Đặc điểm của triết học phương Tây cổ trung đại

V. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ

Xã hội Tây âu thời trung cổ được tính từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14

  • Những cuộc khởi nghĩa của nộ lệ và những cuộc đấu tranh giai cấp kịch liệt khác diễn ra trong thời kỳ khủng hoảng của chế độ nộ lệ, kết hợp với những cuộc tấn công của những bộ tộc đã đưa tới sự sụp đổ của chế độ La Mã phương Tây vào thế kỷ thứ IV. Đó là một sự kiện có ý nghĩa thế giới đối với Tây Âu, sự kiện ấy có nghĩa là hình thái nô lệ cổ đại đã chấm dứt và chế độ phong kiến trung cổ ra đời.
  • Nền văn hóa Hi-lạp và La-Mã đã bị thay thế bởi một nền văn hoá mới - văn hoá phong kiến mà cái trục tư tưởng của nó là Thiên chúa giáo.
  • Tuy nhiên, đến khoảng thế kỷ thứ 10, nền kinh tế và văn hoá bắt đầu phát triển. Có đài quan sát thiên văn, “Cuốn sách về bảng toán” [năm 1202] trình bày đầy đủ về cơ sở toán học và đại số học, có kim nam châm áp dụng trong ngành hàng hải. Nhà bác học Rôgie Becon đã nghiên cứu những hiện tượng quang học và thiên văn học. Nửa thế kỷ 13, người ta bắt đầu chế ra được kính đeo mắt, phát minh ra được đồng hồ, cối xay chạy bằng sức gió..v.v..

b. Đặc điểm của triết học Tây Âu thời Trung cổ

  • Đặc điểm thứ nhất: Triết học phụ thuộc vào thần học. Bởi vì xã hội Tây âu thời Trung cổ bị tư tưởng thần quyền thống trị nên nó vùi dập tư tưởng duy vật khoa học của thời cổ đại đã tạo dựng lên. Thực chất triết học thời này là triết học của giai cấp thống trị, là một thứ triết học duy tâm, tôn giáo
  • Đặc điểm thứ hai: Cũng từ đặc điểm thứ nhất mà triết học Tây Âu thời Trung cổ về thực chất là nền triết học biện minh cho tính hợp lý của xã hội thần quyền; đồng thời nó quay lưng lại với tri thức khoa học do đó nó làm kìm hãm sự phát triển của khoa học.

Tuy là “đêm trường Trung cổ” nhưng triết học cũng có bóng dáng của cuộc đấu tranh của phái Duy danh và phái Duy thực. Cuộc đấu tranh của phái “Duy Danh” với phái “Duy Thực” là hiện tượng nổi bật nhất trong lịch sử triết học Trung cổ. Nội dung chủ yếu xoay quanh vần đề bản tính của các khái niệm chung [khi ấy người ta gọi là cái phổ biến]. Họ tranh luận về khái niệm vì xã hội bây giờ bị thần học thống trị nên không thể đi sâu vào bản thể luận mà chỉ đi sâu vào lĩnh vực tư duy, nhận thức luận là chính.

