Bùi bằng đoàn là ai

Tổng tuyển cử 6/1/1946, cụ trúng cử đại biểu Quốc hội và sau đó được bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Cụ đã lên Việt Bắc, sát cánh cùng Hồ Chủ tịch trong những thời điểm khó khăn nhất... Cuộc đời của cụ Bùi Bằng Đoàn là một tấm gương tận tụy, vì nước vì dân...

Ông quan thanh liêmCụ Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 17/8/1889 [Kỷ Sửu] trong một gia đình Nho học tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây. Cụ từng đỗ Cử nhân dưới triều vua Thành Thái. Gặp thời Tây học bắt đầu thịnh hành, cụ phải khai thêm 3 tuổi cho đủ để vào học trường Hậu bổ. Đến năm 1933, cụ đã giữ chức Nam triều Tư pháp Bộ Thượng thư, nổi tiếng là ông quan đức độ, thanh liêm, chính trực, chăm dân. Trên công đường ở những nơi cụ làm quan, đều có treo một bảng thông báo “không nhận quà biếu”.

 Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Bùi Bằng Đoàn tại chiến khu Việt Bắc năm 1947. Ảnh tư liệu

Với người nhà, cụ rất nghiêm khắc, cấm tiệt việc nhận quà, nếu lỡ nhận rồi thì phải mang đi trả lại. Khi làm tri phủ Xuân Trường [Nam Định], cụ đã đề xuất và thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn nước mặn, tạo lập được một vùng lúa, dâu rộng lớn. Ghi công đức cụ, dân địa phương đã làm lễ tế sống vị “phụ mẫu chi dân” trẻ tuổi ngay nơi nhậm chức. Năm 1925, trước việc báo chí lên án cảnh phu đồn điền ở miền Nam bị bóc lột dã man, Chính phủ Nam Triều đã cử Bùi Bằng Đoàn vào Nam Bộ thanh tra các đồn điền cao su của Pháp. Cụ đã tiến hành thanh tra thấu đáo, viết một bản báo cáo dày đến 100 trang bằng tiếng Pháp nêu bật lên những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn điền. Những kiến nghị xác đáng của bản báo cáo đã được nhà đương cục chấp nhận, giảm thiểu những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.Cụ Bùi Bằng Đoàn là một người đặc biệt thông minh, theo Nho học nhưng rất giỏi Toán, nhất là môn đại số. Còn đối với Pháp văn, cụ là người tinh thông. Chính vì thế, năm 1925, mặc dù đang làm tri phủ Nghĩa Hưng nhưng vẫn được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử vụ án cụ Phan Bội Châu. Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, Bùi Bằng Đoàn đã thông dịch rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của cụ Phan Bội Châu để rồi sau đó tòa án đã không khép được cụ Phan vào án chung thân mà giảm xuống hình thức “an trí ở Huế”. Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Vua Bảo Đại xuống chiếu thành lập Chính phủ, Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn đã từ chối tham gia Chính phủ bù nhìn, cáo quan về quê. Tuy nhiên, Chính phủ Nam Triều đã mời cụ ở lại bằng được và giao giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội. Ở thời điểm “đêm trước” của cách mạng, tổ chức Việt Minh đã tiếp xúc và mời cụ làm Hội trưởng Hội Bảo vệ tù chính trị. Và cụ đã đến với Việt Minh, đến với cách mạng một cách tự nhiên, như phẩm chất vốn có trong con người chính trực của cụ.Một lòng theo cách mạngÔng Bùi Nghĩa, con trai cụ Bùi Bằng Đoàn kể lại: Không biết cụ đã tham gia Việt Minh từ bao giờ nhưng kế hoạch tổ chức mít tinh ngày 17/8 như thế nào, Việt Minh sẽ nhân dịp đó tổ chức diễn thuyết ra sao cụ đều biết cả. Ngày 2/9/1945, cụ được mời tham gia dự lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Ba Đình. Tại buổi lễ đó, cụ Bùi Bằng