Chó chê mèo lắm lông nghĩa là gì năm 2024

Mèo vốn là con vật nuôi quen thuộc của nhiều gia đình người Việt Nam, là người bạn thân thiết của con người, mèo còn là con vật đóng góp rất nhiều trong kho tàng văn học Việt Nam bằng ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Từ xa xưa, hình ảnh của mèo với sự nhẹ nhàng, thanh lịch, tế nhị, cái nết ngoan hiền, ăn uống nhỏ nhẹ từ tốn được ví với sự hiền thục của người phụ nữ “Nam thực như hổ, nữ thực như miu” (phụ nữ ăn như mèo). Trong các mối quan hệ giữa con người với con người, sự khiêm nhường là điều vốn quý, bởi trong cuộc sống hay công việc chưa biết “Mèo nào cắn mèo nào”, mà đã lên mặt dạy đời người khác. Câu này dụng ý muốn nói sống trên đời chưa biết ai hơn ai, vì vậy không nên coi thường người khác bởi biết đâu họ hơn mình. Mèo có công bắt chuột, bảo vệ mùa màng, vả lại chuột là món ăn khoái khẩu của mèo, điều này thì ai cũng biết. Vậy mà khi bắt được chuột thì lại tỏ ra thái độ xót thương: “Mèo khóc chuột” thì thật là trớ trêu.

Nếu nói mèo là con vật siêng năng hay lười biếng cũng đúng. Siêng năng thể hiện ở chỗ “Rình như mèo rình chuột”, còn lười biếng là ngủ suốt ngày nên bị coi là hiện thân của sự lười nhác, “Làm như mèo mửa” hay “Mèo nằm xó bếp” cũng vậy. Câu thành ngữ: “Ăn nhạt mới biết thương mèo” là chỉ những người trong cùng cảnh ngộ họ mới biết thương yêu nhau. Với những kẻ tham lam thấy món hời về tiền bạc có khác gì “Như mèo thấy mỡ”. Trong đời có những người làm việc lâu năm trở thành ma mãnh như: “Mèo già hóa cáo”, nhưng cũng có người thì “Mèo già thua gan chuột nhắt”. Những kẻ hay hợm mình, hay khoe khoang thường hay quen thói “Mèo khen mèo dài đuôi”, mà thực ra họ chẳng có tài cán gì. Lại có những người thích chê bai người khác mà không nghĩ đến bản thân mình: “Chó chê mèo lắm lông”, trong khi chó lại nhiều lông hơn mèo. Có người rộng lượng thì cũng có kẻ bủn xỉn “Buộc cổ mèo, treo cổ chó”. Có người thông minh tài trí thì cũng có kẻ đần độn, ngu si, như “Chó khô, mèo lạc”, “Chó gio, mèo mù“. Có người sống trung thực thật thà thì cũng có kẻ ưa xỏ xiên, xỏ lá “chửi chó mắng mèo”, để rồi sinh ra cảnh “Đá mèo, quèo chó”. Người thì minh bạch công khai, kẻ thì kiếm được chỗ béo bở mà vẫn cố giấu thì được gọi là: “Giấu như mèo giấu cứt”. Có người cẩn trọng, có kẻ liều lĩnh dám làm như: “Chuột gặm chân mèo”. Dân gian muốn ám chỉ những kẻ vô lại gặp nhau thì dùng những câu như: “Mèo hoang lại gặp chó hoang/ Anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai” hay “Mèo lành ở mả, gái lành chẳng ở hàng cơm”. Xa hơn nữa, nhằm ám chỉ những người đàn bà bị chồng chê, chồng bỏ vì hư đốn, nhưng lại khoa trương nọ kia thì dân gian có câu: “Mèo làm ai nỡ cắt tai/ Gái kia chồng bỏ khoe tài làm chi?”. Để nói về hạng người vô lại gặp nhau dân gian có câu: “Mèo mả, gà đồng”. Để ám chỉ các quan lớn thời xưa tham ô của dân tiền bạc nhiều vô kể thì không bị trừng trị, nhưng người dân chỉ ăn trộm quả trứng, con gà thì bị trừng trị nặng “Hùm tha trâu mộng chẳng sao/ Mèo tha con cá đánh trào cá ra”, thật là khổ cho người dân.

