Chủ trương chính của Đảng Quốc xã là gì

Ý không phản ánh đúng chủ trương của người đứng đầu Đảng Quốc xã là


Câu 73327 Thông hiểu

Ý không phản ánh đúng chủ trương của người đứng đầu Đảng Quốc xã là


Đáp án đúng: d


Phương pháp giải

Xem lại quá trình Đảng Quốc xã lên cầm quyền

Nước Đức giữa hai cuộc chiến tranh thế giới [1918 – 1939] --- Xem chi tiết

...

    Đức Quốc Xã, còn được gọi là Đệ tam Đế quốc hay Đế quốc thứ ba, là nước Đức trong giai đoạn 1933-1945 dưới chế độ của Đảng Công Nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa [ tiếng Đức: Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, gọi tắt Nazi], tiếng Việt gọi tắt theo cách tương tự là Đảng Quốc xã, với Lãnh tụ Adof Hitler.

    Trong 12 năm cầm quyền, Đức Quốc xã đã đưa quân đội chiếm đóng khắp lục địa châu Âu [trừ Thụy Sĩ, Liechtenstein, Thụy Điển, Bồ Đào Nha và vùng đất gần dãy núi Ural]. Trong việc này, Đức Quốc xã tính sẽ tạo ra một Nhà nước Đại Đức với Berlin [đổi tên thành Germania] làm thủ đô, và hợp nhất tất cả những người có gốc Đức chính cống. Chính sách này đã dẫn đến cái chết của 11 triệu người trong các dân tộc thiểu số và các nhóm bị xã hội ruồng bỏ, cũng như làm chết hàng chục triệu người trực tiếp hay gián tiếp vì các trận đánh.

    Bước khởi đầu của Đức Quốc Xã gắn liền với bước đi lên của Hitler, và qua đó là sự hình thành của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa tức Đảng Quốc xã.

   

Sau khi trở về từ Thế chiến I, do tình cờ một ngày tháng 9 năm 1919, Hitler được mời gia nhập Đảng Lao động Đức. Lúc ấy, đảng này có không đến 100 đảng viên. Hitler trở thành Ủy viên Trung ương thứ bảy của Đảng Lao động Đức.

    Đầu năm 1920, Hitler nắm nhiệm vụ tuyên truyền cho đảng. Trong đại hội đảng ngày 24 tháng 2 năm 1920, lần đầu tiên Hitler công bố Cương lĩnh Đảng Quốc xã gồm 25 điểm. Những điểm quan trọng nhất sẽ được Đức Quốc xã mang ra thi hành khi đang nắm chính quyền 13 năm sau. Bốn điểm quan trọng là: xóa bỏ các Hòa ước Versailles và Hòa ước Saint-Germain, thiết lập một quyền lực trung ương mạnh cho Nhà nước, hợp nhất mọi người Đức trong một nước Đức mở rộng, và chủ trương bài Do Thái.

    Đây đúng là những việc mà Hitler thực hiện một cách nghiêm túc khi lên nắm chính quyền sau này cho đến cuối đời ông. Một trong những điều bất hạnh cho thế giới là có quá nhiều người trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến đã bỏ qua hoặc chế giễu mục đích này của Quốc xã mà Hitler đã cất công ghi trên giấy trắng mực đen.

    Vào mùa hè 1920, Hitler thêm cụm từ "Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa" vào cái tên "Đảng Công nhân Đức" để trở thành đảng có tên viết tắt là NSDAP.

    Đến mùa hè 1921, Hitler nắm quyền lãnh đạo độc tôn của đảng. Tháng 7 năm 1921, "nguyên tắc lãnh đạo" được thiết lập, trở thành điều luật trước nhất cho Đảng Quốc xã và sau đấy cho Đế quốc thứ ba.



