Công năng đặc dị là gì năm 2024

  • Công năng đặc dị là gì năm 2024
  • Diễn đàn
  • Giải trí
  • Quán cóc vỉa hè

  1. Công năng đặc dị Theo nhà Phật, người chết mà để lại những phần không bị tiêu huỷ sau khi hỏa táng thì gọi là xá lợi như cái lưỡi của ngài Duy Ma Cật, một vị thuyết pháp thời Đức Phật, hay như quả tim của ngài Thích Quảng Đức (tự thiêu để phản đối chế độ Mỹ - ngụy). Theo truyền thuyết, Đức Phật sau khi tịch cũng để lại xá lợi là những viên ngọc ngũ sắc, ngay cả cho vào nhiệt độ rất cao cũng không thiêu huỷ được. Còn như ngài Như Trí là toàn thân xá lợi.

    Nếu là những bậc chân tu, sau khi luyện được tâm thanh tịnh thì họ đạt được ngũ thông hoặc lục thông (công năng đặc dị): "Thiên nhĩ thông" tai có thể nghe được âm thanh nhỏ hoặc từ rất xa; "Thiên nhãn thông" mắt cũng nhìn được xa và vật cực nhỏ (Trong Kinh có ghi Đức Phật "thấy" được ngoài trái đất còn có hằng hà sa số tinh tú, "thấy" được trong nước có bát vạn tứ thiên trùng: vi trùng, vi khuẩn); "Tha tâm thông" đọc được tâm địa người khác... Nhiều sách nhà Phật cũng đã ghi lại khả năng thần thông của nhiều thiền sư như Nguyện Minh Không, Từ Đạo Hạnh do tu luyện mà thành. Nhưng cái gốc của Phật giáo không phải là để đạt được ngũ thông, lục thông mà là để chuyển hóa cái tham, sân, si trong con người mình đến chỗ an nhiên thanh tịnh. Với nhà Phật thì việc tu hành là không có mục đích đạt đến và đối tượng đạt đến: dù mắt thấy sắc, mũi thấy mùi, tai nghe rõ... nhưng trong tâm không nảy sinh bất kỳ một ý niệm nào ưa thích hay ghét bỏ, phiền não. Nếu tu được đến mức độ như vậy thì thời gian quá khứ, hiện tại sẽ không còn ngăn cách nữa, và nhà tu hành có thể lưu và dung được trí tuệ quá khứ cũng như đoán định được tương lai.

Nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học Mỹ cho thấy khả năng dự đoán tương lai của con người là có thật.

Theo các nhà khoa học thuật siêu linh không chỉ là "trò chơi" của các ông thầy bói. Rất nhiều người trong số chúng ta cũng có khả năng siêu linh như vậy, tức là có thể "dự đoán tương lai." Để chứng minh cho kết luận của mình các nhà khoa học đã tiến hành 2 thí nghiệm. Thí nghiệm thứ nhất, các nhà khoa học yêu cầu các đối tượng ghi chép từ mới. Sau đó tiếp tục yêu cầu các đối tượng thí nghiệm bằng mọi cách có thể để hồi tưởng lại càng nhiều từ mới càng tốt.

Tiếp theo họ lựa chọn ngẫu nhiên một nhóm từ trong số những từ các đối tượng được yêu cầu ghi nhớ và in nhóm từ này ra. Kết quả cho thấy, một số đối tượng dễ dàng ghi nhớ nhóm từ, trong khi đó một số khác lại rất khó ghi nhớ. Điều gây ngạc nhiên là những từ các đối tượng thí nghiệm ghi nhớ đều là những từ nằm trong số các từ đã được in ra trong khi các đối tượng thí nghiệm không biết được trước số lượng từ được các nhà khoa học đã in. Điều này cho thấy sự kiện xảy ra trong tương lai (tức là các từ được in ra) đã ảnh hưởng đến khả năng ghi nhớ của các đối tượng thí nghiệm.

Tại thí nghiệm thứ 2, các nhà khoa học cho học sinh xem một bức ảnh trên màn hình máy tính. Trong bức ảnh có hai rèm cửa, một trong số hai rèm cửa có cất giấu một bức ảnh khiêu dâm. Kết quả thí nghiệm cho thấy có nhiều đối tượng lựa chọn rèm cửa có chứa ảnh khiêu dâm. Đây không thể giải thích một cách đơn giản là do sự "ngẫu nhiên."

Bởi bức ảnh khiêu dâm xuất hiện ở rèm cửa nào hoàn toàn là do sự sắp xếp ngẫu nhiên của máy tính, hơn nữa sự lựa chọn này xuất hiện sau khi các đối tượng thí nghiệm đã thực hiện sự lựa chọn của mình. Trong số những người tin tưởng vào sức mạnh siêu nhiên, những học sinh này trên thực tế đã ảnh hưởng đến sự kiện phát sinh trong tương lai.

Các kết quả thí nghiệm cho thấy chúng ta không thể giải thích một cách đơn giản các hiện tượng trên thuộc về "sự ngẫu nhiên thuần túy." Giới khoa học cần phải giải phóng tư tưởng và có thái độ mở đối với khả năng tồn tại của sức mạnh siêu nhiên.

(sưu tầm)

-
  1. Công năng đặc dị là gì năm 2024

    Về tâm linh: “Nếu chưa biết, xin đừng phủ nhận”

Một chiếc lá cây khi sống tạo ra một trường sinh học quanh nó, khi mất đi trường sinh học đó vẫn được bảo tồn. Với con người, điều đó có tồn tại không? Nếu có, đằng sau sự sống sẽ không còn là cái chết nữa.

Những câu hỏi và logic vấn đề đã đưa GS.TS Đoàn Xuân Mượu, nguyên Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ TƯ nghiên cứu sâu về lĩnh vực này. Sau hơn 30 năm thai nghén, ông vừa cho ra đời 3 tập sách mang tên: Con người và khoa học về tâm linh. Hiểu sự huyền bí sẽ không còn mê tín dị đoan

Là giáo sư đầu ngành về vi trùng, virus, tại sao ông lại chuyển sang viết sách nghiên cứu “tâm linh”? Ông không sợ người ta cho rằng thế là mê tín dị đoan?

Virus nhỏ lắm. Nó còn nhỏ dưới mức vi khuẩn, mắt không nhìn thấy được. Trong thế giới tự nhiên đã có lúc ta ghi nhận những thứ không nhìn thấy được là vô hình. Trong quá trình nghiên cứu, tôi thấy thế giới vô hình rất sống động, từ đó tôi liên tưởng đến đời sống con người ở những điều ta không nhìn thấy. Cùng với quá trình nghiên cứu y học tôi cũng bắt tay nghiên cứu những điều về con người mà xưa vẫn cho là “bí ẩn”, là mê tín dị đoan… Dưới ánh sáng khoa học, những “bí ẩn” đó không còn chỗ nương thân cho những gì gọi là mê tín, kỳ quặc.

Nói như thế theo tôi hiểu ông công nhận thế giới tâm linh là có thật?

Tôi không dám làm trọng tài trong tất cả những vấn đề mà thế giới đang tranh luận, chưa ngã ngũ. Tôi chỉ là người đọc nhiều, tâm huyết đến lĩnh vực “đời người” và cố gắng đưa những gì chưa biết ra ánh sáng.

Ông có thể nói rõ hơn?

3.000 năm qua, chúng ta tìm hiểu vũ trụ nhiều hơn tìm hiểu chính mình. Do đó, vốn hiểu biết về thế giới tự nhiên lớn hơn hiểu biết chính bản thân, kể cả nguồn gốc chính mình và những khả năng đặc biệt của con người. Trước đây, khoa học chính thống theo mô thức thực chứng duy lý, dựa trên nền tảng vật lý cổ điển của Newton không giải thích được các hiện tượng đặc biệt này. Nó không công nhận thế giới siêu hình và cho rằng nguyên tử là nguyên tố bé nhất. Đến đầu thế kỷ XX xuất hiện mầm mống thuyết tương đối của Enstein thuyết này nói rằng, ngoài nguyên tử là phần tử nhỏ nhất còn có sóng và hạt. Thuyết lượng tử từ đó cũng lên ngôi. Vì vậy, về phương diện xã hội nếu quảng đại quần chúng hiểu biết cơ sở khoa học của sự huyền bí thì sẽ không còn chỗ nương thân cho mê tín dị đoan đang lan tràn rộng rãi như hiện nay. Huyền bí không mâu thuẫn với tự nhiên, chỉ mâu thuẫn với sự hiểu biết của con người về quy luật tự nhiên. Sóng và hạt đều là những thứ ta không sờ, nắm, nhìn thấy được, phải chăng ông muốn nói đến bên kia cuộc sống của con người vẫn tồn tại một thế giới mà ta không sờ nắm được? Tôi cho rằng thế kỷ XXI có nhiều vấn đề tâm linh khiến nhiều người quan tâm. Bộ sách 3 cuốn về con người và thế giới tâm linh của tôi ra đời từ đó, ở đó tôi nhìn nhận con người dưới góc độ khác.