Đoàn đã gặp Hồ Chủ tịch và cụ Hồ đã có nhã ý mới cụ Bùi tham gia chính quyền cách mạng. Việc này, cụ đã kể lại cho con cháu trong nhà ngay sau đó. Tuy nhiên, khi cách mạng thành công, theo lẽ thường, cụ đã “treo ấn, từ quan” về an trí ở quê nhà Liên Bạt, Hà Tây. Sống trong cảnh điền viên chẳng được bao lâu, ngày 17/11/1945, cụ nhận được thư của Hồ Chủ tịch mời ra gánh vác việc nước. Bức thư viết: “Thưa Ngài/ Tôi tài đức ít ỏi, mà trách nhiệm nặng nề. Thấy Ngài học vấn cao siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên, tôi muốn mời Ngài làm Cố vấn cho tôi, để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi trừ hại cho nước nhà dân tộc. Cảm ơn và chúc Ngài mạnh khỏe/Kính thư - Hồ Chí Minh”.Từ một ông quan thanh liêm, chính trực làm việc dưới triều đình phong kiến, nhận thức rõ đường lối cách mạng và mến mộ tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ lại rời quê, dấn thân vào con đường cách mạng. Tham gia chính quyền mới, cụ đã từng giữ các chức vụ: Cố vấn Chủ tịch nước, Trưởng ban Thanh tra đặc biệt, đại biểu Quốc hội khóa I, Trưởng ban Thường trực Quốc hội từ tháng 11/1946 cho đến khi tạ thế, tháng 4/1955.Trong thời gian tham gia cách mạng của cụ Bùi Bằng Đoàn, có hai sự kiện đáng ghi nhớ. Một là, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 18/12/1946, cơ quan Ban Thường trực Quốc hội phải sơ tán đến địa điểm mới và ngôi nhà của cụ tại thôn Liên Bạt, Ứng Hòa, Hà Tây trở thành trụ sở làm việc của Ban Thường trực Quốc hội một thời gian. Hai là, thời gian ở Việt Bắc cụ lâm bệnh nặng, cuối năm 1948 Hồ Chủ tịch và T.Ư đã quyết định đưa cụ về xuôi để dưỡng bệnh. Khi về gần đến nhà thì gặp lính Pháp đang càn quét ở Vân Đình, cụ phải lánh đi. Khi đó, một mình cụ bà Trần Thị Đức ở nhà, đang cất dấu tài liệu của Quốc hội, của Đảng thì bị giặc Pháp ập vào và bắn chết. Sự hy sinh của cụ bà mãi tới năm 1955, khi về thăm nhà cụ Bùi mới được biết.Cụ Bùi Bằng Đoàn làm việc trong một thời gian ngắn tại chiến khu Việt Bắc. Tại đây, mối thâm giao giữa cụ Hồ và cụ Bùi Bằng Đoàn không chỉ là tình cảm cách mạng mà còn là của những người bạn tri âm. Có lẽ ai cũng biết bài thơ Hồ Chủ tịch tặng cụ Bùi Bằng Đoàn:“Xem sách chim rừng vào cửa đậuPhê văn hoa núi ghe nghiêng soiTin vui thắng trận dồn chân ngựaNhớ cụ thơ Xuân tặng một bài”...Cụ Bùi cũng đã có bài thơ họa:“Sắt đá một lòng vì chủng tộcNon sông muôn dặm giữ cơ đồBiết Người việc nước không hề rảnhVung bút thành thơ đuổi giặc thù”.

Ở núi rừng Việt Bắc kham khổ, gặp bạo bệnh, cụ phải giao việc của Ban Thường trực Quốc hội lại cho cụ Tôn Đức Thắng và cụ Tôn Quang Phiệt để về xuôi chữa bệnh. Tuy xa T.Ư, xa Hồ Chủ tịch nhưng cụ vẫn thường xuyên liên hệ với chiến khu, vẫn thư từ và gửi góp ý cho T.Ư và Chính phủ về những vấn đề mà cụ quan tâm. Thỉnh thoảng, cụ vẫn trả lời phỏng vấn, viết báo để động viên quân, dân tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.Từ Thượng thư Bộ Hình Nam triều, chuyên lo việc xử án nổi tiếng thanh liêm, chính trực, cụ Bùi Bằng Đoàn đã vượt qua những định kiến của thời cuộc, của chế độ cũ - mới để tham gia chính quyền cách mạng, trở thành đại biểu Quốc hội khóa I, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam. Đức thanh liêm và tấm lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân của cụ Bùi Bằng Đoàn thật đáng để chúng ta kính trọng và học tập. 

Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 130 năm ngày sinh cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Thường trực Quốc hội [19/9/1889 - 19/9/2019]

I. TÓM TẮT TIỂU SỬ - QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CỤ BÙI BẰNG ĐOÀN

Cụ Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 19/9/1889 trong một gia đình nhà nho tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông [nay thuộc thành phố Hà Nội] – làng quê có truyền thống văn hiến, với những danh nhân khoa bảng được ghi trong sử sách. Ông nội là Tiến sĩ Bùi Tuấn, hàm Thái tử Thiếu bảo, từng là giám khảo các kỳ thi Hương, giữ chức Tả Tham tri Bộ Binh kiêm Tổng đốc tỉnh Bắc Ninh. Cha là Bùi Tập từng giữ chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa [một tỉnh cũ dưới thời Pháp thuộc]. Do cha mẹ đều mất sớm, ngay từ nhỏ, Bùi Bằng Đoàn được người chú dượng là Dương Lâm [tức cụ Thiếu bảo Vân Đình lúc đó làm Tham tri Nha Kinh lược Bắc Kỳ] đưa về nuôi dưỡng và dạy học chữ Hán.

Năm Bính Ngọ [1906], dưới triều Vua Thành Thái, tại khoa thi Hương trường Hà Nam, Bùi Bằng Đoàn đỗ cử nhân. Cùng năm ấy, phong trào Tây học rộ lên, Bùi Bằng Đoàn tự khai thêm 3 tuổi để được tuyển sinh vào trường Hậu Bổ -trường chuyên dạy và học bằng tiếng Pháp.

Năm 1911, Bùi Bằng Đoàn tốt nghiệp trường Hậu Bổ, Hà Nội, được bổ làm Tri huyện, sau đó làm Tri phủ Xuân Trường [tỉnh Nam Định], Án sát tỉnh Bắc Ninh; Tuần phủ các tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình. Năm 1933, Cụ được nhà Nguyễn tuyên triệu vào Triều đình Huế làm việc và được giữ chức Thượng thư Ngự Tiền, Văn phòng Nam Triều [1934], rồi làm Thượng thư bộ Hình [Bộ Tư pháp]; sung Cơ mật viện Đại thần, hàm Chánh nhị phẩm và được thăng Hiệp tá Đại học sĩ hàm Tùng nhất phẩm. Sau đó ít lâu được phòng hàm Chánh phẩm.

Năm 1944, Bùi Bằng Đoàn được nhà Vua ban tặng hàm Thái tử Thiếu bảo, và tham gia Viện Cơ mật của Triều đình Huế.

Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Vua Bảo Đại xuống chiếu thành lập Chính phủ, Trần Trọng Kim được đưa lên làm Thủ tướng Chính phủ. Thượng thư bộ Hình Bùi Bằng Đoàn đã từ chối tham gia chính phủ bù nhìn, cáo quan về sống ở Hà Đông, nhưng Chính phủ Nam Triều đã mời ở lại và giao giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm ở Hà Nội.

Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 17/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cụ Bùi Bằng Đoàn tham gia Ban Cố vấn Chủ tịch nước, thành viên Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến thiết đất nước. Theo Sắc lệnh số 80/SL số 31/12/1945, Cụ được cử làm Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 31/12/1945, Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết được thành lập, gồm 40 nhân sỹ, trí thức, các bộ trưởng và thứ trưởng trong đó cụ Bùi Bằng Đoàn là thành viên.

Trong cuộc Tổng Tuyển cử ngày 6/1/1946, Cụ trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I của tỉnh Hà Đông [cũ], rồi được bầu làm ủy viên chính thức Ban Thường trực Quốc hội.

Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội [28/10/1946 - 9/11/1946] Cụ được bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội.