a. Phái Duy Danh

  • Phái này thừa nhận chỉ có sự vật đơn nhất, cá biệt là có thực, còn những cái phổ biến chỉ là cái tên gọi giản đơn mà người ta gán cho các hiện tượng riêng lẻ. Cái chung với tư cách là khái niệm, là bản chất sự vật được lý trí con người trừu tượng hoá khỏi sự vật. Khái niệm chung là những cái TÊN để chỉ một tổng số tương đương của nhiều sự vật và chống lại phái duy thực. Phái Duy Danh cho rằng vật chất tự nó là thế giới hiện thực, không cần phải có những “hình thức tinh thần” nào cả…Đại biểu của phái này là Đơn- XCốt [Duns Scot] [1265- 1308] người Scotland. Về sau này có học trò của ông là Gui LLame D'Occam [1300- 1350] Triết gia người Anh nhưng sống và chết ở Đức.
  • Chủ nghĩa Duy Danh đã góp phần thúc đẩy sự tan rã của chủ nghĩa kinh viện và dọn đường cho sự phát triển của khoa học tự nhiên. Nó đầy mạnh sự hứng thú nhận thức tự nhiên bằng thực nghiệm. Nó góp phần giải phóng khoa học tự nhiên ra khỏi thần học, nó chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và chuẩn bị cho sự phát triển mới của triết học trong thời đại Phục hưng. Mặc dù chủ nghĩa Duy Danh của Occam bị cấm nhưng ở trường đại học Paris vào thế kỷ XiV - XV đã có nhiều người theo trào lưu ấy. Phái Occam ở Paris nghiên cứu toán học, cơ học, thiên văn học và thậm chí đã giải thích về sự vận động của trái đất, một số người trong họ đã khôi phục nguyên tử luận cổ đại.Giáo hội đương thời đã cấm và đốt những tác phẩm của các môn sinh của Occam.

b. Phái duy thực

  • Đại biểu cho phái duy thực làTô- Mát- Đa- Canh [Thomas D'Aquin [1225 -1274] người Ý. Họ cho rằng những cái phổ biến tức khái niệm chung có thực, nó là thực thể tinh thần nào đấy có trước các sự vật. Nói một cách khác: cái cụ thể chỉ là bóng của khái niệm chung: Họ cho rằng cái có trước hết là khái niệm “con người” rồi sau đó mới có sản vật của khái niệm, đó là những con người riêng lẻ. Học thuyết của Tô-Mát-Đa-Canh là học thuyết của chủ nghĩa kinh viện phổ biến nhất hồi ấy [Chữ “Kinh viện” theo tiếng Hi-lap là Scola có nghĩa là “trường học”, muốn nói đến thứ triết học của giai cấp phong kiến thống trị, chiếm vị trí độc quyền thống trị trong giáo dục ở nhà trường].Từ đó suy luận ra thì “Đấng chúa trời” là khái niệm chung - có thật và con người do chúa trời nặn ra là sự thật. Vật chất là một khả năng không xác định và thụ động, chỉ có hình thức tinh thần mới làm cho nó có sự tồn tại thực tế. Con người do chúa trời sinh ra, mọi cái trong giới tự nhiên đều thích hợp: Mặt trời cho con người sức nóng, mưa rơi để đất có nước; mèo sinh ra là để diệt chuột. Động đất và bão táp phá hoại là do chúa trời gây ra để trừng phạt tội lội của người và cảnh cáo người. Tô-Mát-Đa-Canh thừa nhận hệ thống Ptôlêmê lấy quả đất làm trung tâm là trung tâm bất động của thế giới còn mặt trời, mặt trăng quay xung quanh nó. Giới tự nhiên là nền móng của giang sơn nhà trời. [Xét về lịch sử thì triết học của Tô-Mát-Đa-Canh là sự tiếp tục triết học duy tâm của Platon thời cổ đại [cho rằng thế giới hiện thực là cái bóng của ý niệm] và kế tục những tư tưởng của Ô-guýt-xtanh [354 - 430], một giáo chủ, một trụ cột của triết học thần học thời trung cổ. [Ô-guýt-xtanh cho rằng thượng đế sáng tạo ra toàn bộ sự phong phú của giới tự nhiên. Tuy nhiên sau khi được Chúa sáng tạo thì giới tự nhiên vận động theo quy luật riêng của mình. Chúa không còn tồn tại trong các sự vật được cảm biết mà là cái gì huyền bí,hư ảo]]. Như vậy những quan niệm về trật tự bất biến của thế giới bất động ấy thực chất là sự phản ánh rõ rệt kết cấu của xã hội phong kiến. Ph. Angghen viết: “tôn ti trật tự là hình thức lý tưởng của xã hội phong kiến”.