Nguồn gốc loài người bắt nguồn từ năng lượng

Với cách nhìn nhận của ông, thủy tổ của loài người không phải là khỉ?

Dựa vào các thuyết về nguồn gốc con người: thuyết tiến hóa của Darwin, thuyết Mundasep và nhiều học thuyết khác thì thấy, con người không phải từ linh trưởng mà phát triển lên. Con người cũng như động vật, thực vật muôn loài đều do tạo hóa sinh ra, từ cái gọi là chân không vật lý mà theo Phật học thì gọi là “sắc sắc không không”. Mọi sinh vật được tạo hoá sinh ra không phải một cách tình cờ, mà đều có ý định, có mục đích do “Ý thức vũ trụ”. Ý thức có trước, kế hoạch sáng thế có sau, tất cả đều bắt nguồn từ năng lượng. Con người phải do năng lượng sinh ra, bắt đầu từ năng lượng lỏng, năng lượng đặc và thành hình hài con người ngày nay. Thực tế, bằng phương pháp phóng xạ xương người ở Nam Mỹ cách đây hơn 3 triệu năm, phóng xạ xương của loài linh trưởng sau khi tìm kiếm đều không chứng minh được nguồn gốc con người từ linh trưởng. Từ xa xưa xương bàn tay con người đã có hoạt động khôn khéo rồi. Thế giới nhiều nơi đã công nhận con người là sinh vật do vũ trụ sinh ra, con người là hình chiếu của vũ trụ.

Theo logic của ông, con người sẽ được cấu tạo thế nào?

Con người gồm 7 phần gồm thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác là hữu hình, được y học chính thống giảng dạy (đây là năng lượng đặc), 6 phần còn lại có độ đặc khác nhau. Năng lượng càng loãng càng nghiêng dần về phía linh cảm (năng lượng chưa phải tế vi). Khi sống, phần năng lượng đặc vẫn còn nhưng khi mất đi thì phần năng lượng đặc mất, các phần năng lượng khác vẫn tồn tại.

Có phải nhờ những phần năng lượng không mất đi mà một số người có khả năng ngoại cảm không? Tuyến tùng ở những người đó phát triển cao hơn bình thường?

Người bình thường ai cũng có tuyến tùng như là dấu vết của con mắt thứ 3 ở giống người tiền sử (hay còn gọi là giác quan thứ 6). Khả năng ngoại cảm không phải do một mình tuyến tùng mà còn liên quan đến các thân thể tế vi. Khả năng ngoại cảm do tạo hoá ban cho, không phải do luyện tập mà có, càng không phải do tuyến tùng phì đại. Khả năng chữa bệnh của một số nhà ngoại cảm, về nguyên tắc và lý thuyết, có thể có. Tuy nhiên không phải đã là nhà ngoại cảm thì đều có khả năng chữa bệnh.

Là bác sĩ Tây y sao ông lại tin tưởng vào cách chữa có vẻ phi khoa học của các nhà ngoại cảm?

Các nhà y học chính thống vốn chữa bệnh cho thân thể vật lý. Tuy nhiên, còn có những dạng bệnh do năng lượng sóng đứng gây nên, chúng đòi hỏi phải có cách tiếp cận khác gọi là y học đa chiều, trong chẩn đoán, tự chẩn đoán, điều trị, tự điều trị, khác với y học chính thống. Trong thực tế chắc có những người mạo danh ngoại cảm cần phải ngăn cản. Bộ sách của tôi là sự cố gắng lý giải những điều chưa biết. Cái biết vốn dĩ hữu hạn, cái chưa biết là cái vô hạn. Tuy nhiên, không phải vì chưa biết mà phủ nhận tất cả một cách hồ đồ.

(sưu tầm)

-
  1. Công năng đặc dị là gì năm 2024

    Tâm linh hay khoa học: Bài học từ một người điên?

Bằng ví dụ từ bản thân mình, người điên đang gợi mở cho chúng ta nhiều điều bổ ích. Phải chăng, chúng ta cần điều chỉnh nhận thức, phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận nghiên cứu tiềm năng và tâm linh con người?

Từ bao thế kỷ nay, trong con mắt của người đời, kẻ bị điên dại thật đáng thương. Người bị điên nặng, mất hết ý thức làm người, trở lại với bản năng sống hoang dại. Họ bỏ nhà đi hoang, ăn mặc lôi thôi lếch thếch, sống nơi đầu đường xó chợ. Thậm chí có kẻ không chiụ mặc quần áo, lảm nhảm những điều vô nghĩa, cười khóc vô cớ, hành xử đầy tính bản năng.

Tuy nhiên quan sát lối sống hoang dã của họ, ta lại thấy có những điều thật đáng kinh ngạc. Họ có làm được những điều rất đặc biệt mà người thường chúng ta không làm được. Những điều làm ta phải ngạc nhiên và suy ngẫm:

1. Họ có thể uống nước ruộng, nước từ các vũng tù đọng. Họ có thể ăn các đồ ăn vứt đi rơi dưới đất hay từ bãi rác cuối chợ. Ấy vậy mà họ không bị đau bụng, đi ngoài! Tại sao ?

2. Họ thường không tắm rửa, ngủ ngoài trời gió máy, nơi đầu đường xó chợ. Vậy mà họ không bị cảm cúm! Tại sao?

Cũng theo nghĩa đó, nhiều nhà ngoại cảm, những người có công năng đặc biệt thường trải qua giai đoạn mất hết ý thức như chết lâm sàng, bị sét đánh, ốm thập tử nhất sinh hay điên dại một thời gian, sau đó phát hiện ra mình có công năng đặc biệt mà trước đó không hề có.

Có thể nêu hai ví dụ điển hình mà báo chí đã đăng:

1. Cô Phan Thị Bích Hằng sinh năm 1972 cùng người bạn bị chó dại cắn, cả hai bị điên, người bạn bị chết, riêng cô may mắn sống lại sau khi đã bị chết lâm sàng. Sau đó, cô phát hiện ra mình có khả năng đặc biệt.

2. Cô Phạm Thị Phú (Cậu Cò) sinh năm 1972 cũng bị điên dại. Sau khi khỏi điên, cô phát hiện ra mình có khả năng chữa bệnh bằng các biện phát nắn bóp và dẫm đạp lên cơ thể của người bệnh.

Có thể nêu hai ví dụ điển hình: diễn viên Duy Hậu (bị suy thận) bệnh đã thuyên giảm, sức khỏe phục hồi lên khoảng 10kg, nhà văn Lê Lựu (bệnh tiểu đường, xuất huyết não 3 lần) đã đi lại được, vết loét do tiểu đường đã khô.

Về trường hợp chữa bệnh không dùng thuốc như thế, hiện có nhiều cách lý giải khác nhau. Cô Phú trình bày theo cách lý giải của nhiều nhà khoa học là do cô truyền năng lượng.

Trở lại những quan sát không mới về người điên và trường hợp hình thành khả năng ngoại cảm của một số người, ta thấy có những hoàn cảnh khá tương đồng: những tiềm năng đặc biệt của cơ thể chỉ được giải phóng trong trạng thái con người đã mất hết ý thức, trở về với vô thức, với bản năng gốc gần như tuyệt đối của họ.

Đối với nhiều nhà ngoại cảm hay những người có công năng đặc biệt, sau một thời gian vài năm, cùng với sự phục hồi của ý thức, cấc năng lực đặc biệt đó dần dần mai một (thường là 4 tới 5 năm) mà theo cách nói dân gian “trời chỉ cho ăn lộc đến thế”.

Tất cả những điều đó làm cho chúng ta phải suy ngẫm và nhận thức thêm về tiềm năng và đời sống tâm linh của con người. Lý do nào làm cho trong cùng một cơ thể khi là con người bình thường thì những năng lực thích nghi phi phàm ấy lại không đươc thể hiện. Tại sao chỉ trong trạng thái điên dại, hoặc sau đó, những năng lực đặc biệt ấy mới được giải phóng.

Nói về tiềm năng con người, người ta thường nghĩ tới năng lực tâm linh siêu phàm, tới số phận con người, tới các thế lực siêu nhiên dưới hình thức các vong hồn, các trường năng lượng đặc biệt và các nhà ngoại cảm, các đồng cô bóng cậu có khả năng tiếp xúc được với thế giới của người âm.

