban đầu là 15mg đến 20mg là đủ ngăn chặn hội chứng cai heroin. Các trường hợp nghiện nặng,  có thể dùng tới 40mg/ngày chia làm 2 lần. Các trường hợp vẫn không hết hội chứng cai với liều 40mg thì có thể tăng liều thành 80mg đến 100mg/ngày. Khi đã xác định được liều methadon cắt được hội chứng cai heroin, duy trì liều này trong 2-3 ngày. Sau đó cần tiến hành giảm từ từ liều methadon. Việc giảm liều methadon có thể thực hiện hàng ngày hoặc cách ngày. Trong thực tế, người ta khuyên nên giảm 20% liều methadon mỗi ngày.

Do methadon cũng là ma túy nên cũng gây nghiện nhưng hội chứng cai methadon diễn ra nhẹ và dễ điều trị hơn heroin nhiều. Khi cai methadon, người ta dùng clonidin (0,1-0,3mg/lần x 3lần mỗi ngày).

Đối với phụ nữ có thai nghiện ma túy, sử dụng methadon liều thấp (10-40mg/ngày) thay cho ma túy, sẽ giảm thiểu được nguy cơ gây ra hội chứng cai ma túy ở trẻ sơ sinh. Với liều này, trẻ sơ sinh sẽ có hội chứng cai rất nhẹ. Nếu người mẹ mang thai đang dùng methadon liều cao thì cần giảm dần liều (cứ 3 ngày thì giảm 1mg) và theo dõi vận động của thai nhi. Nên cai nghiện cho bệnh nhân ngay trong 3 tháng giữa của thời kỳ mang thai.

Sử dụng methadon thay cho heroin có những điểm lợi nhất định. Thứ nhất do dùng đường uống nên không có nguy cơ lây nhiễm bệnh viêm gan và HIV như tiêm heroin; thứ hai, mathadon gây khoái cảm nhẹ, ít gây mệt mỏi và trầm cảm khi dùng kéo dài; thứ ba, người dùng methadon vẫn đi làm được, giảm được nguy cơ phạm tội.

Các loại ma túy thay thế khác

– Levomethadyl acetat (LAAM): LAAM (1-alpha-acetylmethadol) là chất tác dụng giống opioid dùng để điều trị hội chứng cai ma túy opioid. Nếu sử dụng kéo dài, LAAM sẽ gây kéo dài QT trên điện tim và có thể gây tử vong do nhồi máu cơ tim. Liều dùng 20mg đến 80mg/ngày.

– Buprenorphin: cũng như methadone và LAAM, buprenorphin là chất có tác dụng giống ma túy opioid, dùng để điều trị nghiện ma túy từ năm 2002. Chúng dùng để điều trị ngoại trú theo đơn thuốc của các bác sĩ. Liều hàng ngày của buprenorphin 8-10mg và giảm dần lượng heroin đang dùng. Buprenorphine chỉ cần dùng 2 ngày một lần vì chúng có tác dụng kéo dài. Sau khi dùng buprenorphin, bệnh nhân giảm dần lượng ma túy opioid đang sử dụng như morphin và heroin. Nếu ngừng thuốc này sau một thời gian dài sử dụng thì sẽ gây ra hội chứng cai nhẹ.

– Morphin viên tác dụng kéo dài: dùng để cai nghiện heroin như methadon. Các thử nghiệm lâm sàng cho thấy morphin tác dụng kéo dài có hiệu quả tương đương methadon. Liều dùng mỗi ngày 10-20mg.

3.1.3.5       Điều trị củng cố chống tái nghiện ma túy opioid

Chính quá trình điều trị củng cố quyết định đến thành công của việc cai nghiện chứ không phải là quá trình cắt cơn cai nghiện. Nếu không điều trị củng cố, tỷ lệ tái nghiện 1 năm sau khi cai ma túy lên tới 95%-100%.

