Đánh giá 2 khổ đầu đây thôn vĩ dạ

Dưới đây là những bài phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để giúp chúng ta hiểu được rõ được nội dung và giá trị nghệ thuật mà Hàn Mặc Tử gửi gắm. Đồng thời đây cũng là tư liệu để các em tham khảo cho các kì thi.

Mục lục bài viết

1.1. Mở bài:

Giới thiệu tác giả tác phẩm, vị trí đoạn trích.

1.2. Thân bài:

Khổ 1: Cảnh vườn thôn Vĩ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

– Câu hỏi tu từ mở đầu mang nhiều sắc thái: tự vấn, trách móc nhẹ nhàng, mời mọc ân cần.

– Ba câu sau gợi vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của thôn Vĩ lúc bình minh: Cảnh hoang sơ, trong trẻo dưới ánh nắng ban mai; người trầm tính, tốt bụng. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết con người và trăn trở của tác giả.

Khổ 2: Cảnh trời, mây, sông và nỗi đau cô đơn, chia ly:

Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay… Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?

– Hai câu đầu bao quát toàn cảnh với hình ảnh mây gió chia cắt hai bên, “nước chảy buồn, hoa ngô đồng đung đưa” gợi một nỗi buồn hiu quạnh.

– Hai câu sau tả cảnh sông nước trong đêm trăng lung linh, huyền ảo, vừa thực vừa mộng. Đằng sau cảnh vật là nỗi đau, sự trăn trở và khát khao cháy bỏng của nhà thơ.

*Nghệ thuật:

– Từ ngữ chọn lọc, độc đáo, hình ảnh giàu sức gợi, có sự đan xen giữa thực và ảo.

Sử dụng hiệu quả các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.

– Câu hỏi tu từ phù hợp với tâm trạng.

– Giọng điệu khi tha thiết, khi đắm say, khi khắc khoải, buồn bã

1.3. Kết bài:

Đoạn thơ kết tinh sự sáng tạo và phong cách nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử, thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ.

2. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất:

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có nhiều sáng tạo trong phong trào Thơ Mới. Xuất phát từ chính tình yêu của mình với Đây thôn Vĩ Dạ – một làng nhỏ bên dòng sông Hương nơi có xứ Huế thơ mộng, trữ tình, Hàn Mặc Tử đã viết nên bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đầy cảm xúc. Đặc biệt, tư tưởng của nhà thơ được thể hiện rõ nét trong hai khổ thơ đầu.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”

Câu thơ mở đầu như một câu hỏi, nhưng ẩn chứa trong đó là một tình cảm rất đỗi dịu dàng, xúc động. Câu hỏi này cũng có sức hấp dẫn khó cưỡng đối với nhà thơ về thôn Vĩ hoặc cũng có thể là sự bối rối của chính tác giả, nỗi niềm thầm kín của nhà thơ khi về thăm thôn Vĩ và người dân làng. Tuy bài thơ không dùng từ “vào thăm” mà dùng từ “đi chơi” chứa đựng sắc thái tự nhiên, thân mật. Hai khổ thơ tiếp theo là hình ảnh thiên nhiên và khu vườn nhỏ thôn Vĩ trong kí ức của nhà thơ.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Có thể thấy, nhà thơ không chỉ miêu tả cảnh vật một cách đơn thuần mà chỉ gợi ra những hình ảnh đẹp nhất, giàu sức gợi nhất của cảnh vật đó. Được ánh ban mai chiếu rọi, những cây cau cao vút như kéo dài thêm nét chân quê, khoáng đạt của thôn Vĩ. Nắng sớm làm đẹp cây cau, nắng sớm trải đều trên cây cau tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thống nhất, là sự hài hòa giữa thiên nhiên và cảnh vật. Câu thơ “Vườn ai xanh như ngọc” khiến người ta có cảm giác như nhà thơ đang dạo chơi trong khu vườn thôn Vĩ. Cách sử dụng màu sắc độc đáo, những tính từ gợi hình như “mướt” với “xanh” và hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” tạo ấn tượng về một khu vườn lung linh, xanh mướt. Màu xanh ngọc bích. Vườn thôn Vĩ với vẻ đẹp mộc mạc trong nắng mai.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Sự xuất hiện đột ngột của con người trong câu thơ “Lá tre che ngang mặt” càng làm cho khung cảnh thêm sinh động, có lẽ đây chính là chủ nhân của khu vườn. Dáng vẻ này có phần ít nói, nhút nhát, khuôn mặt hiền hậu lấp ló sau rặng tre lá. Có thể nói, Hàn Mặc Tử đã miêu tả rõ nét không chỉ con người thôn Vĩ mà cả thiên nhiên, mảnh vườn tươi đẹp, con người chân chất, nhân hậu chỉ gói gọn trong 4 dòng của khổ thơ đầu. Từ khu vườn nhỏ thôn Vĩ, tác giả đưa người đọc vào một thế giới nhẹ nhàng, trang nghiêm nhưng cũng đầy ưu tư, trăn trở của thi nhân.

Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Nỗi buồn chia tay, cảm giác tội lỗi khi chia tay được thể hiện qua câu thơ “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Câu thơ gợi lên nhịp điệu khoan thai, nhẹ nhàng của dòng sông và sự thay đổi của mây, gió. Mây và gió thực chất là một cặp hình ảnh thể hiện mối quan hệ không thể tách rời, nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, thay vì đến với nhau, gió và mây lại đi ngược chiều nhau. Trong thực tế, gió thổi, mây tạo thành sóng nhưng ở đây mây và gió lại tách biệt, điều này hoàn toàn đối lập với cảm xúc của nhà thơ. Mây gió không đồng bộ nên nước không lăn tăn gợn sóng, chỉ buồn nhìn “bông ngô đồng khẽ lay” khẽ đung đưa. Hình ảnh dòng sông tuy đẹp nhưng hoang vắng, lạnh lẽo, vắng vẻ và chất chứa nỗi buồn, sự cô đơn, mất mát của cuộc đời và của thi nhân.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nhà thơ cảm thấy buồn và cô đơn, nhưng không mất hy vọng vào tình yêu và sự đáp trả. Tình yêu của tác giả không chỉ dành cho cô gái thôn Vĩ mà còn dành cho thiên nhiên và con người nơi đây. Cảnh sông trở nên hư ảo, thơ mộng và rạng rỡ, và dòng sông không chỉ là dòng sông nữa mà là dòng sông ánh trăng tràn ngập ánh sáng. Con thuyền không chỉ chở ánh trăng mà còn là niềm hi vọng khiêm nhường của nhà thơ. Câu hỏi “Đêm nay có đưa trăng về kịp không?” thể hiện sự lo lắng, sợ hãi nhưng trong màn sương dày đặc của tuyệt vọng và đau đớn, một niềm hy vọng nhỏ nhoi vẫn cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ. Chỉ có trăng mới hiểu được nỗi niềm thầm kín của nhà thơ, có lẽ vì nhà thơ quá cô đơn, quá trống vắng, hay chờ đợi quá lâu. Bằng việc sử dụng khéo léo các câu hỏi tu từ và ngôn ngữ gợi hình, độc đáo, nhà thơ đã tạo nên những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Nhịp điệu và phép đối được sử dụng để tạo nên sự tương phản trong mỗi câu thơ. Hình ảnh thơ được nhân cách hóa độc đáo tạo nên chất thơ trữ tình độc đáo, sâu sắc.

Qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã mở rộng tầm mắt cho người đọc hiểu thêm về thiên nhiên thơ mộng và con người xứ Huế. Qua đó ta cũng phần nào hiểu được những tâm tư, nỗi buồn sâu thẳm trong lòng tác giả. Một làng quê nhỏ ven sông Hương trở thành một hình ảnh đẹp, sắc nét và đậm chất Huế nhờ ngòi bút của Hàn Mặc Tử.

3. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ấn tượng nhất:

Khi nhận xét về những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới, nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy đã viết: “Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính là dòng lãng mạn thuần túy, thì Xuân Diệu và đặc biệt là Huy Cận là dòng lãng mạn được xâu chuỗi thành biểu tượng thì Hàn Mặc Tử là sự hài hoà của lãng mạn, kì ảo, thậm chí siêu thực”. Thật vậy, mặc dù cuộc đời của Hàn Mặc Tử ngắn ngủi và chịu nhiều đau thương, tuyệt vọng, nhưng nhìn vào thơ anh, người ta vẫn thấy chất chứa tình cảm yêu đời mãnh liệt đến mức quằn quại và đau đớn. Ngoài ra, nét khác biệt trong thơ Hàn Mặc Tử còn là chất lãng mạn pha lẫn phong cách thơ Đường luật xưa cùng với sự phá cách sáng tạo trong phong cách nghệ thuật đã mang đến cho người đọc những vần thơ độc đáo, ấn tượng. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta thấy vẻ đẹp lãng mạn, trong sáng, thuần khiết chân thực nhưng đồng thời cũng là những hình ảnh kỳ dị, điên rồ, siêu thực nhất khiến người đọc phải băn khoăn, suy nghĩ về hồn thơ lạ lùng nhất của thơ Mới. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử, tác phẩm xuất sắc hàng đầu của phong trào Thơ mới, thể hiện gần như trọn vẹn phong cách sáng tác của ông, trong đó ở hai khổ thơ: Mở đầu, người ta thấy một Hàn Mặc Tử với một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống sâu sắc qua bức tranh quê tươi mát, trữ tình.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Hàn Mặc Tử mở đầu tác phẩm bằng một câu hỏi mở rất nhẹ nhàng, rất Huế, mang lại cảm xúc lắng đọng của một bức tranh quê thanh bình và gợi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Chủ ngữ “anh” trong câu thơ khiến người đọc thắc mắc đó có phải là câu hờn dỗi, mối tình của cô gái Huế với chàng trai si tình mãi không thôi bẽn lẽn không chịu bày tỏ sự cảm thông, bỏ mặc chị chờ đợi. Rồi cũng có thể là một lời mời dễ thương của một người con xứ Huế muốn một người bạn phương xa vài lần ghé thăm mảnh đất thơ mộng này. Nhưng rồi, nếu nhìn ở một góc độ khác, có lẽ câu hỏi “Sao em không về thăm thôn Vĩ?” Đó là điều tác giả đang tự vấn mình, tự nhắc mình về một lần về thăm thôn Vĩ sau bao năm xa cách. Hai chữ “không về” gắn liền với cuộc đời đau khổ của Hàn Mặc Tử, đáng thương hơn nó là sự gợi mở về những linh cảm không lành của nhà thơ khi mắc phải căn bệnh phong, tuyệt vọng vì không thể về Huế. Người ta chỉ có thể nhớ về thôn Vĩ và người mình yêu trong những kỉ niệm đẹp nhất.