Một loạt phạm trù truyền thống của đạo Phật, của dân gian và các phạm trù khoa học hiện đại của triết học, vật lý: thuyết cơ lượng tủ, thuyết tương đối của Einstein, của sinh học (trường sinh học) được đem ra ứng dụng nhưng bức tranh cũng không vì thế mà sáng tỏ hơn. Thế giới tâm linh vốn u tịch vẫn bị mờ ảo bởi sương khói của thời gian và nhận thức cố hữu của con người.

Tiềm năng con người vô cùng đa dạng và to lớn vốn tiềm ẩn ngay trong cơ thể chúng ta, nhưng con người vẫn chưa thấy hết, đặc biệt chưa hiểu biết về cở chế khai mở hoặc khóa lại của chúng. Con người vì các giới hạn đó nên chưa có ý thức khai thác các tiềm năng ấy cho hạnh phúc cuộc sống của họ. Chính điều này gợi cho ta phải suy nghĩ về công tác nghiên cứu tiềm năng vốn tiềm ẩn trong cơ thể con người.

(sưu tầm)

-
  1. Công năng đặc dị là gì năm 2024

    MỖI NGƯỜI CHÚNG TA LÀ MỘT THẾ GIỚI KỲ DIỆU

Thế kỷ thứ 20 đã mở nhiều cánh cửa kỳ diệu cho chúng ta thấy những bí mật của vũ trụ và con người. Ngày nay khoa học đã cho thấy vật chất và tâm linh không phải là hai thứ tách biệt. Chúng liên hệ mật thiết với nhau. Nhiều hiện tượng kỳ lạ xảy ra chung quanh chúng ta chẳng qua là sự tác động qua lại của tinh thần và vật chât. Những gì mà khoa học có thể giải thích được thì chúng ta gọi đó là các hiện tượng tự nhiên. Những gì khoa học chưa giải thích được thì chúng ta gọi những hiện tượng ấy là phép lạ.

Phép Lạ Nơi Vùng Núi Hy Mã Lạp Sơn

Tôn giáo nào cũng thường nói đến phép lạ, những điều lạ lùng mà con người có thể làm được qua sự cầu nguyện, qua sự tu tập các pháp môn bí truyền mà các nhà khoa học chưa có thể giải thích được rõ ràng. Tuy vậy, chúng ta đều biết nhiều hiện tượng gọi là “phép lạ” chỉ là sự đồn đãi vô căn cứ, không thể nào kiểm chứng được có thật hay không.

Bác sĩ Herbert Benson, một chuyên viên nghiên cứu về khả năng của tinh thần con người, đã đọc những tác phẩm của một phụ nữ người Pháp, bà David Neel, tu tập theo Phật giáo Mật Tông rất nhiều năm tại Tây Tạng nói về những thần thông, những phép lạ mà các vị thầy Tây Tạng có thể làm được như ngồi ngoài tuyết giá lạnh mà không cần áo quần, có thể chuyển năng lực tâm linh của mình làm cho người đã chết và thú vật đã chết hay đồ vật chuyển động, có thể chọn con đường tái sanh trong kiếp sau, v.v... Khi được biết ngài Đạt Lai Lạt Ma, được dân chúng Tây Tạng tôn xưng Ngài là vị Phật sống, đến tị nạn cùng với các vị cao tăng ở vùng Dharmashla thuộc khu vực núi Hy Mã Lạp Sơn, bác sĩ Benson muốn thực hiện công việc nghiên cứu một cách khoa học khả năng kỳ diệu của tinh thần hay tâm thức con người tác động vào đời sống thể chất của họ.

Điều mà bác sĩ Benson, chuyên viên nghiên cứu về sự tác động của tinh thần làm thay đổi các tình trạng thể chất, thích thú và mong muốn tìm hiểu là cách các vị cao tăng Mật Tông làm cho nhiệt độ da của họ tăng lên để chống lại giá rét theo phép tu gọi là Tam Muội Hỏa hay Tummo. Khi thực hành pháp môn này, các vị cao tăng ở trong một trạng thái an vui, hạnh phúc bao la và thân thể của họ ấm áp vô cùng, tuyết giá không làm cho họ bị cóng lạnh dù cho họ không mặc áo quần trong cái lạnh cắt da dưới không độ Fahreinheit hay 18 độ dưới không độ bách phân.

Phép Lạ Hiện Rõ Dưới Con Mắt Của Khoa Học

Vào đầu năm 1985, ban nghiên cứu thuộc trường đại học Harvard nói trên đã cử toán chuyên viên nghiên cứu cùng quay phim để ghi nhận thật sự sự thực hành cùng kết quả của pháp môn Tam Muội Hỏa này. Nhóm chuyên viên nghiên cứu đó đến một tu viện Tây Tạng thuộc vùng thung lũng Kalu phía Bắc Ấn Độ vào tháng hai 1985. Các vị cao tăng của tu viện thực hành một nghi lễ đặc biệt. Nhiệt độ trong phòng lúc đó là 40 độ F (khoảng 8 độ bách phân). Vào lúc 3 giờ sáng, mười hai vị tu sĩ Phật giáo Mật Tông tiến vào phòng, nơi các máy quay phim đã thiết trí. Họ cởi tăng bào ra và chỉ còn chiếc khố. Các vị đó ngồi theo thế thiền tọa trên nền nhà. Họ lấy các tấm vải chiều dài là ba bộ, chiều ngang là sáu bộ (gần một thước chiều ngang và hai thước chiều dài) nhúng vào nước rảy cho hết nước thừa rồi quấn quanh phía thân trên của họ. Vải ướt dính vào da và làm cho da của họ hiện rõ sau làn vải. Theo bác sĩ Benson, nếu chúng ta, những người mạnh khỏe, để thân thể ở trần trong khí hậu như thế thì người sẽ run lên vì lạnh. Những vị thầy ấy vẫn thản nhiên tĩnh tọa.

Sau đó họ bắt đầu thực hành pháp môn Tam Muội Hỏa. Một hiện tượng kỳ lạ bắt đầu xuất hiện trong vòng năm phút sau đó: Các miếng vải thấm nước bắt đầu bốc hơi và càng lúc hơi nước càng nhiều. Hơi nước bốc lên mịt mù cả phòng làm cho các ống kính thu hình bị mờ nên các chuyên viên thu hình phải chùi ống kính luôn. Từ ba mươi cho đến bốn mươi lăm phút, các miếng vải ướt được hơi nóng từ thân các vị thầy Mật Tông làm khô hẳn.

Các vị thầy đó lại nhúng khăn vào nước, rảy bớt nước thừa và quấn vải ướt quanh người. Ba mươi phút sau các tấm vải ấy lại khô ráo. Và cứ như thế họ tiếp tục thêm nhiều lần nữa. Trong suốt buổi thực hành pháp môn làm gia tăng nhiệt độ nói trên, không có một vị nào tỏ ra bị rét hay run vì lạnh cũng như có một dấu hiệu khó chịu nào.

Bác sĩ Benson cho rằng các vị tu sĩ nói trên thực hành được phép lạ đó nhờ cách tu tập, ngồi thiền, thân tâm thoải mái, tin tưởng vào những lời dạy trong đạo Phật, v.v... Những điều trên tạo ra một sự thay đổi sâu xa về thân thể cũng như tâm thần của họ làm cho cơ thể họ tạo ra sức ấm giúp họ không bị cóng lạnh và tê liệt trong nhiệt độ khắc nghiệt trong thời gian lâu dài như vậy.

Cách Thực Hành Tam Muội Hỏa

Các vị tu sĩ Phật giáo trên đã thực hành một trong sáu pháp môn mầu nhiệm gọi là sáu phép thần thông của ngài Đại Sư Naropa truyền dạy gồm có:

1. Tam Muội Hỏa, pháp môn tu tập làm khai mở luồng hỏa hầu, đưa đến khả năng làm tăng nhiệt độ cơ thể.

2. Thiền quán về thân giả hợp, huyễn mộng thân, để thấy thân chân thật hay Chân thân.

3. Thiền quán về mộng, pháp môn thực hành để biết các điều trong giấc mộng, làm hết các ác mộng cùng chi phối hay thay đổi giấc mộng trở thành tốt đẹp theo ý mình.

4. Thiền quán về ánh sáng tỏa chiếu từ chốn rỗng lặng, rộng lớn, để sống trong niềm an vui kỳ diệu.

5. Thiền quán về Thân Trung Ấm, thần thức (thường gọi là linh hồn) chúng ta khi vừa mới qua đời và trước khi đầu thai thân người mới, để không bị sợ hãi và an nhiên tự tại lúc đối diện với cái chết, đồng thời làm quen với ánh sáng rực rỡ và mầu nhiệm cùng hình ảnh của chư Phật hiện ra để tiếp độ Thân Trung Ấm về cõi Cực Lạc.