3.1.3.6       Các biện pháp phục hồi chức năng và phòng chống nghiện ma túy

– Liệu pháp tâm lý: các liệu pháp tâm lý có tác dụng với người nghiện ma túy nhóm opioid là liệu pháp tâm lý cá nhân, liệu pháp điều chỉnh hành vi, liệu pháp nhận thức hành vi, liệu pháp gia đình, liệu pháp nhóm hỗ trợ, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp. Liệu pháp gia đình thường áp dụng cho các bệnh nhân sống cùng gia đình.

– Công tác tuyên truyền: cần tuyên truyền cho mọi người dân sống trong cộng đồng về tác hại của ma túy. Cần có các quy tắc áp dụng cho người cai nghiện, các quy tắc này nhằm giúp người nghiện thay đổi lối sống, xa lánh ma túy, xây dựng lòng tin, đào tạo nghề nghiệp cho họ, loại trừ các hành vi phạm pháp và thái độ chống xã hội của họ.

– Không dùng chung bơm kim tiêm: người nghiện ma túy dễ bị lây nhiễm các bệnh nguy hiểm do dùng chung bơm kim tiêm. Giáo dục cho họ không dùng chung bơm kim tiêm, phải dùng bao cao su trong quan hệ tình dục để bảo vệ an toàn cho mình và người khác.

3.2        Nghiện amphetamin và các dẫn xuất của nó

Nhóm này bao gồm amphetamin và các dẫn xuất của nó như methamphetamin, MDMA (ecstasy)… Các chất này có tác dụng kích thần và cường giao cảm giống nhau, nhưng khác nhau về cường độ. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trong cấu trúc của phân tử cũng dẫn đến sự khác biệt rất lớn về tác dụng. Ecstasy có tác dụng mạnh nhất, tiếp theo là methamphetamin, yếu nhất là amphetamin. Ngày nay, người nghiện ma túy nhóm này chủ yếu dùng methamphetamin và ecstasy.

3.2.1        amphetamin

– Nghiện amphetamin:

Một người được gọi là nghiện phải có tiền sử sử dụng amphetamin gây ảnh hưởng rõ ràng đến các chức năng xã hội, nghề nghiệp và các bệnh lý cơ thể. Trong thời gian sử dụng amphetamin, người sử dụng phải có ít nhất 3 trong số 7 tiêu chuẩn là dung nạp, hội chứng cai, sử dụng liều cao, không thể ngừng sử dụng, tốn nhiều thời gian để tìm thuốc, giảm chức năng xã hội, nghề nghiệp và các hoạt động quan trọng khác, tiếp tục sử dụng amphetamin mặc dù đã được cảnh báo về các tác hại của nó.

– Lạm dụng amphetamin:

Một người sử dụng amphetamin gây ảnh hưởng rõ ràng đến các chức năng xã hội, nghề nghiệp hoặc các bệnh cơ thể, nhưng không đủ tiêu chuẩn cho nghiện amphetamin thì được gọi là lạm dụng amphetamin.

Chẩn đoán:

Nghiện amphetamin và các dẫn xuất có các tiêu chuẩn chẩn đoán giống như nghiện các chất khác trong cả hai hệ thống phân loại, chẩn đoán là DSM-5 và ICD 10. Cả hai hệ thông phân loại này đòi hỏi có 3 yếu tố xác định nghiện xảy ra trong vòng 12 tháng trở lại đây (bao gồm các triệu chứng về sinh lý, nhận thức và hành vi). DSM-5nhấn mạnh đến hiện tượng tăng dung nạp và phụ thuộc về sinh lý, nhưng các yếu tố này lại không có trong yêu cầu chẩn đoán.

Say amphetamin:

Tình trạng say amphetamin liên quan đến tác dụng của amphetamin trên các catecholamin ở não. Mức độ say amphetamin liên quan đến đường dùng và liều lượng sử dụng. Đường tiêm tĩnh mạch gây ra tình trạng say nặng nề nhất do nồng độc amphetamin nhanh chóng đạt mức cao trong máu. Bệnh nhân có hội chứng hưng cảm với các triệu chứng như nói nhiều, tự cao, hoạt động quá nhiều, lo âu, đa nghi và kích động. Bệnh nhân tăng ham muốn tình dục, tăng nhậy cảm với ánh sáng và âm thanh mạnh. Các triệu chứng này xuất hiện chỉ vài phút sau tiêm tĩnh mạch và hút, xuất hiện chậm hơn nếu bệnh nhân uống hoặc hít amphetamin.