Kết kuận: Đằng sau cuộc đấu tranh giữa phái “Duy danh” và phái “Duy thực” không những ẩn dấu mầm mống của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý mà đó là bước đầu phân chia ranh giới hai khuynh hướng đối lập nhau là giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng ấy. Chủ nghĩa duy vật với đại diện là những nhà tư tưởng tiên tiến, những lực lượng xã hội tiến bộ chống lại thần quyền và tôn giáo, chống lại chế độ phong kiến.

  • Giáo trình Triết học Mác Lênin
  • Đại học An Giang

Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được xem là thành tựu rực rỡ của văn minh phương tây, tạo nên cơ sở xuất phát của triết học châu Âu sau này. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tập trung vào hai chủ đề chính. Thứ nhất là mối liên hệ giữa nguyên nhân và hệ quả, hay nói cách khác, tìm câu trả lời cho câu hỏi phải chăng các sự vật hiện tượng vận động theo một chuỗi nguyên nhân-hệ quả tất yếu khách quan hay chỉ là sự trùng hợp, tình cờ ngẫu nhiên. Thứ hai là bản chất và khởi thủy của thế giới tồn tại. Những đại diện tiêu biểu nhất của nền triết học này là Socrates, Plato, Aristotle và Epicurus.

Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người… Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước phương Đông.

Vì vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người đã nhiều lần đến phương Đông và nhiều vùng đất khác. Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: "Các nhà triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học". Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau: - Triết học thời kỳ tiền Xôcrat [thời kỳ sơ khai] - Triết học thời kỳ Xôcrat [thời kỳ cực thịnh] - Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá

Có thể coi triết học Hy Lạp cổ đại là đỉnh cao của văn minh Hy Lạp, với các đặc trưng cơ bản sau đây:

Triết học Hy Lạp đã có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần. Toàn bộ nền triết học thế giới sau này cũng dựa trên những nền tảng cơ bản đó. Thế giới quan triết học Hy Lap - La Mã thời cổ đại là sự phong phú và đa dạng của các quan niệm Triết học.

Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới việc xây dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa học".

Ngoài ra, triết học Hy Lạp cũng rất coi trọng vấn đề con người.

Lịch sử triết học phương Tây cổ, trung, cận, hiện đại là lịch sử trên hai ngàn năm phát triển của các hệ thống triết học từ Hy Lạp cổ đại đến một số trào lưu triết học hiện đại xuất hiện trong thế kỷ XX.

Ra đời và tồn tại gần một thiên niên kỷ, triết học Hy Lạp cổ đại là toàn bộ những học thuyết đã phát triển trong xã hội chiếm hữu nô lệ cổ Hy Lạp từ thế kỷ VII – IV tr.CN và thời kỳ Hy Lạp hóa từ thế kỷ III – I tr.CN [từ thế kỷ I đến thế kỷ III là thời kỳ quá độ giữa cổ đại và trung cổ].

1. Điều kiện kinh tế – xã hội:

Quá trình hình thành xã hội có giai cấp ở Hy Lạp cổ đại, kéo dài từ thế kỷ XI – VIII tr.CN. Kết quả của quá trình này là làm cho vai trò sở hữu tư nhân của giai cấp quý tộc ở Hy Lạp lớn hơn các nước Cận Đông, làm cho công xã tan rã nhanh, tạo tiền đề để hình thành các nhà nước • thị thành, làm xuất hiện sự đối lập giữa thành thị với nông thôn tạo nên hoạt động buôn bán, trao đổi sản phẩm sôi động trong lòng nhà nước • thị thành, giữa các công xã, trên quy mô cả nước. Kết quả ấy cho thấy quan hệ vật chất giữa các cá nhân mà địa vị xã hội được xác định bởi giá trị tài sản của họ đã thay thế quan hệ mang tính chất tự nhiên cùng huyết thống, gia tộc giữa người với người trước đây. Trong cơ cấu kinh tế – xã hội của nhà nước thị thành, lao động cưỡng bức nô lệ giữ vai trò chủ đạo, nên ta gọi hình thái xã hội Hy Lạp cổ đại là hình thái chiếm hữu nô lệ.