6. Pháp môn chuyển thần thức để thọ sanh theo như ý muốn, chọn nơi chốn đầu thai cùng gia đình nào họ muốn đầu thai hay quay về với thế giới chư Phật, thế giới của nguồn an vui vô cùng hay Cực Lạc, thế giới của sự bình an, trong lành, hạnh phúc vô lượng vô biên hay Tịnh Độ, hoặc thế giới chân thật tuyệt đối được gọi là chốn Niết Bàn.

Chúng ta thử tìm hiểu các thực hành Tam Muội Hỏa, một trong sáu phép thần thông nói trên.

Vị tu sĩ Mật Tông Phật Giáo trước hết phải lạy Phật, trì chú, tụng kinh, nguyện làm các điều lành, ăn năn sám hối các điều ác đã vô tình hay cố ý làm. Sau đó họ thực hành phép quán đảnh, thấy hình ảnh của các vị Phật và vị thầy của mình trên đỉnh đầu. Phép quán đảnh này phải do một Quán Đảnh Sư, một vị thầy đã nhận được phép Quán Đảnh truyền cho mới linh nghiệm.

Sau thời gian thuần thục với lối thở đặc biệt, quán tưởng các hình ảnh chư Phật, trì chú, người tu quán thấy thân mình như thân của vị Phật, họ quán thấy thân vị Phật tử nhỏ như một hạt cải đến lớn như vũ trụ bao la. Tiếp đến họ quán tưởng đến các Bảo Liên Hoa (Chakra) cùng các luồng khí chạy theo các đường kinh mạch chạy từ vùng dưới thân đến luân xa giữa hai chân mày, quán thấy toàn thân rỗng lặng và quán thấy lửa trong thân. Phương pháp tu tập rất công phu để khai thông kinh mạch và khai mở các Bảo Liên Hoa, gia tăng thần lực và đưa đến kết quả kỳ diệu của pháp môn Tam Muội Hỏa nói trên.

Điều ấy khiến cho các nhà nghiên cứu dù đặt nặng sự giải thích trong phạm vi khoa học cũng thừa nhận rằng tinh thần có thể làm chuyển đổi cách phản ứng của thân thể mà pháp môn Tam Muội Hỏa là một trường hợp cụ thể nhất mà khoa học tân tiến ngày nay có thể khảo sát một cách rõ ràng từ đầu đến cuối và lập đi lập lại nhiều lần vẫn thấy nguyên nhân, tức là sự thực hành tu tập (nhân) và kết quả đắc được thần thông (quả), không sai biệt.

Sự kiện nói trên tuy rất giản dị đối với các vị tu sĩ Phật giáo nhưng đối với khoa học chữa trị bệnh tật con người đó là một bằng chứng rất quan trọng về mặt thực hành cách làm cho tinh thần an vui và thân thể khỏe mạnh cũng như cách vận dụng tinh thần, trong đó có niềm tin vào việc chữa trị các bệnh tật từ bệnh cảm cúm đến các bệnh ngặt nghèo như bệnh tim, ung thư và các chứng nan y khác. Ngày nay, hàng trăm bác sĩ trên thế giới đã sử dụng phương pháp thiền quán, quán tưởng, cầu nguyện hay biểu lộ những ước muốn chữa trị thành công nhiều chứng bệnh nan y. Đó là một sự thay đổi mới mẻ trong khoa học chữa trị bệnh tật tân tiến. Áp dụng những lời dạy bảo của các thánh nhân từ ngàn năm trước.

Biết Thật Sự Mình Muốn Gì

Đạo Phật nhấn mạnh đến tính cách liên hệ của mọi sự vật, mọi hiện tượng theo cái thấy biết chân thật về tính cách không hai, không riêng biệt (bất nhị) của mọi thứ (vạn pháp) như sau:

“Cái này có vì cái kia có,

Cái này không vì cái kia không

Cái này sanh vì cái kia sanh

Cái này diệt vì cái kia diệt.”

Ý tưởng nói trên dùng để diễn tả tính cách nương tựa vào nhau của các sự vật cũng như các hiện tượng tâm lý để làm cho xuất hiện hay “sinh ra” một điều gì, một thứ gì đó. Như một chiếc bàn là do sự kết hợp của các yếu tố gỗ, người thợ mộc, dụng cụ cưa, bào, đục, và ý muốn tạo ra chiếc bàn. Các yếu tố ấy có nên có chiếc bàn, các yếu tố ấy không có thì chiếc bàn không bao giờ xuất hiện. Hiện nay các nhà thần kinh học nhận thấy hễ bộ óc chúng ta có những ý tưởng tích cực cùng sự vui vẻ thì một số các chất hóa học tốt được tạo ra tương ứng với sự tích cực và vui vẻ đó. Nếu các ý tưởng buồn rầu, tiêu cực xuất hiện thì hệ thống miễn nhiễm chống lại bệnh tật bị suy yếu làm thân thể mệt mỏi và ốm đau, chưa kể rất nhiều bịnh không do vi trùng gây nên xuất hiện.

Những điều ấy Đạo Phật dạy là tính cách duyên khởi của mọi sự kiện vật chất hay tinh thần. Duyên khởi là những kết hợp của các thứ khác nhau để tạo ra một thứ, một tình trạng nào đó như chúng ta đã nói ở trên. Khi nói đến thời gian thì chúng ta nghĩ thời gian vốn bình đẳng với mọi người. Một người già, một em bé, một người giàu, một người nghèo, một giờ trôi qua thì vốn giống nhau cho mọi người. Trên thực tế, thời gian của mỗi người vốn khác nhau tùy theo các yếu tố kết hợp lại thành cơ thể của mỗi người như tính cách di truyền, cách ăn uống, sinh hoạt, tánh tình, sự tỉnh thức trong đời sống. Có người chỉ mới bốn mươi tuổi mà trông như ông già bảy mươi. Có những cụ già bảy mươi mà còn trẻ trung, hoạt bát, nhanh nhẹn như người năm mươi tuổi.

Tình Thương Yêu Khai Mở Năng Lực Kỳ Diệu

Hiện nay ở Hoa Kỳ người ta thường nói đến tình thương yêu, có những lớp dạy về tình thương yêu vì sự trống vắng và quạnh quẽ trong đời sống dư thừa vật chất. Trong ngành chữa trị y khoa người ta lại càng thấy rõ tình thương có năng lực chữa trị bệnh tật hỗ trợ cho những thuốc men và kỹ thuật tân tiến hiện nay. Hàng trăm cuốn sách đã được viết ra để hướng dẫn hay nhắc nhở dân chúng về yếu tố quan trọng của tình thương trong việc giáo dục con cái, duy trì sức khỏe, chữa trị bệnh tật cho mình và cho người.

Điều này thật rất quen thuộc với người thực hành đạo Phật vì thực hành đạo Phật là sống với tình thương yêu rộng lớn, sự hiểu biết chân thật và nguồn an vui kỳ diệu nơi chính mỗi chúng ta.

Tình thương yêu rộng lớn đạo Phật gọi là từ bi. Từ là tình thương yêu trong lành, ấm áp, tỏa chiếu hướng đến người khác và mong họ có được sự an vui. Bi là lòng mong muốn giúp đỡ những người đang bị tai ương, ách nạn, đói khổ nói chung là bị khổ đau để họ có được đời sống an lành và tốt đẹp.

Thương yêu và muốn đem lại niềm an vui cho người là một tính tự nhiên sẵn có nơi mỗi chúng ta, đó cũng là chân tâm hay Phật tánh tràn đầy một tình thương yêu trong lành, tỏa chiếu, ấm áp và rộng lớn bao la. Đó là tình thương yêu không điều kiện, không cân nhắc, không mong cầu đáp ứng. Tình thương yêu ấy vốn tự nhiên tỏa sáng.

Chúng ta hãy nghe vị đạo sư Tây Tạng, Tarthang Tulku Rimpoche nói về tình thương yêu đó trong mối tương quan giữa con người:

“Mọi thứ đều liên hệ lẫn nhau một cách lạ lùng. Khi ý thức về điều ấy thì sự liên hệ của chúng ta đặt nền tảng trên tình thương yêu, không phải tình thương yêu cân nhắc, suy tính, mà là một tình thân hữu tự nhiên đối với mọi loài, một sự khai mở cõi lòng do sự thông hiểu tự nhiên về mối liên hệ lẫn nhau đó. Từ đó, những mong muốn về lợi lộc riêng tư sẽ tiêu tan. Không có một vấn đề gì của cá nhân còn lại…

Khi tôi càng tìm hiểu về những vấn đề của người khác thì các vấn đề của tôi càng bị tiêu trừ. Như thế, tìm hiểu các vấn đề người khác vốn rất quan trọng… Sự hiểu biết vấn đề các người khác làm gia tăng sự hiểu biết về chính mình; sự hiểu biết chính mình làm gia tăng lòng từ bi; lòng từ bi làm gia tăng sự hiểu biết người khác. Đó là một vòng tròn chắc nịch mà chúng ta chỉ có thể đi vào bằng cách buông bỏ mối quan tâm về chính những vấn đề của mình.”