Khi sử dụng liều cao, bệnh nhân sẽ có các triệu chứng loạn thần như hoang tưởng và ảo giác. Amphetamin dùng đường uống hiếm khi gây ra loạn thần. Hoang tưởng trong say amphetamin thường là hoang tưởng tự cao và hoang tưởng bị hại. Bệnh nhân cho rằng mình có rất nhiều tài năng, cũng có thể cho rằng một người hoặc một nhóm người nào đó đang tìm cách hại mình.

Ảo giác do say amphetamin có thể là ảo thị, ảo thanh và ảo xúc giác. Ảo thị ở các bệnh nhân này là nhìn thấy các hình ảnh không có thật như thấy ma, quỷ, các động vật nhỏ (như chim, chuột, côn trùng), nhưng cũng có thể có các hình ảnh đẹp, hấp dẫn khiến bệnh nhân rất thích thú. Ảo thanh thường là ảo thanh thật, bệnh nhân nghe thấy các giọng nói ở bên ngoài môi trường vọng vào đầu bệnh nhân, tiếng nói nghe được rất rõ ràng, có thể phân biệt được là giọng nam hay nữ, người quen hay người lạ. Nội dung của ảo thanh có thể là những lời nói khen, chê về các hành vi của bệnh nhân; nhưng đôi khi là giọng nói ra lệnh cho bệnh nhân phải làm một việc gì đó (nhảy múa, đánh người, đập phá…). Ảo xúc giác ở người say amphetamin ít gặp hơn so với ảo thanh và ảo thị giác. Bệnh nhân có cảm giác như có côn trùng bò trên da, ngứa ngáy.

Trên một bệnh nhân, có thể chỉ có một triệu chứng hoang tưởng hoặc ảo giác, nhưng cũng có thể có nhiều triệu chứng rất đa dạng và phong phú. Vì vậy, chúng ta dễ nhầm say amphetamin với bệnh tâm thần phân liệt hoặc loạn thần cấp; tuy nhiên, các triệu chứng loạn thần chỉ tồn tại trong trạng thái say amphetamin, khi tình trạng thái say amphetamin hết thì hoang tưởng và ảo giác cũng hết theo. Ở những người nghiện nặng amphetamin, các triệu chứng loạn thần sẽ kéo dài nhiều tháng, kể cả khi bệnh nhân đã cai amphetamin.

Do amphetamin gây mất ngủ và chán ăn nên người sử dụng chúng kéo dài thường sút cân và có dấu hiệu mất ngủ (thâm mắt, giảm chú ý, giảm cảm xúc và tổn thương giác mạc). Cũng như nhiều ma túy khác, người nghiện ma túy amphetamin ít chú ý đến vệ sinh cá nhân, quần áo nhăn nhúm, đầu tóc bù xù.

Cai amphetamin

Hội chứng cai amphetamin đối lập với say amphetamin. Hội chứng cai xuất hiện trên người nghiện amphetamin nhưng vì một lý do gì đó mà ngừng sử dụng amphetamin (hết tiền mua amphetain, bệnh cơ thể hoặc tâm thần phải vào viện điều trị, tự cai). Người dùng liều cao, kéo dài amphetamin sẽ có hội chứng cai nặng nề hơn người sử dụng liều thấp, thời gian sử dụng ngắn.

Triệu chứng phổ biến của hội chứng cai là thèm mãnh liệt amphetamin. Bệnh nhân luôn thèm muốn được sử dụng amphetamin và không thể dứt được suy nghĩ của mình về amphetamin. Triệu chứng thèm có thể tồn tại rất lâu, chúng được hoạt hóa khi có các kích thích chuyên biệt (nhìn thấy người khác sử dụng amphetamin, nhìn thấy bơm tiêm…).

Mệt mỏi là triệu chứng gặp ở tất cả các bệnh nhân cai amphetaim. Mệt mỏi xuất hiện rất sớm, sau khi amphetamin hết tác dụng. Bệnh nhân luôn trong trạng thái ể oải, lười hoạt động, không muốn làm gì.