    Sau khi ra khỏi tù, nhờ tài tổ chức, Hitler lao vào công việc tái lập Đảng Quốc xã và biến nó thành một tổ chức mà Đức chưa hề thấy từ trước đến giờ. Ông có ý đồ tổ chức đảng như là một quân đội – một nhà nước trong một nhà nước. Vào cuối năm 1925, Quốc xã chỉ có 27.000 đảng viên. Đảng phát triển một cách chậm chạp, nhưng mỗi năm đều có tiến bộ: 49.000 đảng viên năm 1926; 72.000 năm 1927; 108.000 năm 1928; 178.000 năm 1929. Binh sĩ SA được tổ chức lại thành một lực lượng vũ trang gồm vài trăm nghìn người để bảo vệ buổi họp của Quốc xã, giải tán buổi họp của đối thủ và nói chung khủng bố người chống lại Quốc xã.

    Để được sự hỗ trợ đáng tin cậy hơn, Hitler thành lập lực lượng SS – Schutzstaffel còn gọi là "Quân Áo đen" – và buộc họ phải cất lời thề trung thành với chính cá nhân ông. Lúc đầu, lực lượng SS chỉ là những cận vệ cho Hitler. Đến năm 1929, Hitler tìm ra được người lãnh đạo lý tưởng của SS: Heinrich Himmler. Dần dà, Himmler nắm quyền sinh sát trên toàn nước Đức và phần lớn Châu Âu.

    Sau khi tướng Kurt von Schleicher thất bại trong việc lập chính phủ cộng với áp lực của cựu thủ tướng Franz von Papen, ngày 30 tháng 1 năm 1933, Tổng thống Paul von Hindenburg bổ nhiệm Hitler làm thủ tướng. Tuy đảng Đức quốc xã được số phiếu cao nhất trong cuộc bầu cử Reichstag [Nghị viện] năm 1932, họ vẫn không đủ phiếu để thành phe đa số trong nghị viện. Nội các Hitler chỉ có hai đảng Quốc xã và Quốc gia, cả hai chỉ chiếm 247 ghế trong tổng số 583 ghế Nghị viện. Để đạt đa số, họ cần sự hậu thuẫn của Đảng Trung dung Đức với 70 ghế. Vì thế, Hitler đề xuất Tổng thống giải tán Nghị viện và quy định kỳ tổng tuyển cử mới, được ấn định vào ngày 5 tháng 3 năm 1933.

  • Hitler làm Lãnh tụ Đức Quốc xã:

    Ngày 2 tháng 8 năm 1934, Tổng thống Hindenburg qua đời, hưởng thọ 87 tuổi. Vào giữa trưa, có thông báo là theo một luật mới do nội các ban hành ngày hôm trước, hai chức vụ Thủ tướng [Reichskanzler] và Tổng thống [Reichspräsident] được nhập lại làm một, và Adolf Hitler đã nhậm chức lãnh đạo đất nước kiêm Tư lệnh Tối cao Quân lực. Chức vụ Tổng thống bị bãi bỏ; Hitler chính thức là Lãnh tụ và Thủ tướng Đế quốc [Führer und Reichskanzler].

    Hitler tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về việc Hitler đảm nhận chức Tổng thống ngày 19 tháng 8 năm 1934. khoảng 95% cử tri Đức đi bỏ phiếu; 90% tức hơn 38 triệu người chấp thuận cho Hitler chiếm mọi quyền lực. Chỉ có 4 triệu rưỡi người Đức có can đảm – hoặc có ước nguyện – nói "Không".

    Trong Đại hội Đảng Quốc xã nhóm họp ở Nürnberg ngày 5 tháng 9, Thị trưởng Bayern đọc lời tuyên cáo của Lãnh tụ:

    Vận mệnh mới của dân tộc Đức được xác định chắc chắn trong 1.000 năm tới... Sẽ không cần có cuộc cách mạng nào khác ở Đức trong 1.000 năm nữa!

    Nói chung, đại đa số người Đức dường như không cảm thấy phiền hà khi bị tước mất quyền tự do, khi nhiều nét văn hóa bị hủy hoại và được chế độ tàn bạo thay thế, hoặc khi cuộc đời và công việc của họ bị uốn nắn vào nề nếp đến mức chặt chẽ chưa từng có. Sự khủng bố Quốc xã trong những năm đầu chỉ ảnh hưởng đến một số tương đối ít người. Người nước ngoài mới đến có phần ngạc nhiên thấy là người dân Đức dường như không cảm thấy rằng họ đang bị thị uy và đàn áp. Ngược lại, họ còn ủng hộ chế độ Đức Quốc xã này với lòng sốt sắng chân thực. Trong nhận thức của họ, chế độ đã đem lại cho họ niềm hy vọng mới, sự tự tin mới, lòng tin vào tương lai của đất nước họ.