Nói khác đi, khi chúng ta khai mở cõi lòng, hướng đến người khác để tìm hiểu những mối lo lắng, sợ hãi, giận hờn và khổ đau của họ thì lòng từ bi, tình thương yêu trong sáng, ấm áp, rộng lớn tràn đầy trong ta. Lúc đó, bao nhiêu những ý tưởng chấp dính vào cái tôi của mình, cái ngã của mình tan biến đi nên mọi thứ lo lắng, sợ hãi, buồn phiền và khổ đau nơi chúng ta cũng đều tan biến theo.

Phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói về sức mạnh của tình thương yêu đó cùng năng lực làm tiêu sạch mọi thứ khổ đau:

“Lòng bi vang tiếng sét

Đức từ rạng nhường mây

Cam lồ mưa pháp gội

Lửa phiền não tưới tắt.”

(sưu tầm)

-
  1. Công năng đặc dị là gì năm 2024

    Ngón tay Phật tổ

Đình chùa làng sau thời gian dài biến thành gò đống,nay lại mọc lên mới mẻ, khang trang như có phép lạ. Không cần bản vẽ thiết kế, không cần tính toán… dân làng người góp công, người góp của, cái liên hợp thờ cúng ấy cứ thế dần dần hiện lên như thể nó vốn có sẵn từ trong tâm linh của con người. Thế mới biết cái sự phá dỡ ngày xưa chẳng qua chỉ là ước lệ, tạm thời. Làng mở hội khánh thành to lắm. Lâu rồi mới lại có một hội làng như thế. Bên ngoài thì cờ phướn phấp phới, bên trong thì ông già, bà cả xúng xính khăn đóng, áo dài. Có cả bóng com lê – caravat tân thời làm cho không khí hơi có vẻ bát nháo cổ kim, lẫn lộn chân giày, chân đất. Song được cái ai cũng vui mừng trước sự yên ổn của cõi tâm linh từ nay lại bắt đầu có nơi, có chốn.

Một người đàn bà rách như xơ mướp, mặt dán đầy những mảnh giấy xanh đỏ tím vàng, vừa múa may vừa nghêu ngao ngoài đường:

“Chẳng qua cũng một mình ta

Bao giờ cho đến con ma cuối cùng.

Bốn bề pháo nổ đì đùng

Mập mờ nhân ảnh mịt mùng núi sông…”

Đó là bà Tâm điên. Khách đã nghe về bà, về cái sự điên của làng này và cả những làng xung quanh. Truyền rằng trong vùng, làng nào cũng có một người bị điên. Tuỳ từng làng, tuỳ hướng đình, hướng chùa mà mỗi nơi điên mỗi kiểu. Anh thì hiền lành vô hại, chỉ lảm nhảm nói cười, anh thì hung hăng bắt nạt trẻ con… Đời nọ nối đời kia, hàng bao năm nay không lúc nào người điên vắng bóng. Lạ một điều bệnh không di truyền, không bẩm sinh. Nỗi bất hạnh ấy có thể rơi vào bất cứ nhà nào, dòng họ nào như thể chỉ cần có sự… kế thừa. Trước khi bà Tâm phát cơn điên, dễ đến nửa năm cái sự điên của làng đứt đoạn. Đó là một việc bất thường. Những ngày ấy dân làng chới với. Ai cũng nơm nớp cái sự nghiệt ngã kia sẽ giáng xuống đầu mình. Trẻ con không dám ra đường, người lớn để ý dò xét nhau từng tý một, anh nọ chỉ mong anh kia điên trước cho mình… nhờ. Thỉnh thoảng có triệu chứng của một người nào đó, cả làng lại thấp thỏm mừng thầm. Giá như cái việc điên kia có thể gắp thăm, bầu bán được. Đằng này nó lại là tai hoạ của Trời. Thiếu một người điên trong làng xem ra gay go. Cái sự nhìn nhau nhiều khi lẫn lộn lung tung cả. Ban đầu người nọ cứ tưởng người kia điên, dần dần đến nghi ngờ cả chính mình, không hiểu mình đang điên hay là không điên đây. Tình thế ngày càng trở nên căng thẳng, mất thăng bằng, đến nỗi cả làng sắp sửa… phát điên thì bà Tâm lên cơn. Dân làng thở phào nhẹ nhõm. Ai cũng như trút được gánh nặng. Trẻ con lại ra đường nô đùa, người lớn lại nhìn nhau âu yếm. Mọi sinh hoạt lập tức trở về trạng thái bình thường. Bấy giờ, làng mới lại chắc chắn được một điều rằng trừ một mình bà Tâm điên ra, còn lại tất cả đều… không điên. Ngày ấy làng cũng mở hội ăn mừng. Nhà ít của thì mổ gà, mổ chó, nhà có của, đông con thậm chí mổ lợn, mổ bò. Không khí đình đám râm ran khắp làng, có cả khách thập phương tam đạo. Điều buồn cười là ngay cả bà Tâm, nay đã trở thành bà Tâm điên, người đã gánh thay cho dân làng nỗi bất hạnh ấy cũng ăn mừng. Bà cũng mổ gà, cũng cúng vái tứ phương, lại còn cố chèo kéo cho được mấy ông hàng xóm. Có vẻ như bà điên ấy là người duy nhất trong làng không biết rằng một nỗi bất hạnh vừa giáng xuống đầu mình, thậm chí ngược lại. Hình như khái niệm về nỗi bất hạnh chỉ tồn tại trong thế giới của những người không điên. Thế là trong cái hội làng tưng bừng, náo nhiệt ngày ấy, một bên là bà Tâm điên, một bên là cả dân làng, hai bên cùng ăn mừng cho những lý do trái ngược nhau. Nếu có một triết gia chứng kiến cảnh ấy, chắc cũng phải lắc đầu mà than rằng không biết bên nào có lý, bên nào xứng đáng phải ăn mừng ở đây…

Đám đông xúm quanh một vật gì đó ở góc khu vườn hoang đầu làng. Xem ra nội dung này không có trong chương trình hội hè đang diễn ra dưới đình. Khách len lỏi vào tận nơi. Thì ra một con trâu vừa sụp xuống hố. Con trâu có vẻ đau đớn lắm. Quả nhiên khi tìm cách bẩy được nó lên thì người ta thấy một lỗ thủng sâu hoắm phía mông đít, máu me nhễ nhại. Dưới hố, cái vật thủ phạm lộ ra nhọn hoắt, đen sì. Mấy người hì hục đem thuổng, cuốc đào lên. Đó là một cái đe lò rèn thuộc loại to ngoại cỡ. Có tiếng nói trong đám đông: “bây giờ mới biết tại sao gọi khu vườn này là vườn lò rèn”. Tự nhiên khách cảm thấy rùng mình như nghe một tiếng gọi xa xăm vọng về từ quá khứ. Chuyện chẳng có gì ầm ĩ nhưng cũng đủ truyền đi khắp làng. Trong một ngõ nhỏ tối tăm phía cuối làng, cụ giáo Khen – ông lão chín mươi tuổi già nhất làng nghe được tin ấy, giật bắn mình lẩm bẩm: “quá khứ không chịu nằm im dưới đất…”. Người vừa báo tin cho cụ kéo theo một đám người tới hỏi cụ về sự tích cái đe cho thỏa chí tò mò. Khách cũng có trong đám người ấy. Sau đây là câu chuyện của cụ giáo:

Khu vườn ấy nguyên là đất của họ Tống. Đó là một dòng họ khoa bảng trong làng. Hầu như đời nào cũng có người đỗ đạt, làm quan. Vào cuối thời Lê mạt, ngoài đời thì trộm cướp đầy đường, trong triều thì mua quan, bán tước công khai thành chợ búa. Họ Tống đời ấy vốn học giỏi, song chán cảnh đời không thèm thi cử, bèn trở về làng mở một cái lò rèn. Một bữa có đám người vác tới một đống sắt thép, đặt rèn hai mươi tám con dao to bản. Dao rèn xong xếp một đống trước cửa. Đêm ấy nghe có tiếng loảng xoảng phát ra từ đống dao, một làn gió thổi qua có mùi tanh tưởi như hệt mùi máu tươi. Họ Tống giật mình bủn rủn, chợt hiểu ra tất cả. Té ra mình vừa làm cái việc rèn dao cho kẻ cướp. Họ Tống định bụng sáng hôm sau sẽ đem chôn hết đống dao rồi đóng cửa bỏ trốn. Không ngờ vừa sáng, đám người kia do một tên chột dẫn đầu đã đến lấy hết mang đi. Tuyệt vọng và đau khổ bởi ý định mở lò rèn để rèn cho đời những cái tử tế, không ngờ lại rèn nên cái ác, họ Tống phẫn chí cạo đầu đi tu. Sau một thời gian trốn mình vào kinh kệ, họ Tống vẫn không sao thoát được tiếng loảng xoảng và cái mùi tanh tưởi kia. Vị sư cụ bèn gọi ra bảo:

- Ta xem tướng nhà thầy khó mà tránh được oan nghiệt. Biết đâu tìm đến giữa cái ác mà có duyên với việc trừ được nó, họa may thanh thản được phần nào.