Cảm giác khó chịu trong người là triệu chứng thường xuất hiện từ ngày thứ 2 của cai amphetamin. Bệnh nhân luôn cảm thấy bứt rứt, bồn chồn, đứng ngồi không yên. Họ luôn cảm thấy bất an trong lòng, các biện pháp thư giãn đều không có kết quả.

Ngủ nhiều là triệu chứng xuất hiện vài giờ sau khi ngừng sử dụng amphetamin. Bệnh nhân có thể ngủ liên tục trong 10 giờ hoặc hơn, tình trạng ngủ nhiều của bệnh nhân kéo dài trong 2 tuần cho đến khi hết hội chứng cai amphetamin. Một số bệnh nhân lại mất ngủ khi cai amphetamin. Các bệnh nhân này có thể mất ngủ đầu giấc, giữa giấc và cuối giấc.

Ăn nhiều cũng là triệu chứng phổ biến trong cai amphetamin. Bệnh nhân tăng cảm giác ngon miệng, ăn nhiều hơn so với bình thường. Do ăn nhiều và ngủ nhiều nên người cai amphetamin thường tăng cân.

Khó tập trung chú ý, trí nhớ kém cũng là triệu chứng hay gặp. Bệnh nhân rất khó chú ý vào một chủ đề cụ thể, khả năng ghi nhớ của họ vì thế cũng giảm đi rất nhiều.

Các triệu chứng trên đây sẽ hết nhanh chóng nếu bệnh nhân dùng lại amphetamin.

Một số bệnh nhân với hội chứng cai nặng nề hơn sẽ xuất hiện hoang tưởng và ảo giác. Hoang tưởng và ảo giác của hội chứng cai amphetamin thường là hoang tưởng bị hại, ảo thị giác với các hình ảnh ghê rợn, ảo thanh thật với các nội dung bình phẩm xấu về bệnh nhân, ảo xúc giác với cảm giác côn trùng bò trên da, cảm giác đau nhức trong xương. Các triệu chứng hoang tưởng và ảo giác do cai amphetamin rất bền vững. Khi hội chứng cai đã hết nhưng các triệu chứng này vẫn tồn tại trong một thời gian rất dài (hàng tháng, thậm chí đến 1 năm) nếu không được điều trị.

3.2.1.1       Điều trị cắt cơn

Bệnh nhân cần được điều trị nội trú tại các khoa tâm thần để đảm bảo ngừng sử dụng tuyệt đối amphetamin và đảm bảo quá trình điều trị diễn ra đúng dự kiến.         Bệnh nhân cần làm các xét nghiệm thường quy như huyết học, sinh hóa, điện tim, HIV, HBsAg và xét nghiệm nước tiểu tìm amphetamin.

Do amphetamin và các dẫn xuất có tác dụng mạnh trên hệ adrenergic và serotoninergic, vì vậy các thuốc an thần (đặc biệt thuốc an thần mới như quetiapin, olanzapin) kết hợp với thuốc chống trầm cảm (nhóm SSRI như sertralin hoặc nhóm 4 vòng như mirtazapin) sẽ có hiệu quả trong điều trị cắt cơn cai amphetamin.

3.2.2        Nghiện metamphetamin

3.2.2.1       Tác dụng dược lý

Do methamphetain thuộc nhóm phenethylamin nên có hai loại đồng phân là levorotary và dextrorotary. Dạng levorotary, còn gọi là levomethamphetamin, dùng đường hít có tác dụng chống tắc nghẽn mũi. Levomethamphetamin không có một tác dụng nào trên hệ thần kinh trung ương nên không gây nghiện. Chỉ có dạng dextrorotatory, còn gọi là dextroamphetamin, hay dạng racemic, mới có tác dụng trên hệ thần kinh trung ương. Thuật ngữ methamphetamin ở đây dùng để chỉ dextroamphetamin.