    Dưới sự khuyến khích của Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Goebbels, Đức Quốc Xã cũng làm phim nói về nước Phổ năm xưa, các phim này thương có nội dung nói đến vua Friedrich Wilhelm I và con trai của ông là vị vua kiệt xuất Friedrich II Đại Đế, hoặc về cuộc tranh đấu kiên cường của danh tướng August Neidhardt von Gneisenau chống quân xâm lược Pháp của Napoléon. Chẳng hạn như các bộ phim "Der alte und der junge König" [1935], "Der Grosse König" [1942] và Kolberg [1945].

    Thời đó, có truyền đơn nổi tiếng của nước Đức cho thấy Hitler là chính khách mới nhất trong một loạt các chính khách xuất sắc của nước Đức, sau vua Friedrich II Đại Đế, Thủ tướng Otto von Bismarck và Tổng thống Paul von Hindenburg. Thực chất, chế độ độc tài Đức Quốc Xã của ông ta không hề là sự nối tiếp của truyền thống Phổ xưa. Những người lên nắm quyền thường phải tự bảo mình là "con cháu người xưa" để có được quyền thống trị hợp pháp. Sử học của Đảng Quốc Xã về lịch sử vinh quang của nước Phổ cũng thường chọn lựa tình tiết mà viết, và viết không đến nơi đến chốn, móp méo.

  • Cuộc tự hủy hoại không thành:
    K

hi Quân đội Đồng Minh đang áp sát đến thủ đô Berlin, Quốc trưởng Hitler đã đưa ra một trong những quyết định quan trọng cuối cùng trong đời. Ngày 19 tháng 3 năm 1945, ông ra lệnh phá hủy tất cả các cơ sở quân sự, công nghiệp, giao thông và viễn thông cùng toàn bộ các cửa hàng trên đất Đức để tránh rơi vào tay quân địch.

    Bộ trưởng Khí tài và Vũ trang Albert Speer đã tiên liệu về một chỉ thị tàn bạo như thế từ những cuộc họp trước đây với Hitler nên ông đã soạn một bản ghi nhớ hùng hồn để chống lại hành động này và lặp lại biện luận của ông là nước Đức đã thua trận. Chính ông đã trình bản ghi nhớ này cho Hitler vào ngày 18 tháng 3. Trong đó, Speer viết:

"Có thể chắc chắn là chỉ trong vòng 4 đến 8 tuần, kết cuộc nền kinh tế sẽ sụp đổ... Sau sự sụp đổ này, không thể tiếp tục cuộc chiến dù bằng cách thức quân sự... Chúng ta phải làm mọi cách để duy trì sự tồn tại của đất nước cho đến người cuối cùng, dù bằng biện pháp sơ khai nhất... Vào giai đoạn này của cuộc chiến, chúng ta không có quyền tiến hành sự phá hủy vốn có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Nếu kẻ thù của chúng ta muốn hủy diệt đất nước này, đất nước đã chiến đấu một cách anh dũng, một mình họ sẽ phải chịu ô nhục với lịch sử. Chúng ta có bổn phận phải để lại cho đất nước tất cả khả năng có thể để tái thiết trong tương lai xa...".
    Nhưng với số phận cá nhân đã bị khép lại, Hitler không quan tâm đến sự tồn tại của dân tộc Đức mà ông đã luôn bày tỏ tình yêu thương bất tận. Ông nói với Speer: “Nếu ta thất trận, đất nước cũng sẽ tàn lụi. Số phận như thế là không thể tránh khỏi. Không cần xem xét điều kiện cơ bản mà người dân sẽ cần đến để tiếp tục cuộc sống sơ khai. Ngược lại, tốt hơn là tự ta nên tiêu hủy những thứ ấy bởi vì đất nước này đã biểu hiện là phía yếu hơn và tương lại sẽ tùy thuộc vào đất nước miền đông mạnh hơn [Liên Xô]. Hơn nữa, những người sống sót sau trận chiến chỉ là những người hạ đẳng, vì những người tốt đã chết."
   