Ngày 31/12/1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 5/SL thành lập Ủy ban Tản cư và Di cư Trung ương, Ủy ban tản cư của các tỉnh, phủ, huyện. Ngày 22/01/1947, Chủ tịch Chính phủ ký Sắc lệnh số 8/SL cử các thành viên Ủy ban Tản cư và Di cư, gồm 11 thành viên, cụ Bùi Bằng Đoàn được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban.

Năm 1947-1948, cụ Bùi Bằng Đoàn hoạt động ở chiến khu Việt Bắc. Tháng 8/1948, vì bị bệnh nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh đưa Cụ về Liên khu 3 chữa trị. Ngày 13/4/1955, Cụ qua đời tại Hà Nội, hưởng thọ 66 tuổi. Do những công lao, cống hiến to lớn đối với dân tộc, cụ Bùi Bằng Đoàn đã được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất.

II. CÔNG LAO VÀ CỐNG HIẾN TO LỚN CỦA CỤ BÙI BẰNG ĐOÀN ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ ĐẤT NƯỚC

1. Cụ Bùi Bằng Đoàn – Một tấm gương về thanh liêm, chính trực, mẫn cán, một lòng đi theo cách mạng

1.1. Trước Cách mạng Tháng Tám, làm quan ở triều đại phong kiến, cụ Bùi Bằng Đoàn nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, thương dân

- Khi làm Tri phủ Xuân Trường [tỉnh Nam Định], cụ Bùi Bằng Đoàn đã đề xuất và tổ chức thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn nước mặn - một công trình trị thủy lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng về dân sinh và kinh tế nông nghiệp cho nhân dân địa phương. Nhờ con đê Bạch Long mà cả một vùng đất đai rộng lớn, phì nhiêu được tạo lập, những người nông dân trồng lúa, trồng dâu ở địa phương dần dần có cuộc sống ổn định. Ghi nhớ công đức của Cụ, nhân dân địa phương đã làm lễ tế sống vị phụ mẫu chi dân trẻ tuổi ngay nơi nhận chức.

- Khi đang làm Tri phủ Nghĩa Hưng, nhờ tinh thông Pháp văn cụ Bùi Bằng Đoàn được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử vụ án cụ Phan Bội Châu. Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, cụ Bùi Bằng Đoàn đã phiên dịch rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của cụ Phan Bội Châu để rồi sau đó tòa án không khép được cụ Phan vào án chung thân mà giảm xuống hình thức “an trí ở Huế”.

- Năm 1925 trước việc báo chí phản ánh cảnh phu điền ở Nam Kỳ bị bóc lột dã man, Chính phủ Nam Triều đã cử Bùi Bằng Đoàn vào thanh tra các đồn điền cao su của Pháp tại Nam Kỳ. Là người công minh, liêm khiết, mẫn cán và tác phong làm việc cẩn trọng, khoa học, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tiến hành điều tra trực tiếp, thấu đáo tại 45 đơn vị đồn điền cao su thuộc các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Chợ Lớn và Gia Định. Nội dung điều tra tập trung chủ yếu vào việc tổ chức sản xuất, sử dụng lao động, nhất là người lao động ở các tỉnh Bắc Kỳ vào và đời sống người lao động thông qua tiền lương, điều kiện ăn ở, sinh hoạt, số giờ lao động trong ngày, số tiền lãi của chủ đồn điền… Kết thúc cuộc điều tra, Cụ đã viết báo cáo, kiến nghị dày 100 trang bằng tiếng Pháp nêu trung thực, khách quan, công minh và đầy đủ những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn điền. Nhờ đó đã được nhà đương cục lúc bấy giờ chấp nhận giảm thiểu những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.

- Khi làm Án sát tỉnh Bắc Ninh, Cụ được mời tham dự phiên tòa Đề hình xét xử đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Khâm phục tinh thần cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, nên khi nghị án thực dân Pháp đã định án tử nhưng Cụ đã tìm mọi cách để giảm tội tử hình xuống khổ sai đày đi Côn Đảo.

- Năm 1933, cụ Bùi Bằng Đoàn được bổ nhiệm làm Tuần phủ Ninh Bình, sau đó, khi Phạm Quỳnh tổ chức lại nội các, Cụ được bổ nhiệm làm Thượng thư bộ Hình.