3.2.2.2       Tác động trên  cơ thể

Tác động của methamphetamin trên cơ thể bao gồm chán ăn, tăng hoạt động, giãn đồng tử, đỏ mặt, mất thư giãn, khô miệng, đau đầu, đánh trống ngực, thở nhanh, tăng huyết áp hoặc hạ huyết áp, tăng thân nhiệt, đái nhiều, ỉa chảy hoặc táo bón, hoa mắt, chóng mặt, rung giật nhãn cầu, mất ngủ, tê, đổ mồ hôi, loạn nhịp tim, run, khô da, chứng cá, tái mặt. Nếu dùng methamphetamin liều cao hoặc dùng kéo dài có thể gây co giật, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não và tử vong.

3.2.2.3       Tác động trên tâm thần

Tác động trên tâm thần của methamphetamin bao gồm khoan khoái, giảm lo âu, tăng ham muốn tình dục, giảm cảnh giác, tăng tập trung, tăng năng lượng, tăng tự tin, tăng hòa nhập xã hội, dễ kích thích, kích động, rối loạn dạng cơ thể, kích động tâm thần vận động, tự cao, cho rằng có quyền lực vô biên, hành vi lặp đi lặp lại và hành vi ám ảnh, đa nghi. Dùng liều cao hoặc kéo dài gây ra loạn thần như hoang tưởng và ảo giác.

3.2.2.4       Ngộ độc thần kinh do methamphetamin

Methamphetamin gây tổn thương não, ảnh hưởng xấu đến các tế bào thần kinh hệ serotonin và gây hủy hoại các tế bào thần kinh thuộc hệ thống dopamin. Methamphetamin gây giảm số lượng các túi đựng dopamin và serotonin ở tận cùng thần kinh trước xi-nap.

Các nghiên cứu về tác hại của methamphetamin trên các tế bào thần kinh thuộc hệ thống dopamin đã cho thấy chất này gây giảm số lượng tế bào thần kinh và tổn thương về cấu trúc của tận cùng thần kinh. Các tổn thương này bền vững nhiều tháng đến vài năm sau khi đã cai methamphetamin. Sự hồi phục các tế bào thần kinh hệ dopamin sau cai methamphetamin là rất chậm.

3.2.2.5       Tác động lâu dài

Sử dụng liều cao, kéo dài methamphetamin gây tăng nguy cơ bị trầm cảm loạn thần, lo âu, hành vi bạo lực và tự sát, cũng như bị các bệnh tim, mạch nặng.

Methamphetamin có khả năng gây nghiện rất cao. Chất này còn gây độc với hệ thần kinh trung ương, tăng nguy cơ bị bệnh Parkinson. Lạm dụng methamphetamin gây nhiễm độc thần kinh và được coi là nguyên nhân gây rối loạn trí nhớ, giảm chú ý và giảm các chức năng khác. Hơn 20% số người nghiện methamphetamin sẽ có các triệu chứng hoang tưởng và ảo giác giống với tâm thần phân liệt. Các triệu chứng này sẽ tồn tại ít nhất 6 tháng sau khi người nghiện đã ngừng sử dụng methamphetamin và thường khó điều trị.

Methamphetamin gây sâu răng nhanh chóng do người nghiện kém vệ sinh răng miệng và do khô miệng và do người nghiện hay ăn các chất đường.

Người nghiện methamphetamin dưới dạng tiêm tĩnh mạch có thể dùng kim tiêm không sạch gây ra các apxe tại chỗ tiêm.

Người nghiện methamphetamin và cocain hay quan hệ tình dục mà không dùng các biện pháp bảo vệ (bao cao su). Những người này có thể có quan hệ tình dục đồng giới hoặc khác giới. Họ hay quan hệ bằng miệng và hậu môn và sử dụng chung bơm kim tiêm nên rất dễ lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục như lậu, giang mai, HIV, viêm gan…

Do methamphetamin đi qua nhau thai và bài tiết ra sữa mẹ nên những trẻ sơ sinh có mẹ nghiện methamphetamin thường bị sinh sớm, nhẹ  cân, chu vi vòng đầu nhỏ. Các trẻ sơ sinh này có thể có hội chứng cai methamphetamin như kích thích, nôn, khó thở. Nhìn chung hội chứng cai methamphetamin ở trẻ sơ sinh có mẹ nghiện methamphetamin là nhẹ và chỉ có 4% là cần điều trị.