- Bạch sư cụ – Họ Tống nói – bây giờ thiện ác khó phân, trắng đen lẫn lộn, người làm thiện không tránh khỏi ác, người làm ác lại nhân danh cái thiện. Con làm sao phân biệt bây giờ?

Sư cụ nói:

- Chính vì lẫn lộn thiện ác, trắng đen nên mới gọi là loạn. Còn như phân biệt thiện ác rõ ràng, thì đã là yên rồi. Chẳng qua loạn với yên chỉ khác nhau chỗ đó mà thôi. Chi bằng định được tâm mình, bền được chí mình thì mọi thứ cuối cùng đều có cơ may minh bạch cả.

Thế là họ Tống ra đi, lần theo dấu vết của băng cướp tên Chột. Hễ nghe tin chúng vừa gây án ở đâu là họ Tống lại tức tốc tìm đến. Tới đâu cũng thấy cảnh đầu rơi máu chảy, những thân thể đứt lìa, những vết chém ngang dọc, những sự đập phá tan hoang. Vết chém nào cũng mang dấu ấn lưỡi dao họ Tống như một sự oan nghiệt trớ trêu. Cứ thế hết ngày này sang ngày khác, cuộc săn đuổi biến thành sự chứng kiến tội ác trước sự bất lực của họ Tống. Bọn cướp luôn đi trước một bước. Cho đến một hôm, sau khi đánh cướp ở một làng nọ, bọn cướp không thèm chạy trốn. Chúng tụ tập phè phỡn, chia chác với nhau ngay giữa sân đình. Họ Tống cũng vừa kịp đến nơi. Tên Chột nhận ra bảo:

- Kia chẳng phải là phải thằng thợ rèn ngày trước đó sao? May quá, lũ dao nó rèn nay chém người đã quằn mẻ cả. Hãy lôi cổ nó vào nhập bọn, để nó tiếp tục rèn cho ta những con dao mới.

Họ Tống thân cô đứng giữa bầy sói. Thế là đành phải nhập bọn với sự đinh ninh rằng sẽ chờ cơ hội để ra tay. Chưa biết họ Tống sẽ ra tay bằng cách nào. Nhưng cứ xem cái việc bọn cướp đã vô tình nhập vào trong chúng một cái mầm thiện ấy, biết đâu lại là điềm báo rằng vận của chúng sắp tàn đến nơi.

Đoàn ác thú tiếp tục lên đường, lần này không phải hai mươi tám tên, mà là hai mươi tám cộng một. Chúng cảnh cáo họ Tống rằng không được hó hé xem chúng làm những trò gì trong đêm, nếu bắt được, lập tức sẽ bị giết ngay. Những cuộc cướp bóc lại tiếp tục diễn ra ngay giữa ban ngày ban mặt. Họ Tống lại chịu sự cực hình là chứng kiến tội ác diễn ra ngay trước mắt mình. Cho đến một đêm, lòng hiếu kỳ khiến họ Tống liều mạng theo dõi những việc làm bí ẩn của chúng. Tên Chột lấy từ trong cái hộp màu đỏ một vật cong cong đen sì, gã đặt lên đĩa rồi cả bọn rì rầm khấn khứa. Trong ánh sáng leo lét của mấy ngọn nến, gã khiến cho chiếc đĩa quay tít… Họ Tống đã từng nghe tới cái thần vật chỉ hướng đi ăn cướp của chúng. Đó là ngón tay trỏ của một người chết do bị sét đánh. Chính là cái vật cong cong đen sì kia. Trong lúc làm lễ, nó sẽ trỏ vào cái hướng an toàn cho bọn cướp để hôm sau, cứ theo hướng đó mà ăn cướp, chắc chắn chúng sẽ thành công. Có điều họ Tống chưa biết được rằng trong cuộc hành lễ quái đản ấy, những người chứng kiến phải tuyệt đối chung một ý chí. Cái ác cũng cần phải… nguyên chất. Nếu có sự chứng kiến của một người ngoài cuộc, lập tức ngón tay sẽ trỏ theo hướng ngược lại, hướng diệt thân.

Bọn cướp hùng hổ xông vào đám cưới con một nhà phú hộ trong làng. Chúng vung dao chém tới tấp vào đám người đang bỏ chạy tán loạn. Bất ngờ có người chống cự. Lần đầu tiên có người dám chống cự. Không phải một người, mà nhiều người đồng loạt ra tay. Họ bằng tay không với võ nghệ cực kỳ điêu luyện chống lại những lưỡi dao tàn bạo của bọn cướp. Số là thông gia với ông phú hộ hôm ấy chính là một viên tướng Tây sơn. Biết vùng này có nhiều trộm cướp, ông tướng Tây sơn ấy đã đem theo nhiều thuộc hạ, cải trang làm họ nhà trai đến dự đám cưới. Trong nháy mắt, bọn cướp bị trói gọn, trong đó có cả họ Tống.

Cả bọn hai mươi tám cộng một bị giải về phủ, không cần tra hỏi lôi thôi, viên tướng hạ lệnh chém hết. May sao trong đám nha lại, có người cảm thấy trong bọn cướp có điều gì không ổn. Ông ta gọi họ Tống đến bảo:

- Ta trông ngươi tướng mạo học trò, chắc cũng từng đọc sách thánh hiền. Cớ sao lại khuất thân theo giặc cướp như vậy.

Họ Tống sụt sùi kể lể những việc mình làm, không ân hận việc bị chém, chỉ xin đừng chôn chung với bọn cướp. Cũng may viên tướng Tây sơn là người có từ tâm, liền hoãn riêng việc chém họ Tống lại, sai người đi đón vị sư cụ ngày trước đến làm chứng cho những lời kể của họ Tống.

Được tha về, họ Tống chôn đe chôn bễ, bỏ nghề thợ rèn. Trở thành người chí thú làm ăn và dốc lòng làm việc thiện. Trải mấy đời con cháu, dòng họ ấy nổi tiếng là những người phúc đức. Tất cả đều toàn tâm, toàn ý cứu giúp dân lành như một lời nguyền từ thời ông Tổ. Dân trong vùng từ những kẻ lang thang cơ nhỡ, đến những kẻ khố rách áo ôm, ai ai cũng sẵng sàng được những người họ Tống ra tay tế độ. Song sự đời vốn quay qoắt trớ trêu. Có ai ngờ trong một dòng họ phúc đức dường ấy, đến lúc lại có cái mầm ác len vào. Năm ấy thiên tai, giặc giã giáng xuống khắp nơi, quá nửa làng, nhà nào cũng có người chết đói, người chưa chết thì ngắc ngoải cầm hơi. Họ Tống vốn là những nhà có của ăn, của để. Trước cảnh dân làng đói kém, tất cả họ đều dốc của ra cứu đói. Ngày nào cũng như ngày nào, từ sớm tinh mơ cho đến tận tối mịt, những người họ Tống chia nhau đi khắp làng và cả những làng khác trong vùng, mang cháo đi phát chẩn. Người chuyên nấu cháo đêm đêm là bà vợ ba ông trưởng họ. Nghe các cụ truyền rằng bà ta vốn là một con quỷ dưới âm phủ đầu thai làm người. Công việc của con quỷ này là chuyên nấu cháo lú cho những linh hồn sắp sửa đầu thai ăn cho quên hết chuyện kiếp trước. Nay thấy cái công việc phát chẩn của nhà mình làm cho kho thóc vơi đi trông thấy, có nguy cơ cạn kiệt đến nơi. Bà ta xót của bèn trộn đất sét với khoai dại băm nhuyễn… Đại khái có thành phần na ná như cháo lú trước kia. Những người họ Tống vẫn vô tình đem thứ cháo ấy đi bố thí khắp nơi. Thế là người sắp chết ăn vào chết ngay, người còn sức chỉ được vài hôm rồi cũng chết. Sự chết chóc do thứ cháo ấy gây ra cũng lẫn lộn vào những cái chết do đói, do bệnh tật… Do đó, một thời gian dài không ai phát hiện ra. Họ Tống vẫn tiếp tục gieo rắc thứ cháo ấy đi khắp nơi. Cũng có người do ăn ít mà thoát chết, song không ra điên, ra dại thì cũng mang cái mầm điên dại ấy truyền đến không biết bao nhiêu đời con cháu sau này…