Trên cương vị Thượng thư bộ Hình, cụ Bùi Bằng Đoàn đã có công lớn trong việc cải cách tư pháp, sửa đổi luật pháp, bãi bỏ nhiều quy định lỗi thời của hệ thống tư pháp cổ xưa trên 17 tỉnh, đạo thuộc Trung Kỳ. Đồng thời, Cụ đã tấu trình và được nhà Vua chấp thuận việc biên soạn, ban hành một số luật mới có nội dung tiến bộ, tổ chức các tòa án và quy định cơ chế tư pháp tân tiến, lựa chọn và đào tạo thẩm phán và đội ngũ nhân viên chuyên môn nghiệp vụ chuyên trách… Sau này nhiều người được tiếp tục phục vụ trong các cơ quan pháp luật của cách mạng.

Trong thời gian làm quan đại thần trong Triều Nguyễn ở Huế, Cụ nổi tiếng là vị quan đức độ, thanh liêm, chính chực, chăm dân. Cụ được nhà Vua sủng ái, các quan trong triều kính trọng, nhân viên và các quan chức dưới quyền ngưỡng mộ, được nhân dân kính trọng, tin cậy.

1.2. Cách mạng Tháng Tám thành công, tháng 11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự tay đánh máy bức thư trân trọng mời Cụ tham gia việc nước. Từ một vị quan thanh liêm, chính trực làm việc dưới triều đình phong kiến, nhận thức được trách nhiệm của mình với Tổ quốc, khâm phục, kính trọng tài đức, lý tưởng lớn lao, trong sáng và tinh thần, nghị lực đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tin tưởng vào vận mệnh nước nhà, cụ Bùi Bằng Đoàn đã nhận lời tham gia Uỷ ban kiến thiết quốc gia; tham gia Ban Cố vấn riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; rồi trở thành Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, Trưởng ban Thường trực Quốc hội… Trên cương vị và trọng trách nào do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ giao, cụ Bùi Bằng Đoàn cũng thể hiện là một người thanh liêm, chính trực, một lòng đi theo cách mạng.

Khi ở vị trí Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, hoạt động chỉ có hai người nhưng với kinh nghiệm phong phú, cộng với sự giúp đỡ của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tham mưu kịp thời chấn chỉnh những bất cập trong hoạt động của bộ máy nhà nước, giúp giữ nghiêm kỷ cương phép nước, chấn chỉnh đội ngũ cán bộ trong cơ quan chính quyền. Đặc biệt Cụ đã tham mưu cho Chính phủ ban hành những sắc lệnh có tác động tích cực đến đời sống xã hội, như Sắc lệnh số 40/SL về việc Bảo vệ tự do cá nhân do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 29/3/1946. Đây là sắc lệnh đầu tiên quy định cụ thể những trường hợp bắt người, giam cứu, nơi giam cứu, cấm tra tấn để lấy cung, bảo vệ quyền tự do của mỗi công dân Việt Nam; giúp cho Ban Thanh tra đặc biệt giải quyết các vụ việc oan trái được nhanh chóng.

Không những vậy, từ công tác thanh tra, Cụ đã tổng kết thực tiễn, đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng tư tưởng thanh tra nhân dân, thanh tra cách mạng Việt Nam sau này.

2. Cụ Bùi Bằng Đoàn - Trưởng ban Thường trực Quốc hội, có công lao, đóng góp to lớn đối với hoạt động lập pháp của Quốc hội và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

- Ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên được tổ chức trong phạm vi toàn quốc, với sự tham gia của tất cả các đảng phái trong nước, thu hút mọi tầng lớp trong xã hội. Cụ Bùi Bằng Đoàn với chức danh cố vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trưởng Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, được Hồ Chủ tịch giới thiệu ra ứng cử đại biểu Quốc hội khoá I và đã trúng cử đại biểu của tỉnh Hà Đông [cũ] với số phiếu bầu rất cao.

Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ Bùi Bằng Đoàn được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Thường trực Quốc hội. Lúc này nhiệm vụ chính của Cụ vẫn là ở Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ nhưng Cụ đã tham gia một số hoạt động đối ngoại của Chính phủ, như tham gia đàm phán với Chính phủ Pháp sau khi ký Hiệp ước sơ bộ ngày 6/3/1946.

- Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I [tháng 11-1946], Cụ được bầu làm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội. Trên cương vị Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Cụ đã phát huy vai trò, trách nhiệm và những đóng góp cho hoạt động lập pháp, đặc biệt là việc tập hợp lực lượng đoàn kết toàn dân, kháng chiến chống Pháp:

Ngày 17/12/1946, tại Hà Nội, Hội đồng Chính phủ họp có sự tham gia của Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn. Đây là cuộc họp rất quan trọng, nghe đồng chí Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình quân sự diễn ra ở Hải Phòng, Lạng Sơn, Đà Nẵng và một số nơi khác; Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo thống nhất quyết định phát động cuộc kháng chiến trong cả nước. Sau cuộc họp này, ngày 18 và 19/12/1946 tại Vạn Phúc, Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước và ban bố Chỉ thị kháng chiến của Đảng. Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”.

- Kháng chiến toàn quốc diễn ra, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ bí mật rút khỏi Hà Nội. Để sự lãnh đạo điều hành được tập trung thống nhất, Quốc hội đã giao quyền tập trung vào Chính phủ và có sự tham gia tích cực, thường xuyên của Ban Thường trực Quốc hội. Tuy nhiên, do tình hình ngày càng cấp bách và khó khăn, vì vậy thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường trực Quốc hội, chỉ có Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn ở lại cùng với Chính phủ thực hiện nhiệm vụ trên.

Trên cương vị Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tham dự các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, tham gia bàn bạc góp ý kiến các chủ trương, chính sách lớn của Chính phủ và tham gia giám sát các công việc của Chính phủ thực hiện công cuộc kháng chiến kiến quốc. Với tinh thần trách nhiệm cao, Cụ đã tham gia đóng góp cải tổ nhân sự của Chính phủ năm 1947, chỉ đạo các đoàn đại biểu Quốc hội địa phương, lấy nguyện vọng nhân dân góp ý cho Quốc hội và Chính phủ trong lãnh đạo kháng chiến. Cụ đã thay mặt Quốc hội tham dự các sự kiện trọng đại của đất nước.

Ngoài các hoạt động đối nội, lập pháp, Cụ Bùi Bằng Đoàn còn tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại, thường xuyên trả lời phỏng vấn báo chí, đài phát thanh trong và ngoài nước về một số vấn đề trọng đại của đất nước, về chủ quyền của Việt Nam trong thời gian trước và sau khi hai đoàn đại biểu Việt Nam và Pháp ký Hiệp ước 6/3/1946 tại Đà Lạt.

- Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 10/10/1954 Thủ đô Hà Nội hoàn toàn giải phóng, Cụ trở về Hà Nội. Thời gian này công việc của Quốc hội cũng như các cơ quan Trung ương rất bộn bề. Với tư cách là Trưởng Ban Thường trực Quốc hội Cụ đã có nhiều ý kiến đóng góp, cùng Ban Thường trực Quốc hội trong việc tiến hành ổn định tổ chức và hoạt động của Quốc hội; xem xét việc chuẩn bị thông qua nhiều văn bản pháp luật của Chính phủ nhằm bảo đảm thành công trong công việc kiến quốc theo chủ trương, đường lối của Đảng và nguyện vọng của toàn dân.

Từ Thượng thư bộ Hình Nam triều nổi tiếng thanh liêm, chính trực, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tham gia chính quyền cách mạng một cách tự nguyện và một lòng đi theo chính quyền cách mạng. Tấm lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân của cụ Bùi Bằng Đoàn là một tấm gương sáng để chúng ta kính trọng và noi theo.

Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh cụ Bùi Bằng Đoàn là dịp để chúng ta ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và tôn vinh công lao, cống hiến to lớn của Cụ đối với đất nước; qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào, tự tôn đất nước và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực học tập, lao động, công tác và chiến đấu góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.

Noi gương cụ Bùi Bằng Đoàn, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nỗ lực phấn đấu, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG

Video liên quan

Chủ Đề