3.2.2.6       Hội chứng cai

Ngừng sử dụng đột ngột methamphetamin gây ra hội chứng cai ở 90% số người sử dụng methamphetamin. Các triệu chứng phổ biến nhất của hội chứng cai methamphetamin là mệt mỏi, trầm cảm, tăng cảm giác ngon miệng. Các triệu chứng này kéo dài vài ngày đến vài tuần, thậm chí nhiều tháng nếu người nghiện dùng methamphetamin lâu ngày. Mức độ nặng, nhẹ của hội chứng cai phụ thuộc vào liều lượng và thời gian dùng methamphetamin. Hội chứng cai còn bao gồm các triệu chứng lo âu, kích động, thất điều, ngủ quá nhiều, hay có ác mộng, rối loạn giấc ngủ REM và ý định tự sát.

Sử dụng kéo dài methamphetamine dẫn đến loạn thần (có hoang tưởng, ảo giác), rối loạn nhận thức và tăng nguy cơ gây bệnh Parkinson.

Khoảng 20% số người nghiện methamphetamin có các triệu chứng loạn thần giống như tâm thần phân liệt, các triệu chứng loạn thần này có thể bền vững tới 6 tháng sau khi cai methamphetamin.

Hội chứng cai methamphetamin kéo dài từ vài ngày đến vài tuần và nặng hơn so với hội chứng cai amphetamin. Trạng thái trầm cảm sau cai của methamphetamine dài hơn so với amphetamin, thường kéo dài vài tháng, thậm chí tới 1 năm.

3.2.2.7       Điều trị

Bệnh nhân cần được điều trị nội trú tại các khoa tâm thần để đảm bảo ngừng sử dụng tuyệt đối methamphetamin và đảm bảo quá trình điều trị diễn ra đúng dự kiến.

Do methamphetamin và các dẫn xuất có tác dụng mạnh trên hệ adrenergic và serotoninergic, vì vậy các thuốc an thần (đặc biệt thuốc an thần mới như quetiapin, olanzapin) kết hợp với thuốc chống trầm cảm (nhóm SSRI như sertralin, hoặc nhóm 4 vòng như mirtazapin) sẽ có hiệu quả trong điều trị cắt cơn cai amphetamin.

3.2.3        MDMA (Ecstasy)

MDMA (3,4-methylenedioxymethamphetamine), là một chất kích thần được tổng hợp từ năm 1912. Ma tuý tổng hợp MDMA có các tên gọi viên lắc, thuốc điên, viên chúa, viên hoàng hậu, max, xì cọp, ecstasy, mecsydes… có thể gây nghiện gấp 50 lần so với thuốc phiện, 5 lần so với heroin.

3.2.3.1       Dịch tễ học

Ở Mỹ, MDMA được sử dụng phổ biến hơn cả methamphetamin, năm 2006, tỷ lệ người sử dụng MDMA chiếm 3,8% dân số Mỹ.

Trên phạm vi toàn cầu, việc điều tra dịch tễ học MDMA khó khăn hơn do chất này có mối liên quan chặt chẽ đến các dẫn xuất khác của amphetamin. Theo báo cáo của liên hợp quốc năm 2003, số lượng ma túy nhóm amphetamin bị tịch thu trên toàn thế giới chỉ đứng sau cần sa. Trong số các ma túy nhóm amphetamin bị tịch thu thì nhiều nhất là methamphetamin, tiếp theo là MDMA.

Số người sử dụng MDMA gặp cả ở nam và nữ, nhưng nam có tỷ lệ cao hơn. Đa số người nghiện MDMA ở độ tuổi 15 đến 25, những người này chủ yếu cư trú ở thành thị. MDMA hay được sử dụng ở vũ trường, nhưng hiện nay việc sử dụng đã biến tướng dưới các dạng khác nhau (nhà nghỉ, nhà riêng…).