Đặc điểm của chế độ kinh tế, xã hội ở Hy Lạp cổ đại đã đem lại tính chất độc đáo cho một nền văn hóa hết sức phong phú. Nguyên nhân quyết định của sự hưng thịnh nền văn hóa này là phân công giữa lao động trí óc và chân tay. Tầng lớp trí thức ở Hy Lạp cổ đại không còn bị ràng buộc với sự hoạt động phụng sự tôn giáo. Họ xuất thân từ tầng lớp thị dân khá giả, thương gia, chính khách.

2. Sự phân rã của thần thoại và sự xuất hiện triết học:

Thần thoại [tiếng Hy Lạp là Mythologia] là sự phản ánh thực tại một cách hoang đường trong ý thức nguyên thuỷ. Người Hy Lạp cổ đã dùng thần thoại để giải thích những hiện tượng trong tự nhiên và đời sống xã hội.

Những hiện tượng ấy phản ánh vào ý thức tạo thành hình thức lịch sử đầu tiên của thế giới quan, trong đó, tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên chưa được phân đôi. Cùng với sự phát triển của xã hội, thần thoại cũng trải qua những bước phát triển nhất định biểu hiện mức độ trưởng thành của ý thức. Đỉnh cao của sự phát triển ấy chính là sự thay thế hình thức thế giới quan thần thoại bằng thế giới quan mới. Quá trình phát triển ấy ở Hy Lạp bắt đầu từ thời đại Hôme với hai tác phẩm nổi tiếng là Iliat và Ôđixê. Trong các tác phẩm ấy, trước hết ta thấy tính cách các vị thần.

Ở đây thân và người không khác nhau về tính cách. Sau số phận của các vị thần là những thông điệp của cuộc sống, những bài ca về lòng yêu nước, tình cảm vợ chồng, cha mẹ, anh em. Các vị thần cũng mắc phải những thói hư tật xấu như con người: ghen tuông, hiềm khích, đố kỵ, lừa dối… Thứ hai, sự chắp nối các câu chuyện về sinh hoạt giữa người với người, có thể thấy được sự phác thảo sơ lược của Hôme và Hexiết về nguồn gốc thế giới. Nếu ở Hôme, các lực lượng lịch sử – tự nhiên còn ẩn trong vỏ bọc thiên nhiên, thì đến Hexiốt bức tranh sinh thành và biến hóa của vũ trụ đã mang dáng vẻ của một vũ trụ quan sơ khai, Hexist coi vũ trụ được sinh ra từ trạng thái hỗn mang, sau đó hình thành trái đất, trái đất vận động sinh thành các sự vật, hiện tượng tự nhiên. Điều quan trọng của sự xuất hiện sau này của triết học chính là cái trạng thái hỗn mang ấy đã được mô tả như là cơ sở mang tính thực thể vì “mọi thứ ở đó cả đầu lẫn đuôi, cả cái khủng khiếp lẫn cái tăm tối đều nằm cạnh nhau, đều được sinh ra từ trái đất tối tăm, từ đáy biển sâu thẳm, từ bầu trời đầy sao”. Ở đây, trước mặt chúng ta hiện ra hình ảnh tính tất yếu tự nhiên.