    Ngày hôm sau, Hitler ra chỉ thị nổi tiếng về "vườn không nhà trống". Tiếp theo là mệnh lệnh được ban hành vào ngày 23 tháng 3 bởi Martin Bormann, bí thư của Hitler. Speer mô tả sự kiện này trước Tòa án Nürnberg:    Lệnh của Bormann nhắm đến việc mang người dân cùng công nhân và tù binh người nước ngoài từ hai miền Đông và Tây vào vùng trung tâm của Đế quốc. Hàng triệu người này sẽ phải đi bộ. Xét qua tình hình hiện tại, không thể cung cấp thứ gì cho họ sinh tồn... Việc này có thể dẫn đến thảm họa đói kém không tể tưởng tượng nổi.

    Nếu tất cả mệnh lệnh khác của Hitler và Bormann được mang ra thi hành, hàng triệu người Đức có thể chết. Speer cố tóm tắt trước Tòa án Nürnberg các mệnh lệnh "vườn không nhà trống" khác nhau. Ông nói, phải phá hủy tất cả nhà máy công nghiệp, tất cả cơ sở điện quan trọng, nhà máy nước, nhà máy cung cấp khí đốt, các cửa hàng thực phẩm và cửa hàng quần áo; tất cả các cây cầu, tất cả cơ sở đường sắt và thông tin, tất cả kênh đào, tất cả tàu thuyền, tất cả toa tàu chở hàng hóa và tất cả đầu máy xe lửa.

    Người dân Đức tránh khỏi thảm họa cuối cùng này được là do những nỗ lực phi thường của Speer và một số sĩ quan Quân đội [cuối cùng] đã chống lệnh Hitler. Họ đã tỏa ra khắp nước Đức để đảm bảo các sĩ quan quân đội và đảng viên phục tòng một cách cuồng tín không thực thi phá hủy những cơ sở ấy. Một phần cũng nhờ sự tiến quân thần tốc của lực lượng Đồng Minh khiến cho công tác phá hủy trên diện rộng như thế là bất khả thi.

    Hitler đã định rời Berlin vào ngày 20 tháng 4 năm 1945, sinh nhật thứ 56 của ông, để đi Obersalzberg và chỉ đạo cuộc chiến từ nơi này. Phần lớn nhân viên các bộ đã di tản về phía nam trên những xe tải chất đầy tài liệu, nhiều quan chức khác cũng hối hả tìm cách rời Berlin.

    Tuy nhiên, hồi kết đến nhanh hơn là Hitler dự tính. Hồng quân Liên Xô và quân Mỹ đang tiến nhanh đến một giao lộ bên bờ sông Elbe. Liên quân Anh - Canada đang đến sát Hamburg và Bremen, chuẩn bị tách rời nước Đức khỏi Đan Mạch. Ở Ý, quân Đồng Minh đã chiếm Bologna và đang tiến đến thung lũng Po. Sau khi chiếm được Viên ngày 13 tháng 4, Hồng quân Liên Xô tiến lên sông Donau, còn Đại đoàn thứ Ba của Mỹ đang tiến xuống dọc con sông này để bắt tay với họ tại sinh quán Linz của Hitler.


    Trong "Tuyên cáo Chính trị" trước khi tự sát, Hitler tuyên bố: “Trước khi tôi chết, tôi trục xuất cựu Thống chế Đế quốc Hermann Göring ra khỏi đảng và rút lại mọi quyền hành đã trao cho ông ấy qua nghị định ngày 20 tháng 6 năm 1941... Thay cho chức vụ của ông ta, tôi bổ nhiệm Thủy sư Đô đốc Dönitz làm Tổng thống Đế quốc và Tư lệnh Tối cao của Quân lực.Trước khi tôi chết, tôi trục xuất cựu Lãnh tụ SS và Bộ trưởng Nội vụ Heinrich Himmler ra khỏi đảng và ra khỏi tất cả chức vụ nhà nước."
   

