Trợt là các vùng da bị tổn thương do mất một phần hoặc toàn bộ lớp thượng bì. Trợt có thể do chấn thương hoặc có thể xảy ra trong các bệnh viêm hoặc nhiễm trùng da khác nhau. Vết xước là một vết trợt thành dải do gãi, chà xát hoặc xé.
Các chấm xuất huyết là những điểm xuất huyết ấn kính không mất màu Các chấm xuất huyết là những điểm xuất huyết ấn kính không mất màu Các nguyên nhân bao gồm các bất thường tiểu cầu [ví dụ như giảm tiểu cầu, rối loạn chức năng tiểu cầu Tổng quan về rối loạn tiểu cầu Tiểu cầu là những mảnh tế bào trong hệ tuần hoàn có chức năng trong hệ đông máu. Thrombopoietin giúp kiểm soát số lượng tiểu cầu lưu hành bằng cách kích thích tủy xương để sản sinh mẫu tiểu... đọc thêm
Ban xuất huyết là một vùng xuất huyết lớn có thể sờ thấy. Ban xuất huyết có thể sờ thấy được coi là dấu hiệu vàng của viêm mạch máu có mảnh vỡ bạch cầu. Xuất huyết có thể là chỉ điểm một bệnh lý rối loạn đông máu Xuất huyết có thể là chỉ điểm một bệnh lý rối loạn đông máu Xuất huyết lớn có thể được gọi là vết bầm máu hoặc vết thâm tím.
Giãn mao mạch là giãn các mao mạch nhỏ vĩnh viễn, do ánh nắng mặt trời, trứng cá đỏ Trứng cá đỏ Trứng cá đỏ là một bệnh lý viêm mạn tính có đặc điểm là nóng bừng mặt, giãn mạch, ban đỏ, sẩn, mụn mủ và trong trường hợp nặng là triệu chứng mũi sư tử. Chẩn đoán dựa trên đặc điểm xuất hiện... đọc thêm
Cấu hình là hình dạng của các tổn thương đơn độc và sự sắp xếp của nhiều tổn thương.
Tổn thương dạng lưới có dạng mạng lưới. Các ví dụ bao gồm nổi vân tím ỏ da và lưới livedo.
Một số tổn thương da có hình ảnh hoặc có thể sờ thấy được gợi ý chẩn đoán.
Tổn thương dạng lichen là sự dày lên của da với sự hằn lên của các dấu hiệu da bình thường; nó là kết quả của việc gãi hoặc xát nhiều lần.
Tổn thương trung tâm có lõm giữa và thường do nhiễm virut. Những ví dụ bao gồm u mềm lây U mềm lây U mềm lây có đặc trưng là các sẩn tròn, màu hồng, mịn, nhẵn bóng, tập trung thành đám, hoặc sẩn giống ngọc trai và lõm giữa có đường kính từ 2 đến 5 mm do virut molluscum gây nên, một loại virut... đọc thêm
U vàng có màu vàng, tổn thương dạng sáp, có thể tự phát hoặc có thể xảy ra ở những bệnh nhân có rối loạn lipid.
Điều quan trọng cần lưu ý là
- Có một hay nhiều tổn thương.
- Bộ phận đặc trưng của cơ thể bị ảnh hưởng [ví dụ như lòng bàn tay, da đầu, niêm mạc].
- Phân bố là ngẫu nhiên hoặc có khuôn mẫu, đối xứng hoặc không đối xứng.
- Các tổn thương ở trên vùng da tiếp xúc với ánh nắng hoặc da được bảo vệ.
Mặc dù vài mô hình là đặc trưng, một số phù hợp với một số bệnh nhất định.
Lichen phẳng Lichen Phẳng Planen planus là một phản ứng viêm tái phát, ngứa, đặc trưng bởi các sẩn nhỏ, rải rác, đa giác, đỉnh phẳng, có thể kết hợp thành các mảng vẩy thô, thường kèm theo tổn thương ở miệng và/hoặc... đọc thêm
Khi kiểm tra màu da, các chuyên gia chăm sóc sức khỏe cần lưu ý rằng màu da tự nhiên của bệnh nhân có thể thay đổi biểu hiện về màu sắc.
Da đỏ [ban đỏ] có thể là kết quả của nhiều bệnh viêm hoặc nhiễm trùng khác nhau. Các khối u da thường có màu hồng hoặc đỏ. Các tổn thương mạch máu nông chẳng hạn như bớt rượu vang có thể có màu đỏ.
Da màu cam thường thấy ở chứng tăng caroten trong máu, đây là tình trạng lành tính của lắng đọng carotene khi ăn quá nhiều beta carotene.
Da màu tím có thể là kết quả của xuất huyết dưới da hoặc viêm mạch Tổng quan về viêm mạch Viêm mạch là bệnh lý viêm các mạch máu, thường dẫn tới thiếu máu, hoại tử và tổn thương viêm ở các cơ quan. Viêm mạch có thể xuất hiện ở bất kỳ mạch máu nào - các động mạch, tiểu động mạch,... đọc thêm
Màu xanh, bạc và màu xám có thể là kết quả của sự lắng đọng của thuốc hoặc kim loại trong da, bao gồm minocycline, amiodarone, và bạc [argyria]. Da khi thiếu máu xuất hiện màu tím hoặc xám. Nevi trung bì sâu có màu xanh.
Da đen tổn thương có thể từ tế bào hắc tố, bao gồm nevi và u hắc tố Ung thư hắc tố U hắc tố ác tính phát sinh từ các tế bào hắc tố trong một vùng sắc tố [ví dụ: da, niêm mạc, mắt hoặc hệ thần kinh trung ương]. Di căn liên quan đến độ sâu của sự xâm nhập trong trung bì. Với... đọc thêm
Chứng da vẽ nổi [vẽ da nổi] là sự xuất hiện của sẩn phù mày đay sau khi tì đè tại chỗ [ví dụ, vuốt hoặc cào vào da] ở những vùng bị tì đè. Có đến 5% bệnh nhân bình thường có thể biểu hiện dấu hiệu này, đây là một dạng của mày đay vật lý.