Đương nhiên, sự xuất hiện triết học không phải là một quá trình nảy sinh từ thần thoại mà chỉ xuất hiện khi hoạt động của con người có thể dựa vào các khái niệm được hình thành trên cơ sở tích lũy kinh nghiệm từ sản xuất, xã hội, đạo đức phong phú của người Hy Lạp cổ đại. Triết học tách khỏi thần thoại với quá trình hình thành khái niệm lâu dài từ thế kỷ VII tr.CN, Từ các hình tượng thần thoại, nhờ đặc trưng vốn có của triết học là duy lý hóa đã biến đổi thành các khái niệm. Đương nhiên quá trình duy lý hóa thế giới quan thần thoại là quá trình dựa vào tri thức khoa học mà Talet và sau đó là các nhà khoa học tự nhiên khác xây dựng nên. Tri thức toán học, thiên văn có vai trò to lớn trong quá trình duy lý hóa thế giới quan. Người đầu tiên nêu lên thuật ngữ triết học – thuật ngữ mà sau đó được nhiều nhà hiền triết Hy Lạp sử dụng chính là Pitago [khoảng 580 – 500 tr.CN]. Sự xuất hiện thuật ngữ triết học “yêu mến sự thông thái” đã đánh dấu một dạng tri thức thuần tuý lý luận. Đối với các nhà triết học, thì công việc suy xét, suy tư trở thành công việc chủ yếu trong cuộc sống của họ. Các nhà tư tưởng Hy Lạp đã phát triển tư tưởng triết học hết sức phong phú. Chính từ các hình thức có mầm mống mà nẩy nở hầu hết các loại thế giới quan sau này.”

3. Sự kế thừa và phát triển văn hóa Cận Đông:

Lịch sử và lịch sử văn hóa của nó là một bộ phận không tách rời trong lịch sử các nước phương Đông, trước hết và các nước Cận Đông. Vì vậy, muốn nhận thức đúng về nguồn gốc, quá trình phát triển văn hóa vật chất, tinh thần của Hy Lạp thì phải tính đến những ảnh hưởng to lớn và sự giao lưu của văn hóa Hy Lạp với các nước phương Đông.

Vùng Cận Đông có nhiều nước. Các nước thuộc Lưỡng Hà và Ai Cập là phát triển hơn cả. Lưỡng Hà có ba quốc gia lớn là Sumer, Atxiria, Babylon. Trong cuốn Lịch sử của nhà sử học Hy Lạp Hêrôđốt đã mô tả Babylon như

Xem thêm: Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay

một thành phố vượt xa các thành phố khác trên thế giới về sự giàu có và tráng lệ. Người Balylon sống bằng buôn bán. Họ đã vượt qua vịnh Ba Tư chuyên chở hàng hóa từ Ấn Độ về buôn bán với Tiểu Á, Ba Tư, Kiri. Các nhà thông thái và thầy tế ở Babylon hiểu biết nhiều về thiên văn, lập được bản đồ sao, biết dự đoán nguyệt thực và nhật thực. Như vậy, nền văn minh Lưỡng Hà đã tạo nên những giá trị văn hóa như làm xuất hiện trường học đầu tiên trong lịch sử, ra đời cuốn lịch sử và xuất hiện chữ viết đầu tiên của nhân loại. Nhiều môn khoa học cụ thể ra đời như thiên văn học, đại số, y học. Các truyền thuyết về sự hồi sinh từ cõi chết, các bản tình ca, các câu chuyện ngụ ngôn đầu tiên đều xuất hiện ở đây. Hệ thống pháp chế đầu tiên cũng được soạn thảo từ Lưỡng Hà. Tóm lại, nơi đây bắt đầu cuộc sống tinh thần đầu tiên của nhân loại nói chung, phương Tây nói riêng. Ai Cập cổ đại, Vương quốc của các Pharaôn thần thánh, với ba thiên niên kỷ tồn tại đã hình thành một nền văn hóa đặc sắc và hoành tráng phát minh chữ tượng hình, lập niên lịch, khởi đầu việc xác định niên đại đều đặn, những thành tựu to lớn, trong toán học và y học, những Kim Tự Tháp hùng vĩ, nền điêu khắc cách điệu hóa và hoa văn Ai Cập kỳ thú trên các tường thành, vật dụng, đồ gỗ và dụng cụ gia đình. Đó là đóng góp của người cổ đại vào nền văn hóa thế giới nói chung, văn hóa phương Tây nói riêng.

