Air blade 2010 fi đánh giá

Hành trình chạy thử trên chặng đường 690 km cho kết quả mẫu xe tay ga trang bị công nghệ phun xăng điện tử Air Blade FI tiết kiệm khoảng 0,43 lít cho mỗi 100 km so với Air Blade động cơ thường.

Quãng đường thử nghiệm dài 690 km được chia làm bốn chặng. Bốn phóng viên từ các báo lần lượt chạy trên 4 xe Air Blade (gồm 2 mẫu trang bị công nghệ phun xăng điện tử FI và hai mẫu dùng chế hòa khí thường). Qua mỗi chặng, người thử được đổi xe để loại trừ yếu tố thói quen có thể làm ảnh hưởng tới mức tiêu hao nhiên liệu.

Kết quả cho thấy, mức tiêu hao nhiên liệu trung bình của phiên bản Air Blade FI là 1,74 lít xăng cho 100 km. Đối với Air Blade thường, mức tiêu hao xăng là 2,17 lít cho 100 km. Như vậy, công nghệ phun xăng điện tử giúp tiết kiệm khoảng 0,43 lít cho 100 km đi được.

Phần lớn (gần 80%) thời gian xe chạy ở vận tốc 30-50 km/h. Trọng lượng trung bình của người thử vào khoảng 70 kg.

Air blade 2010 fi đánh giá

Kết quả tiêu hao nhiên liệu trên các chặng đường.

Như vậy, công nghệ FI tiết kiệm hơn khoảng 20%, cao hơn nhiều so với mức 7% trên lý thuyết mà Honda công bố. Sự chênh lệch này có thể được giải thích do điều kiện vận hành thực tế khác xa so với thử nghiệm trong điều kiện chuẩn. Với khả năng điều tiết lượng xăng theo vận tốc, tải trọng, công nghệ FI giúp xe ít phụ thuộc vào thói quen tài xế, điều kiện mặt đường như chế hòa khí thông thường. Do đó, với điều kiện giao thông Việt Nam, FI sẽ giúp tiết kiệm hơn.

Dựa trên tính toán số km chênh lệch (với 1 lít nhiên liệu) giữa hai xe cùng loại, cùng một quãng đường có thể rút ra kết luận đó. Với công nghệ FI, số km chênh lệch trung bình giữa hai xe (hai người lái khác nhau) là 0,65 km/lít. Trong khi đó, ở bản thường con số này là 1,55 km/lít. Điều đó có thể thấy FI ít phụ thuộc vào người lái hơn. Còn ở Air Blade thường, với mỗi tài xế, tùy cách lái có thể làm xe đi ít hơn hoặc nhiều hơn 1,55 km cho 1 lít nhiên liệu.

Air blade 2010 fi đánh giá

Đoàn thử nghiệm (xe Future đi đầu dẫn đoàn).

Khi di chuyển trên đường, xe chạy đúng tốc độ quy định (tối đa 60 km/h hoặc 40 km/h khi đi qua khu vực đông dân cư), các thành viên thoải mái đi theo cách của mình. Trong quá trình đo, các kỹ thuật viên giảm tối thiểu ảnh hưởng từ các yếu tố ngoại cảnh. Trước khi khởi hành (Vĩnh Phúc), xe được đổ đầy bình xăng (đến miệng). Mỗi khi kết thúc hành trình, kỹ thuật viên sẽ đổ lại cho đầy bình như ban đầu, từ đó tính ra mức tiêu hao nhiên liệu.

Để đảm bảo yếu tố giãn nở nhiệt, hai loại xe được đo so le. Nếu xe FI đo trước thì lần sau xe thường đo trước. Đến chặng cuối, chúng được rửa, để nguội trước khi đong.

Khác với kiểu cấp liệu bằng chế hòa khí, vốn tùy thuộc vào độ mở của bướm ga, ở PGM-FI, nhiên liệu được nén bằng bơm, phun vào cổ hút trước khi vào buồng đốt. Tổng số có 5 cảm biến trong hệ thống PGM-FI, chịu trách nhiệm giám sát các thông số như tình trạng động cơ, nhiệt độ và áp suất không khí.

Air blade 2010 fi đánh giá

Trên đường từ Hạ Long sang Hải Phòng.

Tất cả những thông tin này sẽ được gửi qua bộ điều khiển trung tâm ECU. Tại đây những tham số này được xử lý và tính toán ra lượng khí cần nạp, định lượng và thời điểm cần bơm nhiên liệu vào buồng đốt, thời điểm đánh lửa, đảm bảo quá trình đốt cháy nhiên liệu đạt hiệu quả tối ưu.

Lợi ích của PGM-FI là giúp động cơ vận hành trơn tru, hiệu suất cao. Lượng nhiên liệu được phun vừa đủ với nhu cầu vận hành nên có mức tiêu hao thấp hơn. Ngoài ra, nếu xe dùng chế hòa khí khó khởi động vào buổi sáng lạnh thì PGM-FI không bị tình trạng tương tự. Do hoàn toàn được điều khiển bằng ECU (hệ thống điều khiển trung tâm), tính năng vận hành và độ êm của động cơ được cải thiện.

Tổng thể xe rất gọn gàng với triết lý thiết kế theo sự kết hợp giữa những hình đa giác góc cạnh nhưng lại được bo tròn các góc tạo nên vẻ thể thao nhưng rất uyển chuyển, linh hoạt, không bị thô cứng

Mình cảm thấy cái chất thiết kế này có nét cũng giống những chiếc xe của Mercedes bây giờ, rất thể thao, nhưng vẫn có những nét mềm mại, quyến rũ rất tinh tế, unisex. Chính điều đó khiến cho chiếc xe có thể tiếp cận được phần đông khách hàng hơn, cả nam lẫn nữ chạy đều hợp và cá tính, không phân biệt tuổi tác. Có lẽ chính điều đó đã khiến cho doanh số xe này luôn đứng đầu phân khúc, thậm chí còn vượt xa các hãng khác...

Động cơ, khả năng vận hành, nhiên liệu

110 phân khối với mình thì không phải là mạnh, nhưng Air Blade mang lại cho mình cảm giác lái khá phấn khích. Phần lớn cảm giác này tới từ tiếng bô của xe, đúng như cái tên “ xé gió “ mà hãng đã đặt tên, khi vặn ga chiếc xe như gầm rú để lấy đà thốc lên và khi nhả ga ta sẽ cảm nhận được tiếng “ viu... viu..” giống như âm thanh của những chiếc máy bay khi hạ cánh vậy. Đây là cảm giác mà mình không thể tìm được khi chạy những chiếc Air Blade đời sau này

Khi chạy xe rất đầm và vững chắc, thân xe vẫn rất ổn định khi chạy giải tốc độ 70-100km/h mặc dù chiếc xe của mình đã khá cũ rồi, nhưng là đàn ông nên dù gì mình vẫn chú ý bảo dưỡng hơn là phái yếu

Tuy nhiên khi xe nguội- lạnh lâu không vận hành thì xe có hiện tượng bị rung ở những nước ga đầu. Mình không rõ cách khắc phục ra sao, mình cũng đã mang qua Head để kiểm tra những họ cũng nói là nó không sao cả nên cũng phải chấp nhận.

Gương không rung khi chạy tốc độ cao, may đời mấy lần ngã xe rồi nhưng chưa vỡ gương bao giờ nên mình vẫn được dùng cặp gương theo xe