Hitler cũng chỉ thị cho Karl Dönitz bổ nhiệm Joseph Göbbels làm Thủ tướng, Martin Bormann là "Bộ trưởng Đảng" [chức vụ mới], Arthur Seyss-Inquart làm Bộ trưởng Ngoại giao, Bá tước Schwerin von Krosigk, Bộ trưởng Tài chính liên tục từ khi được Franz von Papen bổ nhiệm năm 1932, tiếp tục giữ chức vụ này.

    Chiều ngày 30 tháng 4, sau khi nói xong những lời vĩnh biệt, Hitler và vợ là Eva Braun mới làm lễ cưới trở về phòng riêng. Ở hành lang bên ngoài, Göbbels, Bormann cùng vài người khác chờ đợi. Ít lâu sau, họ nghe một tiếng súng nổ. Họ chờ nghe tiếng súng thứ hai, nhưng tất cả đều yên lặng. Sau một lúc, họ nhè nhẹ bước vào phòng. Họ thấy thi thể của Adolf Hitler ngã dài trên băng ghế dài, đang rỉ máu. Ông đã tự bắn vào miệng. Eva Braun nằm bên ông. Hai khẩu súng lục nằm trên sàn, bà vợ đã không dùng súng, bà tự sát bằng thuốc độc.

    Lúc bấy giờ là 3 giờ rưỡi chiều ngày thứ hai, 30 tháng 4 năm 1945, mười ngày sau sinh nhật thứ 56 của Hitler, mười hai năm ba tháng sau ngày ông trở thành Thủ tướng của Đức Quốc xã và thiết lập Đế quốc thứ ba. Đế quốc này chỉ sống thọ hơn ông có một tuần.

    

Ngày 4 tháng 5 đến ngày 8 tháng 5 năm 1945, các lực lượng quân đội Đức đầu hàng vô điều kiện chấm dứt cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu và với sự thành lập của Hội đồng quản lý Đồng Minh vào ngày 5 tháng 6 năm 1945, bốn cường quốc đã "nắm quyền tối cao đối với nước Đức".

    Phe Đồng Minh thắng trận ban đầu chia nước Đức thành những vùng chiếm đóng, tại Hội nghị Potsdam các biên giới của Đức bên trong vùng chiếm đóng của Liên Xô bị dời về phía tây, đa số được trao cho Ba Lan trong khi một nửa vùng Đông Phổ bị sáp nhập vào Liên Xô. Cuộc di cư của người Đức từ Đông Âu, được khởi động do hậu quả của Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, đã được hoàn thành vào cuối cuộc chiến khi hầu như toàn bộ người Đức ở Trung Âu đã sơ tán sang phía tây đường biên giới Oder-Neisse, có ảnh hưởng đến khoảng 10 triệu người Đức. Các vùng chiếm đóng của Pháp, Mỹ và Anh trở thành nước Cộng Hòa Liên Bang Đức - Tây Đức theo chính thể tư bản, trong khi vùng chiếm đóng của Liên Xô trở thành nước Cộng hòa Dân chủ Đức - Đông Đức theo chính thể cộng sản. Tây Đức hồi phục trong thập niên 1960, còn chế độ cộng sản Đông Đức thì bị sụp đổ sau một cuộc cách mạng vào năm 1990, thống nhất với Tây Đức trở thành nước Đức thống nhất theo chính thể tư bản.

    Sau chiến tranh, các lãnh đạo Đức Quốc Xã còn sống sót bị đem ra xử tại Tòa án Nürnberg về các tội ác chống hòa bình, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại. Chỉ một số nhỏ bị xử tử hình, đa số họ được thả vào giữa thập niên 1950 vì lý do sức khỏe và tuổi tác. Nhiều người vẫn tiếp tục sống tới tận thập niên 1970 và thập niên 1980. Tại tất cả các nước châu Âu không phát xít đều có các cuộc thanh trừng hợp pháp nhằm trừng phạt các thành viên Đức quốc xã cũ và các đảng phát xít. Một sự trừng phạt không được kiểm soát đã gây ra nhiều tổn thương cho con em các gia đình thành viên Đảng Quốc xã [trẻ em Nazi] và những trẻ em có bố là lính Đức tại các vùng bị chiếm đóng và những trẻ em sinh ra theo chương trình nguồn sống - lebensborn.


Video liên quan

Chủ Đề