Cho đến một hôm trời đổ mưa, vào sáng sớm, những người khiêng cháo đi qua một cái cầu ván trơn, trượt chân làm đổ cả vò cháo xuống ao. Chỉ mấy tiếng sau, cua cá trong ao nổi lên chết hết. Dân làng kinh ngạc, cả nhà họ Tống kinh ngạc. Cái ao ấy cho đến tận bây giờ cá vẫn không sống được. Ông trưởng họ họ Tống bấy giờ mới hiểu ra sự thật. Ông trở nên điên cuồng, đập phá toàn bộ cơ ngơi rồi bỏ làng ra đi. Họ Tống từ đấy tan tác, vài năm sau thì không còn ai ở lại làng nữa. Không biết bây giờ có còn ai phiêu bạt trong thiên hạ không, nếu có, cứ xem bả vai thì biết. Con trai họ Tống bao giờ cũng có một vết sẹo son hình ngôi sao được chạm bằng dùi nung đỏ từ lúc mới đẻ…

Khách xuống đến chùa thì hội làng đã vãn. Chỉ còn lại lác đác những người đang tất bật dọn dẹp và mấy ông nát rượu dựa cột lè nhè. Nghe nguyện vọng của khách, ông chủ tế của làng hăng hái chạy đi mở cửa chùa. Gian chùa mới cất ẩn dưới tán cây cổ thụ duy nhất còn sót lại từ ngày trước. Cửa vừa mở, Khách như bị lóa mắt bởi thứ ánh sáng vàng chóe hắt ra từ những pho tượng mới cáu đứng ngồi lố nhố bên trong. Trong sự xếp đặt rất có thứ tự, lớp lang ấy, nổi bật lên pho tượng Phật tổ uy nghi, đường bệ ngồi xếp bằng trên tòa sen kê chính giữa gian phòng. Một hồi chuông dóng lên lộng óc. Khách quỳ xuống, tay giơ bó hương khum trước trán, mắt lim dim, miệng lẩm nhẩm: “A di đà phật…”. Không gian đặc quánh mùi hương trầm, lạnh lẽo và trang nghiêm đến rợn người. Khói hương bay lên thẳng tắp như những sợi dây dọi, tít trên cao mới hơi run rẩy một lát trước khi tan hẳn vào thứ ánh sáng mờ ảo, nhá nhem của trần nhà. Có vẻ như cả thế giới phật pháp đang lặng lẽ chứng kiến sự thành tâm của Khách, một kẻ tha phương tìm về đất tổ. Một thoáng rùng mình, Khách chợt cảm thấy toàn thân sởn gai ốc. Có một cử động nào đó vừa diễn ra nơi pho tượng Phật tổ uy nghi trên kia. Khách như bị hút hồn, nhìn trân trân lên pho tượng. Pho tượng mới tinh toàn thân dát vàng bóng loáng. Có gì đó vừa cử động, khách không chỉ nhìn thấy, mà còn cảm thấy rõ ràng. Chợt ánh mắt của Khách dừng lại nơi bàn tay phải của pho tượng, bàn tay đưa trước ngực có ngón trỏ và ngón cái chạm vào nhau. Khách nhìn rõ từng chi tiết, ngón trỏ ấy không được dát vàng như toàn thân pho tượng, nó cũng cong cong, đen sì… Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng, Khách cố gắng trấn tĩnh, giữ mình cho khỏi khuỵu xuống. Có gì nóng bỏng phía bả vai, nơi có một vết sẹo nhỏ hình ngôi sao đang cắn nhoi nhói. Ngoài đường, tiếng hát của bà điên vẫn vọng về thoang thoảng: “bao giờ cho đến con ma cuối cùng…”.

(sưu tầm)

-
  1. Công năng đặc dị là gì năm 2024

    "Kỳ nhân" tâm sự với cây và đi trên lửa

Bác sĩ Dư Quang Châu thông báo với tôi chuyện các học viên cảm xạ có thể đi trên than hồng nóng đến nửa ngàn độ C từ cách đây hơn tháng, nhưng ông chưa muốn công bố rộng rãi, vì chưa tìm ra tác dụng của hành động này. Việc đi trên than hồng sẽ chỉ là trò vui, biểu diễn cho thiên hạ xem như chuyện hút đồ vật, nếu nó không có được lợi ích thiết thực.

Nhưng giờ đây, bác sĩ Châu đã tìm ra lợi ích của việc dẫm chân lên đống than rừng rực cháy. Để đào tạo ra cả ngàn “dị nhân” có thể đi trên than hồng cũng là kỳ công của ông. Từ rất lâu rồi, bác sĩ Châu đã được nghe những câu chuyện huyền bí về người Pà Thẻn và người Dao Đỏ ở Hà Giang, có thể nhảy múa, lăn lộn trên đống than hồng, thậm chí bốc than nghịch chơi.

Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu, cố gắng tìm lời giải thích, song vẫn không hiểu được vì sao người ta lại có khả năng như thế. Chỉ cần nhúng tay, chân vào nồi nước sôi 100 độ C là nhập viện khẩn cấp, đằng này, người ta có thể chạy nhảy, lăn lộn trên đống than hồng có nhiệt độ cao gấp vài lần nước sôi. Tại sao ngọn lửa nung chảy cả nhôm đó, lại không đốt cháy được da thịt? Câu hỏi ấy, cùng với những lời đồn đại huyền bí, đã khiến phong tục nhảy lửa của người Dao Đỏ và người Pà Thèn thêm phần độc đáo, hấp dẫn.

Bác sĩ Dư Quang Châu là nhà khoa học. Ông giảng dạy môn cảm xạ, một môn học nằm giữa ranh giới khoa học và tâm linh, song ông lại chỉ tin vào khoa học thuần túy. Theo ông, những hiện tượng con người chưa hiểu được, là do nền khoa học đương thời của con người chưa giải mã được, chứ hoàn toàn không phải thánh thần, ma quái. Sau vài lần xem người Pà Thẻn và người Dao Đỏ biểu diễn nhảy lửa, bác sĩ Châu tin rằng, ông cũng làm được. Học trò của ông có thể làm được những việc kỳ quái như hút đồ vật, nhắm mắt đọc sách, truyền năng lượng sinh học chữa bệnh, thì không có lý gì không đi được trên đống than hồng.

Để đi đến quá trình thử nghiệm, bác sĩ Châu phải nghiên cứu khá kỹ lưỡng. Tất nhiên, ông phải lôi mình ra làm thí nghiệm.

Sau khi thực hiện bài rung động thư giãn, đưa cơ thể về trạng thái tiềm thức, giống như một dạng thôi miên, quên đi sợ hãi, thì ông không chùn bước trước đống than hồng đỏ rực. Bước chân trên than hồng nhẹ như con thuyền lướt trên sóng, không có cảm giác nóng bỏng. Theo bác sĩ Châu, để không bị bỏng, việc quan trọng nhất là cách đi trên than. Người đi phải bình tĩnh, tự tin, vận khí, bước đều chân, coi việc đi vào đống than hồng như đi vào vườn cây xanh mát đầy hoa trái! Toàn bộ bàn chân phải tiếp xúc đều với than hồng. Nói thì đơn giản, nhưng để những cuộc thử nghiệm đi trên than hồng thành công, có tới 60% học viên phải băng bó, chữa bỏng bàn chân!

Sau khi đi trên than thành công, bác sĩ Châu hướng dẫn kỹ thuật đi cho một nhóm học viên cảm xạ để theo dõi lợi ích của việc đi trên than hồng. Sau một thời gian nghiên cứu, tổng kết, bác sĩ Châu nhận thấy, kết quả to lớn nhất của việc đi trên than hồng, là chiến thắng được chính bản thân mình. Tiếp đó, ông đã ghi nhận được rất nhiều kết quả chữa bệnh.