3.2.3.2       Ngộ độc cấp

Hội chứng ngộ độc cấp xảy ra ở người sử dụng MDMA liều cao và có thể gây tử vong. Hầu hết tác dụng của ngộ độc cấp MDMA đều xảy ra trên hệ giao cảm của thần kinh trung ương. Rối loạn tâm thần là rất phổ biến như lo âu, kích động, rối loạn định hướng và loạn thần. Các triệu chứng khác ít gặp hơn bao gồm cơn nhịp nhanh, nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp, co giật, nhồi máu hoặc chảy máu não, sững sờ, hôn mê và đột tử.

Triệu chứng liên quan đến cường giao cảm là sốt rất cao, dẫn đến một loạt các rối loạn như rối loạn đông máu rải rác trong long mạch, hoại tử cơ, suy gan, thận và tử vong. Đến nay, người ta chưa xác định chính xác được liều gây ngộ độc của MDMA, một số người có thể tử vong ngay sau khi dùng một liều duy nhất.

MDMA chỉ có tác dụng chọn lọc trên các tế bào thần kinh của hệ thống serotonin. Nhiều bằng chứng cho thấy những người dùng MDMA để giải trí, có hiện tượng giảm bền vững các axon của các tế bào thần kinh thuộc hệ serotonin ở não.

3.2.3.3       Hội chứng cai

Ngừng sử dụng đột ngột MDMA gây ra hội chứng cai ở 95% số người sử dụng. Các triệu chứng phổ biến nhất của hội chứng cai MDMA là mệt mỏi, trầm cảm, tăng cảm giác ngon miệng. Các triệu chứng này kéo dài vài ngày đến vài tuần, thậm chí nhiều tháng nếu người nghiện dùng MDMA lâu ngày. Mức độ nặng, nhẹ của hội chứng cai phụ thuộc vào liều lượng và thời gian dùng MDMA. Hội chứng cai còn bao gồm các triệu chứng lo âu, kích động, thất điều, ngủ quá nhiều, hay có ác mộng, rối loạn giấc ngủ REM và ý định tự sát.

Sử dụng kéo dài MDMA dẫn đến loạn thần (có hoang tưởng, ảo giác), rối loạn nhận thức và tăng nguy cơ gây bệnh Parkinson. So với methamphetamin, loạn thần ở người nghiện MDMA phổ biến hơn nhiều. Khoảng một nửa số người nghiện MDMA có các triệu chứng loạn thần giống như tâm thần phân liệt, các triệu chứng loạn thần này có thể bền vững tới 6 tháng sau khi cai MDMA.

Hội chứng cai MDMA kéo dài từ vài ngày đến vài tuần và nặng hơn so với hội chứng cai methamphetamin. Trạng thái trầm cảm sau cai của MDMA cũng nặng hơn so với methamphetamin, thường kéo dài 1 năm hoặc hơn.

3.2.3.4       Điều trị

Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho nghiện MDMA. Người ta nhận thấy nghiện MDMA khó cai hơn nghiện methamphetamin. Cần kết hợp giữa thuốc an thần và thuốc chống trầm cảm để cắt cơn cai nghiện. Các trường hợp bệnh nhân có kích động nặng hoặc có loạn thần mạnh, chỉ định sốc điện sẽ được đặt ra.

Câu hỏi ôn tập

1. Đặc điểm lâm sàng các giai đoạn nghiện rượu?

2. Đặc điểm lâm sàng hội chứng cai rượu?

3. Các phương pháp điều trị nghiện rượu?

4. Đặc điểm lâm sàng, tiêu chuẩn chẩn đoán và điều trị ảo giác do rượu, hoang tưởng do rượu và sảng rượu?

5. Đặc điểm lâm sàng và điều trị các dạng rối loạn tâm thần do nghiện ma túy nhóm opioid?

6. Đặc điểm lâm sàng và điều trị các dạng rối loạn tâm thần do nghiện ma túy nhóm amphetamin, metamphetamin và estasy?

Tài liệu tham khảo

1. American Psychiatric Association. Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Ed.,DSM-5, 2013, pp 156-170.

2. Ngô Ngọc Tản, Nguyễn Văn Ngân (chủ biên). Bệnh học tâm thần, NXB QĐND, 2005, tr. 175-214.

3. Bùi Quang Huy. Trầm cảm, NXB Y học, 2008.