Chính sách đối ngoại của Nhật Bản 1952 1973

Mục 2

2. Khoa học – kĩ thuật

- Rất coi trọng giáo dục và khoa học- kỹ thuật, luôn tìm cách đẩy nhanh sự phát triển bằng cách mua bằng phát minh sáng chế.

- Khoa học - kĩ thuật và công nghệ Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất ứng dụng dân dụng, đạt được nhiều thành tựu lớn.

- Ngoài các sản phẩm dân dụng nổi tiếng thế giới [như tivi, tủ lạnh, ôtô,...] Nhật Bản còn đóng tàu chở dầu có trọng tải 1 triệu tấn; xây dựng các công trình thế kỉ như đường ngầm dưới biển dài 53,8 km nối hai đảo Hônsu và Hốccaiđô, cầu đường bộ dài 9,4 km nối hai đảo Hônsu và Sicôcư.

Cầu Seto Ohasi nối hai đảo Hôn-su và Si-cô-cư

* Nguyên nhân phát triển của Nhật Bản:

1. Ở Nhật Bản, con người được coi là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định hàng đầu;

2. Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của Nhà nước;

3. Các công ti Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm lực và sức cạnh tranh cao;

4. Nhật Bản biết áp dụng các thành tựu khoa học-kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm;

5. Chi phí cho quốc phòng của Nhật Bản thấp [không vượt quá 1% GDP], nên có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho kinh tế;

6. Nhật Bản đã tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển, như nguồn viện trợ Mĩ, các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên [1950-1953] và Việt Nam [1954-1975] để làm giàu,...

* Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản vẫn có những hạn chế và gặp phải nhiều khó khăn:

1. Lãnh thổ Nhật Bản không rộng, tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn, nền công nghiệp của Nhật Bản hầu như phụ thuộc vào các nguồn nguyên, nhiên liệu nhập khẩu từ bên ngoài;

2. Cơ cấu cùng kinh tế của Nhật Bản thiếu cân đối, tập trung chủ yếu vào ba trung tâm là Tôkiô, Ôxaca và Nagôia, giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng có sự mất cân đối;

3. Nhật Bản luôn gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Mĩ, Tây Âu, các nước công nghiệp mới, Trung Quốc ...

Mục 5

5. Mở rộng: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ sự phát triển kinh tế của Nhật Bản

- Nếu như đối với sự phát triển kinh tế của Mĩ thì khoa học - kĩ thuật là nguyên nhân quan trọng nhất vì Mĩ là quốc gia đi đầu trong cuộc cách mạng Khoa học - kĩ thuật lần thứ hai, đạt nhiều thành tựu nổi bật.

- Tuy nhiên, đối với Nhật Bản lại khác, một đất nước thất bại trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, phải gánh chịu hậu quả nặng nề; tài nguyên thiên nhiên lại nghèo nàn, cơ cấu kinh tế chưa cân đối và sự canh tranh quyết liệt của các nước tư bản.

=> Chính vì thế, sức mạnh của con người Nhật Bản đóng vai trò quan trọng nhất dẫn tới sự phát triển thần kì của đất nước này ở giai đoạn 1960 - 1973.

- Do đó các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam có thể vận dụng bài học này, tập trung đầu tư phát triển giáo dục con người, áp dụng thành tựu khoa học - kĩ thuật của thế giới, coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu để tạo ra nguồn lực vững chắc cho công cuộc đổi mới hiện nay.

1. Từ năm 1947 đến năm 1952

– Nhật Bản chủ trương liên minh chặt chẽ với Mĩ bằng việc kí hai hiệp ước: Hiệp ước hòa bình Xan Phranxixcô và Hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật [tháng 9 – 1951].

– Theo các hiệp ước đó, Nhật Bản chấp nhận đứng dưới “chiếc ô” bảo hộ hạt nhân của Mĩ, để cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản.

2. Từ năm 1952 đến năm 1973

– Nhật Bản tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mĩ [Hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật được kéo dài vĩnh viễn]. Năm 1956, Nhật Bản đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô và tham gia Liên hợp quốc.

– Tuy vậy, phong trào nhân dân Nhật Bản chống Hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật lên cao, phong trào chống chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam và các cuộc đấu tranh theo mùa… luôn diễn ra mạnh mẽ.

3. Từ năm 1973 đến năm 1989

– Với tiềm lực kinh tế tài chính ngày càng lớn mạnh, Nhật Bản bắt đầu đưa ra chính sách đối ngoại mới, thể hiện qua các học thuyết Phucưđa và Kaiphu.

– Các học thuyết đó có nội dung tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN. Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam tháng 9 – 1973.

Trang chủ

Sách ID

Khóa học miễn phí

Luyện thi ĐGNL và ĐH 2023

Nền tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản giai đoạn 1952 – 1973 là


A.

Quan hệ chặt chẽ với các nước Đông Nam Á

B.

Liên minh chặt chẽ với Mỹ

C.

Hơp tác chặt chẽ với Trung Quốc

D.

Liên minh chặt chẽ với các nước Tây Âu

Bằng cách đăng ký, bạn đồng ý với Điều khoản sử dụng và Chính sách Bảo mật của chúng tôi.

Video liên quan

Chủ Đề