Phải khẳng định rằng, mèo là con vật rất gần gũi với con người, tuy nhiên, bên cạnh vẻ đáng yêu, dễ thương thì mèo cũng có một vài “tật xấu”. Tuy vậy mèo vẫn được con người yêu thương, chiều chuộng, từ đó, lối sống của mèo theo năm tháng đã đi vào cuộc sống và kinh nghiệm trong dân gian và đã biến thành những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, những lời ru từ thuở lọt lòng và cả những câu chuyện cổ tích mang tính trào lộng, đầy thú vị.

Mèo trong thành ngữ

MÈO TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT NAM

HỒNG LAM SƠN

Sóc Trăng

+ Mèo lại hoàn mèo: Bản chất thế nào thì vẫn thế ấy, khó thay đổi.

+ Mỡ để miệng mèo: Mất cảnh giác, để hớ hênh thì dễ bị mất.

+ Con mèo con mẻo con meo, muốn ăn thịt chuột phải leo xà nhà : Câu nói đùa tỏ ý muốn ăn thì phải làm.

+ Con mèo xán vỡ nồi rang, con chó chạy lại mà mang lấy đòn: Gặp cảnh oan uổng, tình ngay lý gian.

+ Mèo đàng chó điếm: Chỉ những kẻ vô lại, lưu manh, bịp bợm.

+ Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì giàu: Lời nói dị đoan không có căn cứ gì.

+ Mèo già hóa cáo: Chỉ những kẻ lâu ngày thoái hóa trở nên xảo quyệt quỷ quái.

+ Mèo hoang lại gặp chó hoang: Chỉ những kẻ vô lại gặp nhau trong cùng một việc xấu.

+ Mèo khen mèo dài đuôi: Chỉ những kẻ chủ quan, tự mãn tự đề cao mình.

+ Mèo lành ai nỡ cắt tai: Ý nói người tốt thì chẳng ai chê trách ghét bỏ.

+ Mèo mả gà đồng: Chỉ những loại người vô giáo dục.

+ Mèo mù vớ cá rán: Nói người không có tài nhưng gặp may đặc biệt bất ngờ

+ Mèo nhỏ bắt chuột con: Ý nói làm việc vừa sức, hợp khả năng.

+ Mèo tha miếng thịt xôn xao, kễnh tha con lợn thì nào thấy chi: Ý nói chỉ dám bắt nạt kẻ yếu, còn kẻ mạnh thì làm gì cũng phải chịu.

+ Mèo vật đống rơm: Chê những người sức hèn mà lại định làm những việc lớn.

+ Mèo nằm xó bếp: Chỉ kẻ lười biến.

+ Như mèo thấy mỡ: Ý nói rất thèm muốn khát khao.

+ Rình như mèo rình chuột: Ngồi rình một cách kiên nhẫn, chăm chú.

+ Chuột gặm chân mèo: Chỉ hành động liều lĩnh, dại dột, đầy nguy hiểm.

+ Chó chê mèo lắm lông: Ý nói mình cũng xấu kém lại chê người khác xấu kém.

+ Mèo nhỏ bắt chuột to: Làm việc vượt khả năng, quá sức mình.

+ Ăn ở như chó với mèo: Ý nói hay mâu thuẫn xích mích không hòa thuận.

+ Biết mèo nào cắn mỉu nào: Chưa biết ai thắng ai.

+ Giấu như mèo giấu cứt: Hay giấu giếm, tìm mọi cách để giấu giếm .

+ Mèo cào không xé vách vôi: Ý nói không thấm vào đâu, không ăn thua gì.

+ Mèo già khóc chuột: Chỉ kẻ đạo đức giả.

+ Mèo nào chẳng ăn vụng mỡ: Chỉ thói đời tham lợi lộc.

+ Mèo ra cửa, chuột xướng ca: Ý nói không người cai quản dễ làm bậy.

H.L.S

Chó chê mèo lắm lông có ý nghĩa gì?

+ Chó chê mèo lắm lông: Ý nói mình cũng xấu kém lại chê người khác xấu kém.

Chó chê mèo dài đuôi là gì?

Mèo khen mèo dài đuôi: Mỉa mai những kẻ tự đề cao mình dù bản thân chẳng tài cán gì. Chó chê mèo lắm lông: Phê phán người khác mà không nhận ra mình cũng đầy lỗi lầm. Mèo già hóa cáo: Nói những người mới đầu làm việc gì thì rụt rè nhút nhát, nhưng lâu năm thì tinh ma ranh mãnh.

Như mèo thấy mỡ là gì?

Như mèo thấy mỡ: Giễu người tỏ vẻ hăm hở trước thứ gì mình thèm muốn.