Vào các thế kỷ VIII – VII tr.CN, thông qua hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa với các nước Cận Đông nhất là với Babylon, Ai Cập, người Hy Lạp đã có dịp tiếp xúc, học hỏi và hòa hợp với nền văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập. Nội dung tiến bộ của nền văn hóa cổ đại các nước Cận Đông không mất khỏi kho báu tinh thần của nhân loại mà được nền văn hóa Hy Lạp kế thừa phát triển.

Các điều kiện trên quy định nội dung, tính chất của triết học Hy Lạp cổ đại. Nét đặc thù của triết học Hy Lạp cổ đại là có khuynh hướng nghiêng về thảo luận bản thể, bản tính thế giới, thể hiện chủ nghĩa lý tính, hướng về khoa học ngoại tại, khách quan. Vì vậy, triết học Hy Lạp cổ đại đã chứa đựng mầm mống của tất cả thế giới quan duy vật.

4. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại:

Sự phát triển nội tại của triết học Hy Lạp cổ đại chia làm ba thời kỳ sau:

– Triết học thời kỳ sơ khai thuộc giai đoạn cổ xưa của văn hóa Hy Lạp từ thế kỷ VII – VI tr.CN. Đây là thời kỳ thần thoại Hy Lạp bắt đầu phân rã, triết học thay thế thần thoại, mong muốn tìm tòi giải đáp nghiêm túc, hợp lý cho hai vấn đề chung nhất là tồn tại và nhận thức, Các tri thức khoa học hình thành ở thời kỳ này là cơ sở của quá | trình duy lý hóa các hình tượng thần thoại đa nghĩa, mở hồ, không tái hiện để hình thành các khái niệm. Giai đoạn ban đầu này bắt đầu từ cuối thế kỷ VII tr.CN. Phần lớn các triết gia thời kỳ này tập trung trong các trường phái lớn là Milê, Pitago, Ephezơ và Êlê. Trường phái Milễ có Talét [624 – 547 tr.CN], Anaximandro [610 – 546 tr.CN], Anaximen [585 – 525 tr.CN]. Trường phái Pitago: người sáng lập là Pitago [580 – 500 tr.CN]. Trường phái ÊphezỞ có đại biểu là Heraclít [520 – 460 tr.CN]. Trường phái Êlê có đại biểu là Xênôphan [570 – 479 tr.CN], Pacmenit [540 – 470 tr.CN], Denon [490 – 430 tr.CN].

– Triết học thời cực thịnh thuộc giai đoạn cổ điển của văn hóa Hy Lạp là từ thế kỷ V – IV tr.CN. Các đại biểu tiêu biểu của thời kỳ này là Anaxago [500 – 428 tr.CN], Empêđôclơ [490 – 430 tr.CN], Đêmôcrit [460 – 370 tr.CN], Xôcrát [469 – 399 tr.CN], Platôn [472 – 347 tr.CN], Arixtot [384 – 322 tr.CN]. Triết học thời kỳ cực thịnh một mặt tiếp tục truyền thống thời sơ khai bàn đến bản nguyên, bản tính thế giới, một điểm mới có tính cách mạng ở giai đoạn này là đi sâu bàn đến vấn đề con người, quan hệ giữa con người với tồn tại và thần linh.

– Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa thuộc giai đoạn Hela của văn hóa Hy Lạp từ thế kỷ IV. tr.CN. Khuynh hướng triết học đáng kể nhất trong giai đoạn này là trường phái triết học Êpiquya [341 – 270 tr.CN]. Các triết gia thuộc trường phái Êpiquya đi sâu vào nhận thức luận, đạo đức và những tư tưởng này là cơ sở cho sự hình thành phát triển chủ nghĩa cá nhân.

Video liên quan

Chủ Đề