Có thể nói, câu hỏi tu từ đầu bài thơ không chỉ là nhịp cầu mở ra bức tranh xứ Huế mà còn bộc lộ sâu sắc những trăn trở của tác giả về mảnh đất cố đô. Có tình yêu, cuộc sống và người con gái mà bao thi sĩ thường mơ ước, chỉ tiếc rằng tất cả đã trở thành hư vô trước mặt trái của căn bệnh quái ác. Trong Nỗi nhớ Huế, Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ chân chất, đẹp đẽ để gợi lên bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ nên thơ, trong trẻo và tràn đầy sức sống. Bức tranh mở đầu bằng hình ảnh “nắng” được lặp lại hai lần trong câu thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Đó là buổi bình minh rực rỡ, ánh sáng tràn ngập khắp nơi, chập chờn, xen kẽ qua từng tán cây cau xanh mướt. Hàn Mặc Tử đã vẽ từng nét nhẹ nhàng gợi cảm trong bức tranh quê buổi sáng sớm, bên ánh nắng ấm áp của nắng mới, bên hàng cau thẳng tắp, xanh tươi, giản dị. Hình ảnh “cây cau tỏa nắng” là hình ảnh mà Hàn Mặc Tử dành riêng cho xứ Huế, bởi cây cau là biểu tượng đặc trưng của vùng đất cố đô, luôn vươn mình mạnh mẽ trên nền trời xanh thẳm, đón lấy những tia nắng mặt trời. ấm. Áp lực đầu tiên trong ngày hoàn toàn. Khung cảnh từng tán lá cau xanh tắm mình trong ánh nắng vàng lấp lánh ẩn hiện những giọt sương mai làm cho lòng người thêm khoan khoái, vui tươi, mở ra một bức tranh quê trong lành, thơ mộng. “Nắng mới” là những lời giản dị mà Hàn Mặc Tử viết về buổi bình minh, đó là ánh nắng ban mai trong lành, dịu dàng, không phải nắng trưa oi ả mà là những tia nắng. Ngẫm nghĩ ngoài hình ảnh “mặt trời mới mọc” có lẽ là ẩn dụ cho tâm hồn nghệ sĩ khi cầm trên tay tấm bưu ảnh của cố nhân, một cảm giác dịu dàng và đầy hi vọng.

Trong không gian tràn ngập nắng mới, là sự hiện diện của “vườn ai”, một khu vườn với dáng vẻ trù phú, tươi tốt, mập mạp ở mọi góc cạnh qua hai chữ “thật mát”, đầy gợi cảm. Bên cạnh đó, biện pháp so sánh “xanh như ngọc” cũng mang đến vẻ đẹp nên thơ thực sự cho bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ, khiến người đọc dễ liên tưởng đến hình ảnh một khu vườn Huế non nước, còn nguyên từng tán lá. Đặc biệt từ “ai” trong “vườn ai” gợi chất trữ tình, làm tăng thêm sức sống, sự hòa hợp của con người với thiên nhiên tươi đẹp. Đồng thời, đoạn đầu bài thơ “Lá tre che nền” gợi lên vẻ đẹp của con người xứ Huế chân chất, nhân hậu và nồng hậu. Phong cách “thơ và tranh” lấy vẻ đẹp mong manh, giản dị của lá trúc để làm nổi bật vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng của khuôn mặt con người. Hàn Mặc Tử nhớ về người Huế với vẻ đẹp dịu dàng, đan xen trong ký ức xa xăm là hình ảnh một người phụ nữ Huế với những phẩm chất nổi bật, thủy chung, dịu dàng và một khuôn mặt xinh đẹp, nhân hậu.