Gần như 100% cảm xạ viên mắc bệnh thối chân, ra mồ hôi chân, sau khi đi trên than hồng, đã khẳng định khỏi bệnh hoàn toàn. Có cảm xạ viên nói vui rằng, chân anh ta vốn thối đến nỗi, hễ đi giày một ngày, cởi ra, chó ngửi phải tất, 3 ngày không ăn được gì! Thế nhưng, đi trên than hồng một lần, căn bệnh hôi chân khỏi hẳn. Điều này thật lạ lùng, thật kỳ diệu. Theo bác sĩ Châu, việc đi chân trần trên than hồng, trị bệnh thối chân là có cơ sở khoa học hẳn hỏi. Bản chất của bệnh thối chân là do một loại vi khuẩn ký sinh dưới lòng bàn chân gây ra. Để trị bệnh này, bệnh nhân phải sử dụng nhiều loại thuốc và ngâm chân nhiều tháng, vi khuẩn gây thối chân mới chết phần nào. Nhưng chỉ được thời gian, chúng lại hoạt động, sinh sôi trở lại. Nhưng khi đi trên than hồng, loại vi khuẩn này sẽ bị tiêu diệt tận gốc trong chớp mắt, nên bệnh thối chân khỏi ngay. Việc dùng nhiệt độ cao tiêu diệt vi khuẩn cũng giống như các nhà máy chế biến, bảo quản sữa tươi. Chỉ cần phóng nhiệt độ vài trăm độ C, trong thời gian 1/100 giây, cũng tiêu diệt hết vi khuẩn có trong sữa, mà chất lượng sữa không bị biến đổi do nhiệt. Ngoài ra, qua theo dõi, việc đi trên than hồng còn chữa được vô số bệnh như nấm chân, ngứa chân, lạnh bụng, lạnh lưng, đau cột sống… Thậm chí, những bệnh tổ đỉa, á sừng cũng đang có kết quả nhất định. Theo bác sĩ Châu, lòng bàn chân phản xạ nội tạng con người, nên khi có sự tác động tích cực vào lòng bàn chân, thì có thể điều trị được nhiều bệnh. Về điều này, ông đang tiếp tục nghiên cứu sâu rộng.

Sau nhiều ngày ấp ủ, nghiên cứu, cuộc biểu diễn kỳ lạ nhất Việt Nam đã diễn ra: 150 người đến từ Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội, đã đi trên than hồng.

Để buổi biểu diễn thành công, 150 người đã thực hiện những bài tập, mà với con mắt của những người bình thường, thì rất kỳ lạ. Thậm chí, nếu nói là kỳ quái cũng không có gì sai. Trên ngọn đồi Thiên Văn ở quận Kiến An (Hải Phòng), cả trăm người múa may như lên đồng để rèn luyện sức khỏe, lưu thông khí huyết.

Lạ lùng và khó lý giải nhất là bài tập hút năng lượng từ cây. Bác sĩ Châu cho biết, khi con người ở trạng thái tiềm thức, có thể “trò chuyện” được với cây. Cây cối cũng là một dạng sống, nên cây cũng có linh hồn. Khi con người yêu thương cây, hiểu cây, thì cây cũng sẽ hiểu người. Chỉ có đưa cơ thể về trạng thái tiềm thức, con người mới hiểu được giá trị vĩ đại của thiên nhiên, mới hòa đồng tuyệt đối được với thiên nhiên. Con người sẽ không nỡ bẻ một bông hoa, dẫm đạp lên ngọn cỏ nữa. Sau khi rung động thư giãn, đưa cơ thể về trạng thái tiềm thức, các cảm xạ viên nhắm mắt lại và trò chuyện với cây. Không biết có tin được không, nhưng dù họ nhắm tịt mắt, lảo đảo như người say rượu, vẫn đi lại trong rừng như chỗ không người, không hề bị vấp, bị ngã, đâm đụng vào đâu. Mỗi người bị một cây hút chặt. Họ cảm nhận thấy các loại màu sắc từ cây, đi vào cơ thể và chữa bệnh cho người. Bằng giác quan thứ 6, họ cảm nhận xuyên thấu thân cây. Trong hoàn cảnh đó, cây và người hiểu nhau đến nỗi, con người có thể khóc tu tu vì thương xót thiên nhiên đang bị con người tàn phá.

Chứng kiến cảnh con người hòa đồng với thiên nhiên, tôi trộm nghĩ, nếu mỗi con người chúng ta đều được học bài cảm xạ này, thì sẽ không bao giờ có chuyện phá rừng, tàn sát thiên nhiên nữa. Quả là một bài học vô cùng bổ ích.

Sau gần một ngày tập luyện hòa đồng với thiên nhiên, tại Nhà văn hóa Thanh niên Hải Phòng đã diễn ra buổi biểu diễn kỳ lạ nhất từ trước đến nay ở Việt Nam.

4 tạ than hoa, dùng để quạt chả được đốt cháy rừng rực. Đống than đỏ được rải thành con đường dài 5m, dày chừng 15cm. Chiếc máy cảm biến nhiệt đo được độ nóng của than trên 500 độ C. Tôi đứng cách đống than vài mét, mà vẫn bị hơi nóng phả vào rát cả mặt. Nhìn đống than hồng cháy đỏ rực như thế, nóng đến nỗi có thể nung chảy nhôm, tôi trộm nghĩ, chỉ cần đặt chân vào, bàn chân sẽ thành món… chả nướng, chứ làm sao có thể đi qua được.

Thế nhưng, một cảnh tượng lạ lùng đã diễn ra trước mắt: 150 con người, đủ cả già trẻ lớn bé, đàn ông đàn bà, cứ hồn nhiên bước đi trên than hồng. Người xem vây quanh rú lên vì sợ hãi. Phải chăng họ đều là… dị nhân? Hay họ bị ma nhập?

Sau khi thấy cả trăm người bước đi trên than hồng và chỉ có vài người bị bỏng, dù chẳng học cảm xạ ngày nào, song máu nghề nghiệp nổi lên, tôi cũng liều mình đi thử.

Cảm giác nóng ran, tê dại nơi bàn chân thật tuyệt. Như thể máu được bơm nhanh hơn trong hệ thống mao mạch. Nhưng quan trọng hơn là thấy mình tự tin hơn hẳn.

Sau cuộc đi bộ trên than hồng, mỗi người có thể ngộ ra rằng, cơ thể con người vô cùng đặc biệt và bí ẩn. Khả năng của con người là vô hạn. Ngọn lửa sẽ không đốt được bàn chân, nếu nghị lực con người mạnh hơn ngọn lửa. Vậy là, không có chuyện kỳ quái, kinh dị, ma quỷ gì trong những cuộc chân trần đi trên lửa. Việc đi được trên lửa là bình thường, nếu đi đúng cách và được tập luyện kỹ càng.

Không biết, ngoài chuyện đào tạo cả ngàn người có thể hút đồ vật, đi trên lửa, hấp thu năng lượng thiên nhiên để chữa bệnh, bác sĩ Dư Quang Châu còn đào tạo được những “dị nhân” gì nữa không? Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên, nếu một ngày nào đó, bác sĩ Châu gọi điện bảo rằng: Học trò của tớ sẽ bơi trong nước sôi, chạy trên mặt nước, bay trên ngọn cây… (sưu tầm) Lần sửa cuối bởi doccocuukiem, ngày 25-05-2011 lúc 12:08 AM.

-
  1. Pháp luân công

    pháp môn tu luyện hoàn hảo

    -
  2. Công năng đặc dị là gì năm 2024

    Chạy trên mặt nước và bay trên ngọn cậy thì được, nhưng bơi trong nước sôi thì không được, đừng bạn nào dại dột chơi trò đó. Không có bất kể môn công phu nào luyện bằng chiêu tắm nước vôi đang tôi đâu. Còn pháp luân công cũng là một môn công phu rất được tôn trọng ở Trung quốc đó, có một bạn đã gửi bài Pháp luân công cho tôi nhưng mà tôi luyện Định tâm công rồi, không thể trong đầu có hai ông thánh được. Nếu các bạn chơi cờ mà không luyện tâm pháp thì thua là chắc chắn. Một cách đơn giản là hãy đội một chiếc bát trên đầu để chơi cờ, mỗi lần thêm vào một chút nước. Khi bạn chơi xong ván cờ mà bát nước không đổ thì "Ngón tay phật" đó sẽ không là "ngón tay của người bị sét đánh" nữa. mimi gặp ma nhiều rồi nên thấy chyện của doccocuukiem thật là hay và có tính xã hội cao đấy. Thanks you!

    -
  • Công năng đặc dị là gì năm 2024
  • Diễn đàn
  • Giải trí
  • Quán cóc vỉa hè

Công năng đặc dị

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  • BB code đang Bật
  • Smilies đang Bật
  • code đang Bật
  • code is Bật
  • HTML code đang Tắt

Nội quy - Quy định