Sau những rung cảm yêu đời, lạc quan từ bức tranh thiên nhiên rộn ràng, rực rỡ, Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa người đọc trở về với bức tranh thiên nhiên của cảnh khuya, cảnh đò, cảnh trăng, cảnh vật. Dòng sông Hương phẳng lặng và êm đềm. Từ khung cảnh ngập tràn ánh sáng của bình minh, đến khung cảnh của đêm tối, người ta đã tinh tế nhận ra sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả từ niềm vui sướng tràn trề trong cơ thể, sang sự hoang mang, bất an, nhiều lo lắng, hoang mang trước thiên nhiên hoang lạnh, vắng vẻ.

“Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay… Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hàn Mặc Tử viết về cảnh mây và gió là những thứ luôn đi cùng nhau, mây chuyển theo gió, dường như chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng khi đọc câu thơ “Gió về với gió, mây về với mây” cũng là cảnh của gió và mây nhưng chúng dường như tách biệt, đối lập nhau gợi sự chia ly, đứt đoạn cho Hàn Mặc Tử. là sự tách biệt của tác giả với thế gian, những linh cảm đau đớn trước căn bệnh hiểm nghèo. Đặc biệt, thể thơ tả cảnh tác giả lặp lại hai từ “mây”, “gió” và ngắt đôi câu thơ 4/3 mang đến sự thất vọng, cô đơn khó tả. Dòng sông Hương với hàng nghìn năm lịch sử vẫn hiền hòa, lặng lẽ chứng kiến bao biến cố đau thương của dân tộc, không còn ngỡ ngàng trước những đổi thay của thế cuộc, nhưng khi vào thơ Hàn Mặc Tử, dòng sông như gửi gắm nỗi niềm. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta ngỡ như tác giả đang đứng trước dòng sông Hương, mắt nhìn xa xăm, lòng man mác một nỗi buồn vô tận lan tỏa khắp không gian, đúng với câu “Cảnh nào cũng vậy”.

Nhấn mạnh sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả giữa hai khổ thơ từ vui sướng yêu đời sang buồn bã, tuyệt vọng. Vì quá đau xót, xót xa cho kiếp người bất hạnh, Hàn Mặc Tử đã tìm về với vầng trăng, người bạn tri kỷ của nhà thơ, vẫn gắn bó với ông trong nhiều vần thơ vừa trong sáng vừa lạ lùng. Hình ảnh vầng trăng ở Đây thôn Vĩ Dạ hiện lên thật đẹp và dịu dàng trong câu “Thuyền ai chở bến sông trăng”, ánh trăng vàng nhạt phủ lên con thuyền nan xuôi dòng, lấp lánh trên mặt sông. Ánh trăng sáng. Một khung cảnh thật hư ảo và thân thương dường như đã xua đi phần nào nỗi buồn trong tâm hồn tác giả. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử vẫn không thể quên hết những hoang mang, lo toan cho cuộc đời trong câu thơ “Đêm nay trăng có về không?”, đó là cảm giác băn khoăn, lo lắng, linh cảm chẳng lành. Cuộc đời ngắn ngủi của anh sắp kết thúc. Anh sợ mình không còn kịp nhìn thấy ánh trăng đẹp, không còn nhìn thấy “vầng trăng trắng” của cuộc đời – người con gái xứ Huế đã mang đến cho anh những niềm vui sống, những hy vọng về một tình yêu mới.

Cuộc đời Hàn Mặc Tử thật ngắn ngủi và đau thương, hồn thơ dạt dào bao khát vọng yêu đời nhưng đằng sau đó là nỗi buồn tột cùng. Chính điều đó đã tạo nên một thứ thơ vừa nên thơ, trong sáng đến tột độ, lại cũng vô cùng phức tạp khi thường thấy sự xuất hiện của những yếu tố lạ, lãng mạn và điên như Hoài Thanh, cũng bởi tâm hồn. Thơ Hàn Mặc Tử bình dị. “Một ánh sáng tỏa ra từ một tâm hồn đau đớn tột cùng. Tôi chỉ thấy thấp thoáng một tình yêu không hợp thời… Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử tôi mới thấy được nỗi đau dữ dội ấy. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách viết của Hàn Mặc Tử, vừa đẹp vừa ẩn chứa nỗi buồn tuyệt vọng, thơ từ ấm áp đến lạnh lẽo, cô đơn chỉ trong một khoảnh khắc. những dòng thơ ngắn ngủi, khiến người ta không khỏi băn khoăn, ngậm ngùi cho một cuộc đời nghệ sĩ ngắn ngủi và bất hạnh.

Chủ Đề